Hồ Quý Ly - Chương 04 - Phần 3

Nguyên Dận nhắm mắt lại, và thở dài tiếp. Đến quá nửa đêm, một mảnh giấy nhỏ được đút qua kẽ cửa buồng giam. Nguyên Uyên chồm tới xem mảnh giấy. Vẻn vẹn chỉ có bốn chữ: “Nguyễn Phù bị bắt.” Nguyên Dận run tay lên khi xem mảnh giấy. Nguyên Uyên ôm đầu, ngồi thừ hồi lúc rồi bảo:

- Phù bị bắt, việc lớn hỏng rồi. Mạng sống của đệ và huynh chắc cũng lỏng.

- Đệ hiểu.

- Chắc chắn Quý Ly sẽ không nương tay với chúng ta nữa. Tình hình khác rồi. Phù bị bắt, Quý Ly biết chúng ta liên hệ với phương Bắc, hắn sẽ dùng cực hình để tìm ra những người khác quan hệ với chúng ta.

Nguyên Uyên đi đi lại lại trong phòng giam hồi lâu rồi nói:

- Huynh thế là xong? Huynh đã lớn tuổi, đã có chút chức tước, uy tín, lại quan hệ rộng rãi, Quý Ly ắt phải cho rằng huynh là kẻ cầm đầu, hắn sẽ tập trung vào huynh. Đệ còn ít tuổi, hắn sẽ không tập trung vào đệ, nhưng đệ phải hiểu rằng Quý Ly là người cứng rắn, hắn sẽ không tha cho đệ đâu. Tuy nhiên còn gia đình đệ phải cứu họ; nếu Quý Ly chỉ khép đệ vào tội a dua, gia đình đệ sẽ không bị liên lụy. Vậy nên đệ nhớ tất cả hãy đổ vào đầu huynh, hay khai hết cho huynh...

Nguyên Dận ngồi im rất lâu, rồi thở dài:

- Đệ tiếc? - Nguyên Uyên hỏi.

- Đệ không sợ chết đâu. Nhưng... có lẽ đệ tiếc thật.

- Tiếc gì?

- Tiếc vì sẽ mất bao mạng người mà lại... vô ích.

- Sao lại vô ích?... Đệ nhầm rồi. Từ hơn chục năm nay quyền lực đã rơi hết vào tay phe đảng Quý Ly. Quý Ly chưa lên ngôi, nhưng thực chất đã là vua. Từ đó đến nay đã bao nhiêu cuộc chính biến, âm mưu. Vụ lớn nhất nổ ra đều tiên là vụ vua Trần Phế Đế bị giết cùng với ngự sử Lê A Phu và các tướng quân Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyên Bát Sách. Vụ thứ hai là vụ giết Trang Định Vương Trần Ngạc. Tiếp đó, vụ giết Phan Mãnh và Chu Bỉnh Khuê, hai tướng đóng quân ở Hóa Châu v.v... Tuy họ bị giết nhưng hỏi rằng có vô ích không? Ít nhất, đến nay người dân vẫn nhớ câu nói của Phan Mãnh: “Trời không thể có hai mặt trời. Nước không thể có hai vua.” Bùi Mộng Hoa là nho sĩ tuy phải trốn biệt tích vào nơi thâm sơn cùng cốc và bị Quý Ly truy đuổi nhưng trẻ con Thăng Long vẫn còn nhớ câu hát đồng dao “Thâm hiểm thay! Lê thái sư.” Chống lại bạo tàn là thế. Phải như những đợt sóng, hết đợt này tiếp đến đợt khác. Lịch sử là như vậy. Lịch sử như những đợt sóng điên rồ, quằn quại, hung dữ xô ầm ầm vào nhau để rồi tan hòa vào nhau cho đến lúc một thời thái hòa được thiết lập... Sao lại gọi là vô ích?

Bắt được Nguyễn Phù. Quý Ly vừa lo lắng, vừa mừng rỡ. Lo lắng vì đó là điều ông rất quan tâm. Những người phản đối trong nước là mối lo trực tiếp. Còn nhà Minh ở phương bắc là mối lo gián tiếp nhưng cực kỳ nguy hiểm. Vui mừng, vì điều quan tâm của ông nay đã tìm ra manh mối. Ông cẩn thận sai đóng hàm thiếc vào mồm Nguyễn Phù chờ đem ra đối chứng với Nguyên Uyên. Nhưng khi bị giam vào nhà lao đá, Nguyễn Phù đang đêm đã đập đầu vào vách cứng. Hắn có ý thức về sự nghiêm trọng của vấn đề, và biết mình sẽ bị những cực hình khủng khiếp nên đã dùng hết sức lao đầu vào vách đá. Đầu bị vỡ, hắn hôn mê chẳng còn có ích gì nữa.

- “Dậy đi! Dậy đi...”

Đang đêm, Uyên và Dận bị đánh thức và bị chuyển ngay sang nhà mật giam. Đó là đêm Phù tự tử. Bọn giám ngục ở đây đối xử rất thẳng tay và kỹĩ lưỡng. Họ bắt Nguyên Dận há mồm để đóng hàm thiếc. Dận quắc mắt mắng:

- Chúng tao là bậc tôn thất. Đến chủ các ngươi cũng phải vì nể vài phần. Lũ tiểu nhân. Đừng có hỗn!

Bọn quản tù không nói một lời, vật ngã Dận xuống đất. Dận nghiến răng lại cắn chúng. Lũ quản tù bóp mồm Dận, Dận vẫn không chịu mở mồm. Chúng bịt mũi Dận lại, bóp cổ ằng ặc, cho đến lúc há mồm ra, và chúng tống miếng kim khí lạnh ngắt vào đó rồi quàng giây ra sau gáy khóa chặt lại. Đến lượt Uyên, chúng lễ phép:

- Bẩm đức ông, xin đức ông cho phép chúng con thi hành phận sự.

Uyên không nói một lời, nhắm mắt lại, há mồm ra. Hai người bị giam trong nhà đá, nhưng lần này người ta đề phòng cẩn thận hơn. Chân và tay họ bị cùm cố định. Trước khi cùm, người ta lột quần hai người. Lúc này Uyên và Dận mới biết họ bị giam trên một hầm phân. Sát chỗ ngồi mỗi người có một lỗ hổng để họ có thể đái, là tại chỗ. Và cũng lúc ấy, họ chợt hiểu số phận họ đã được định đoạt xong.

Trước lúc mang ra tra hỏi, Quý Ly gặp hai người. Ông nói:

- Tội các ông, chắc chắn phải giết. Chỉ có điều nếu chịu khai ra ta sẽ ban cho các ông chết nhẹ nhàng hơn, và vợ con các ông sẽ không bị liên lụy.

Hai người im lặng. Thái sư tiếp:

- Các ông là tôn thất nhà Trần, tại sao lại đi cầu cứu nhà Minh, cầu cứu ngoại bang? Nhà Minh thương các ông sao? Các ông chỉ tạo cớ cho họ gây hấn, xâm chiếm nước ta. Mà lạ thật, cứ hễ thất thế, các ông lại cầu ngoại. Mẹ Dương Nhật Lễ lúc mất ngôi chạy sang Chiêm Thành cầu cứu Chế Bồng Nga. Đến Trần Nguyên Diệu khi Trần Phế Đế bị chết cũng lại chạy sang Chiêm Thành xin Chế Bồng Nga mang quân đến giày xéo Thăng Long. Đến lượt các ông, lại chạy sang cầu cứu phương Bắc. Vì quyền lợi của gia đình, của dòng họ mà các ông nỡ thế sao?

Nguyên Uyên ngửng đầu lên:

- Ông là kẻ bạo tàn, tất cả đều được phép, bất kể biện pháp gì. Ông không thấy nhân dân khắp nơi, ngay những nơi hang cùng ngõ hẻm cũng oán thán ông sao?

- Nói vậy, tức thị dân chúng khắp nơi đều ủng hộ tôn thất nhà Trần. Dân vi quý ư?... Nói như vậy tức thị chúng tôi là kẻ ngồi thuyền... và dân chúng sẽ làm con thuyền chúng tôi bị đắm... Vậy hà tất gì các ông không sử dụng những kẻ lật thuyền, mà lại phải móc nối với nhà Minh?

- Ông đừng vội cười... Tôi thất bại... Nhưng sau tôi sẽ có những người khác... Các ông là những bạo chúa - Bạo chúa không bao giờ bền vững lâu dài...

Nguyên Uyên bị tra tấn bằng đủ cực hình, kể cả những cực hình man rợ nhất. Người tra hỏi lần này là Nguyễn Cẩn. Câu hỏi cơ bản nhất chỉ có:

- Để móc nối với nhà Minh, ngoài Nguyễn Phù ra còn có những ai?

Nguyên Uyên nhận hết tội lỗi về mình:

- Chỉ riêng mình tôi có liên hệ với nhà Minh. Nguyễn Phù là người liên lạc của tôi, còn Nguyên Dậu là bạn rượu, bạn chơi bời, ca hát trên hồ Tây. Anh ta không biết gì hết. Có chăng, anh ta chỉ nói vài câu bất mãn. Nhưng, tôi xin nói lại lời cuối cùng: Các người là những bạo chúa. Không có tương lai lâu dài đâu. Sau tôi, sẽ có những người khác...

Những người thân tín của Nguyên Uyên và Nguyên Dậu đều bị xét hỏi, cả đến Cung chính Vương Trần Sư Hiền cũng không ngoại lệ. Ông già điếc được triệu vào gặp Thái sư. Quý Ly nói chuyện với ông bằng cây bút:

- Vương gia có biết Nguyên Uyên và Nguyên Dận đã âm mưu làm chuyện phản nghịch không?

- Chúng vẫn đàn đúm chơi bời, hát hỏng trên Tây Hồ, nào tôi có biết chuyện gì?

- Vương có biết chúng liên hệ với ngoại bang, mời quân Minh vào nước ta không?

- Liên hệ với nhà Minh ư? Sao lại có chuyện tày trời như thế?

Trong cuộc bút đàm ấy, Nguyễn Cẩn đứng sau lưng Quý Ly, lặng lẽ quan sát từng cử chỉ và nét mặt của Sư Hiền. Nửa chừng cuộc đàm thoại, ở ngoài sân, bỗng có một tiếng nổ long trời, nhưng Sư Hiền vẫn bình thản bút đàm. Đó là tiếng nổ của một quả pháo cực lớn. Thái sư Quý Ly muốn biết Sư Hiền điếc thật hay điếc giả. Người mà Quý Ly muốn tìm kiếm là những kẻ chống đối có tầm cỡ những đại thần, những kẻ có khả năng làm minh chủ. Ông muốn tìm con cá to chứ không phải con tép riu như Nguyên Dận. Thử nghiệm quả pháo đùng ấy chứng tỏ Sư Hiền điếc thật. Không có chứng cứ Cung Chính Vương Sư Hiền thoát nạn.

Hồ Quý Ly đã viết tờ dụ nhân danh ông vua con rể Trần Thuận Tông, tuyên đọc trước bá quan:

Phủ quân tướng công Trần Nguyên Uyên xưa kia có chút công lao lúc dẹp loạn Dương Nhật Lễ, nên đã được đức thượng hoàng khen thưởng phong cho chức tước. Nhưng Nguyên Uyên là kẻ kiêu ngạo, bất mãn, cậy công, chẳng chịu sửa mình, đã sa vào vòng rượu chè dâm dật.

Lại cấu kết với Nguyên Dận là kẻ trẻ tuổi ngông cuồng, coi trời bằng vung, cậy mình con nhà dòng dõi, nhân lúc thượng hoàng qua đời, đã bàn bạc với nhau, nói những lời sai trái. Nhưng thế vẫn chưa hết, chúng còn phạm vào tội tày trời, liên hệ với ngoại bang, định rước giặc về giẫm đạp lên non sông gấm vóc của cha ông.

Tổ tiên nhà ta khi xưa, sau khi đức Trần Nhân Tông đại thắng giặc Nguyên, đại định thiên hạ, đặt ra thể lệ: Phàm những kẻ tôn thất mà theo giặc đều phải xóa bỏ quốc tính và xử tội chết. Nay xét Trần Nguyên Uyên, tội ác tày trời, cấu kết với nhà Minh, chứng cứ đã rành rành, nên:

- Thứ nhất tịch thu điền sản.

- Thứ nhì xóa bỏ quốc tính, đổi họ Trần thành họ Mai.

- Tù nay tên nhơ nhớp của nó là Mai Nguyên Uyên.

- Thứ ba xử tội chết.

- Tất cả những kẻ dính líu đền âm mưu của Mai Nguyên Uyên cũng đều xử tội thật nặng.

5

Khi vụ án trở thành nghiêm trọng, thái sư đã chuyển nó từ tay Hồ Nguyên Trừng sang tay Hồ Hán Thương thụ lý; lại bổ dụng Nguyễn Cẩn làm trợ thủ. Hồ Hán Thương, con út của Hồ Quý Ly còn trẻ tuổi, đã được bổ nhiệm làm chức Đô hộ phủ, quản lĩnh công việc ở kinh đô Thăng Long. Hán Thương bảo với thuộc hạ: Vụ án này phải thi hành cho uy nghiêm.

Hán Thương sai Nguyễn Cẩn chuẩn bị bãi hành quyết ngay tại khu tháp Báo Thiên*.

*Khi vua Lê Lợi vây hãm Vương Thông ở Thăng Long, quân Minh phá tháp Báo Thiên lấy đá làm đạn súng thần công. Sau này, thời Pháp thuộc, người Pháp cho đạo thiên chúa xây nhà thờ lớn trên đó.

Năm Bính Thân (1058) vua Lý Thánh Tông cho làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát một vạn hai nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Lại cho xây tháp Đại - thắng - tư thiên mười hai tầng, cao vài chục trượng. Đời vẫn nói “An Nam tứ khí” (bốn công trình lớn ở Đại Việt), thì tháp Báo Thiên là một.

Dân gian vẫn dùng tên Báo Thiên để gọi những gì nằm chung quanh ngôi bảo tháp. Ta có chùa Báo Thiên, chợ Báo Thiên, phường Báo Thiên. Tất cả tháp, chùa, chợ đều quay mặt về hướng đông nhìn ra chiếc hồ lớn màu xanh biếc tên gọi hồ Lục Thủy (đến thời Lê mới đổi tên là hồ Hoàn Kiếm), có nhiều người còn gọi tên hồ cũng là Hồ Báo Thiên. Trước mặt cây tháp, một bãi cỏ rộng chạy dài đến sát mép hồ. Bên kia hồ là những ruộng dâu xanh ngắt trải dài đến tận bờ sông Cái.

Thời Trần, tháp Báo Thiên là một tụ điểm lớn của kinh đô Thăng Long. Ngày tết và tháng giêng, hội chùa Báo Thiên là một lễ hội tưng bừng bậc nhất kinh kỳ. Ngày rằm, mùng một, khách đến lễ chùa cũng đông. Rồi còn chợ nữa, vào những ngày phiên, nhân dân tứ xứ đổ về đây trao đổi, buôn bán. Thời xưa, bãi chợ cũng là nơi Xử chém. “Chém bêu đầu giữa chợ”, sở dĩ nhân dân ta có câu nói cửa miệng như thế chính vì lý do trên. Xưa kia, chưa có phương tiện truyền thông, chợ chính là một nơi thông tin. Người thì xem xử trảm, người thì nhìn thấy hàng cọc bêu đầu được cắm bên cạnh chợ, người ta sẽ đem những điều mắt thấy tai nghe kể với dân làng. Một đồn mười, mười đồn trăm... Chợ chính là tờ báo miệng thời cổ.

Bãi hành quyết được dựng nên ngay cạnh chợ Báo Thiên, phía trước tháp, cạnh hồ Lục Thủy. Kỳ đài được dựng bằng gỗ cao hơn mặt đất chừng một trượng; sau kỳ đài, cắm cờ ngũ hành xanh, đỏ, trắng, tím, vàng; trên kỳ đài có bàn và ghế để các quan ngồi. Dưới kỳ đài quân lính mặc quần áo đen, nẹp đỏ xếp hàng ngay thẳng, binh khí tuốt trần, sáng lòa.

Nhân dân đi chợ trông thấy kỳ đài, đều biết hôm nay có vụ xử quyết lớn. Người ta vội vã mua bán, rồi kéo nhau đến bu đông nghịt quanh bãi hành quyết. Từ sáng sớm, lính đã đóng cọc. căng giây, tạo thành một vòng tròn lớn chùng vài mẫu ruộng. Nhân dân đều mặc đồ đen và đồ nâu vì vẫn chưa mãn tang đức thượng hoàng Nghệ Tông. Bãi pháp trường sầm tối một mầu đen kịt. Lại thêm lũ quạ làm tổ trên những cây gạo cao, hoặc làm tổ ở tầng trên cùng của tòa bảo tháp ngất trời đột nhiên bay ra, liệng vòng tròn trên trời cao, vừa bay vừa kêu ồn ã. Có thể lũ quạ tiên cảm thấy mùi xác chết. Có thể bằng phản xạ, lũ quạ thấy người tụ hợp vòng tròn, chúng biết sắp có hành hình. Dưới đất mầu đen, trên trời cũng lại có những cánh chim mầu đen bay liệng. Tiếng quạ kêu, hình ảnh quạ lượn vòng cũng là một cách báo hiệu để gọi thêm người đến dự. Vào giờ tị, cổng thành phía Nam mở. Hai hàng lính quần áo đỏ vác giáo oai nghiêm bước ra. Sau đó đến con voi khổng lồ. Trên bành voi, quan đô hộ phủ Hồ Hán Thương mặc áo gấm đen ngồi chễm chệ. Viên quản tượng ngồi sau tai voi mặc áo đỏ quần đen, tay cầm cây đòng sắt, miệng hô những tiếng lạ tai để điều khiển con vật khổng lồ. Chiếc lọng che nắng đen xì đung đưa theo nhịp đi của voi, những chiếc tua đen quanh mép lọng uốn éo, oằn oại, như những bàn tay mầu đen đang vẫy, đang múa. Tiếp theo là hai hàng lính áo đỏ, rồi đến trống cái và chiêng lớn. Tiếng tùng tùng trầm trầm và tiếng bi li ngân nga rên rỉ. Cuối cùng, bốn chiếc xe bò kéo chở bốn chiếc cũi lớn đóng gông bốn người tử tù đem ra pháp trường, và một lũ tù giây.

Hôm nay là một cuộc xử lớn, gồm nhiều vụ án. Vụ đầu tiên: vụ tiền giấy. Vừa qua, nhà vua xuống chiếu ban hành tiền giấy “Thiên bảo hội sao” để dùng thay cho tiền đúc bằng đồng. Những cuộc chiến tranh với Chiêm Thành và những cuộc nổi loạn của nông dân liên miên nổ ra khắp nơi đã làm quốc khố trống rỗng.

Hơn nữa, việc khai mỏ đồng cũng bị sút giảm vì thổ phỉ nổi lên ở vùng rừng núi, nên không có đồng đúc tiền.

Quan thái sư Quý Ly, để cứu vãn tình thế, đã ra lệnh cho Vương Nhữ Chu định thể lệ phát hành tiền mới. Đó là những tờ giấy tốt và cứng, trên giấy vẽ hình như sau:

- Loại 10 đồng vẽ rau rong

- Loại 30 đồng vẽ sóng nước

- Loại 1 tiền vẽ đám mây

- Loại 2 tiền vẽ con rùa

- Loại 3 tiền vẽ con lân

- Loại 5 tiền vẽ con phượng

- Loại 1 quan vẽ con rồng.

Rồi ra lệnh đổi tiền: một quan tiền đồng đổi lấy một quan hai tiền giấy.

Lại ban bố kèm theo lệnh xử phạt: Ai làm giấy bạc giả phải xử tội chết. Nhân dân ai còn tàng trữ tiền đồng, hoặc tiêu tiền đồng, đều phải xử như tội làm bạc giả.

Triều thần và dân chúng xì xào phản đối. Chỉ xì xào thôi chứ chưa có ý kiến nào phản đối thực sự. Người ta chỉ phản đối bằng cách tiêu cực. Nhà nghèo chẳng cần nói gì vì lấy đâu ra tiền. Còn nhà giàu nhiều người đang đêm lén lút chôn hàng chum tiền đồng.

Đô hộ phủ Thăng Long, mới rồi, đã bắt được hai tên nho sinh làm giấy bạc giả. Hình quan tra khảo chúng khai ra tên Nhũ Cái. Đến khám nhà Nhũ Cái, nó đã trốn mất. Hồ Nguyên Trừng cho điều tra biết Nhũ Cái đang ở lộ Tam Giang, đó là nơi có những toán cướp nổi lên. Nguyên Trừng muốn bắt toàn bộ dây phản loạn ấy. Nhưng Quý Ly lắc đầu:

- Hình luật phải nghiêm và hiệu quả ngay từ đầu. Không cầu toàn. Cần gì tiếng khen của một chữ nhân. Cốt là hiệu quả. Họ nhà Trần để đất nước này xộc xệch lâu rồi, lúc này cần thiết nhất phải chỉnh cho nó ngay thẳng lại.

Hai tên nho sinh làm bạc giả bị trói vào hai chiếc cọc. Viên quan truyền lệnh đọc lại chiếu về tiền giấy, bố cáo cho mọi người nghe. Tiếp sau đó tuyên đọc tội trạng của chúng. Quan truyền lệnh lui ra, chiêng trống nổi lên. Pháp trường im phăng phắc. Chỉ còn nghe thấy tiếng chiêng trống dục dã rền rĩ. Đao phủ khai đao. Gia đình những kẻ bị nạn khóc rống lên. Lập tức lính ào đến, tóm lấy những kẻ khóc, vả vào mồm họ.

Bắt đầu vụ trọng án thứ hai. Ai cũng biết rõ đó là vụ Nguyên Uyên tư thông với nhà Minh. Viên quan truyền lệnh cầm chiếc loa ra tuyên đọc tờ dụ của nhà vua về tội trạng của Uyên và Dận.

Đúng lúc đó, một tiếng hí rung chuyển từ sau kỳ đài bỗng vang lên, tiếng hí từng hồi dài trầm trầm như căm giận và nức nở. Đó là tiếng con voi Thánh Dực của Hồ Hán Thương cưỡi từ cửa Nam đi ra pháp trường. Con voi bị xích vào cây muỗm cổ thụ phía sau kỳ đài. Lúc này, con Thánh Dực đang giơ vòi lên trời và kêu rống. Người quản trượng sợ hết hồn vì chuyện phá rối bất ngờ của con voi. Nó lồng lộn đi lại, đôi mắt quắc lên giận dữ. Chiếc dây xích sắt rủng rẻng. Người quản tượng phải vội vàng vuốt ve con Thánh Dực. Giống voi ưa dỗ dành. Ông vội hát bài hát dỗ voi, hát rằng:

Ơ con voi rừng!

Ơ con voi hoang!

Nước mắt ròng ròng

Cái vòi ủ rũ

Vểnh tai lên mà nghe ta hát!

Vươn vòi lên mà đón nhành hoa!

Con suối rót rách thương cho ngươi

Con chim “Bắt cô trói cột” thảm thiết thương cho ngươi.

Thèm gì cái chuông đeo cổ.

Thèm gì cái bành voi đỏ.

Phất phơ những lá cờ vàng.

Thèm gì lọng xanh lọng tía

Tiền hô hậu ủng nghênh ngang...

Nghe tiếng hát của người quản tượng con voi như dịu đi, nhưng im tiếng hát, nó lại bực dọc lồng lộn. Người quản tượng cuống quýt chẳng biết làm thế nào. Còn con voi dữ, nó vẫn lừ lừ đôi mắt đỏ, ngẩng đầu lên trời như để tìm kiếm một cái gì. Nó vươn cao vòi hít hít làn không khí trên vòm muỗm. Đôi tai thôi ve vẩy như để lắng nghe một âm thanh nào đó mà tai người không nghe thấy. Nó bỗng chồm hai chân trước lên trời, đứng bằng hai chân sau. Người quản tượng rên rỉ: Thánh Dực ơi là Thánh Dực? Mày điên mất rồi? Mày tìm gì trên trời? Mày thấy gì trên tầng cao?

Con voi đã nhìn thấy, nghe thấy một cái gì đó thật, một cái gì đó mà chẳng ai nhận thấy. Lúc này, tiếng hát dỗ dành của người quản tượng cũng trở nên vô ích. Mắt con voi đã đỏ ngầu. Nó hí lên những tiếng hí dài man rợ, nó giật xích làm cây muỗm rung lên bần bật. Lúc này người ta đã đổ xô tới quanh con vật. Người càng đông con voi càng hung dữ.

Quan đô hộ phủ Hồ Hán Thương cũng lúng túng một lát trước tình thế bất ngờ. Con Thánh Dực do những lái buôn voi Chiêm Thành bán cho ông Nguyễn Trâu Điền. Ông Trâu Điền giỏi y thuật, bố của quan nội tẩm học sinh Nguyễn Cẩn đem con voi dâng thái sư Quý Ly. Quý Ly lại cho Hán Thương. Quan đô hộ phủ không ngờ con voi lại bất kham đến thế. Bất thình lình, Hán Thương chợt nảy ý lạ. Ông truyền lệnh:

- Hãy dẫn con voi vào pháp trường!

Người quản tượng leo lên cây muỗm, rồi nhảy xuống lưng con voi dữ. Xích sắt được tháo. Con voi hùng hổ, sầm sầm đi vào pháp trường. Quan truyền lệnh cẩm loa hô to:

- Tất cả mọi người hãy dãn ra, lùi thật xa. Những tên phản quốc Mai Nguyên Uyên và Mai Nguyên Dận sẽ bị xử tội voi giày.

Con voi mặt đỏ ngầu, xô tới cái cọc trói Nguyên Uyên, lấy vòi cuộn quanh người kẻ tử tù, nhổ bung cả người lẫn cọc, rồi giơ lên trời. Nguyên Uyên hét to. Con voi dập tất cả xuống mặt đất. Người đi xem hãi hùng bưng mặt. Tiếp đó, con vật lấy chân giậm nát, biến tất cả thành một đống nhão nhoét, đỏ lòm. Nguyên Dận run lên bần bật, hắn ta ú ớ không thành tiếng, và tất cả lại xảy ra giống như Nguyên Uyên.

Dân chúng lảng đi dần. Sau lưng họ, vẫn còn vang tiếng hí rùng rợn của con voi say máu.

Từ trại voi ở Núi Voi bên bờ sông Tô Lịch, người ta phái tới một đội năm con voi trận. Năm con voi đã thuần dưỡng lâu ngày ấy vây chặt lấy con Thánh Dực ép buộc nó phải quay về. Con voi dữ bị giam ở Núi Voi ba ngày. Suốt ba ngày đêm ấy, người dân Thăng Long đều nghe thấy tiếng gầm rú của con voi bất kham, nhất là vào ban đêm thanh vắng.

Tiếng voi như báo một điềm lạ. Tiếng voi thảm thiết, rợn người, đã hằn sâu vào óc người dân kinh kỳ. Nhắc đến chuyện con voi, người ta lại nhớ đến Nguyên Uyên. Nhớ đến Nguyên Uyên. người ta lại nhớ đến câu nói của ông ta: “Các ông đừng vội cười... Sau tôi sẽ có những người khác...”

Những bậc trí giả ở Thăng Long ngậm ngùi thở dài:

- Ông ta là người sát thân thành nhân!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3