Hồ Quý Ly - Chương 04 - Phần 2
3
Trong đám tang Trần Nghệ Tông. Ông già điếc là người bi thương nhất. Già điếc tức Cung Chính Vương Trần Sư Hiền. Ông già đầu tóc bạc phơ quỳ lạy trước linh sàng khóc nức lên từng hồi, rồi cái thân xác gầy guộc của ông rung lên bần bật. Ông kêu lên:
- Anh ơi là anh ơi!
Trong tôn ti hoàng tộc, ông là em họ của Nghệ Tông, cùng tuổi với ông vua già.
Trần Nguyên Hàng đứng bên linh cữu, sợ Sư Hiền trong lúc đau xót lỡ ra có điều gì thất thố, bèn gọi:
- Vương huynh? Vương huynh chớ nên quá đỗi bi thương.
Song, ông già điếc có nghe được đâu. Ông vẫn nức nở lắp bắp:
- Anh ơi là anh ơi...
Sau đó, ông gục xuống, ngất xỉu.
Người ta phải cõng ông đem về vương phủ. Việc tôn thất Sư Hiền ngất đi trước linh sàng triều thần không lấy gì làm lạ, bởi vì ông và Nghệ Tông ngoài đạo vua tôi còn có tình anh em đặc biệt thân thiết, thủa trẻ chơi bời với nhau, lúc lớn lên gặp hoạn nạn lại cùng nhau chia sẻ. Lúc vua phường chèo Dương Nhật Lễ cướp ngôi đổi họ nhà Trần, bộ ba Trần Nghệ Tông, Trần Nguyên Đán, Trần Sư Hiền làm đầu não trong công cuộc phục hưng.
Lúc Nguyên Đán sắp chết, hồi mấy năm về trước, Sư Hiền có ra Côn Sơn thăm. Nguyên Đán bảo:
- Tôi sắp về với tổ tiên, ông ở lại nên giữ mình.
Hiền hỏi:
- Không thể cứu vãn được nữa sao?
Đán không trả lời, mà hỏi lại:
- Ông thấy trong con cháu nhà Trần chúng ta hiện nay ai là kẻ anh tài đủ sức xoay đổi thời cuộc.
Hiền ngẫm nghĩ:
- Hiện nay chưa thấy ai.
- Ông thấy nhân dân khắp nước có đói khổ không? Các quan lại và tôn thất nhà Trần có tham lam vơ vét không?
Sư Hiền im lặng không trả lời.
- Ông thấy ở phương Nam, Chế Bồng Nga có kiệt hiệt không? Còn ở phương Bắc, nhà Minh vừa mới lập nghiệp, thế của họ có phải là thế của con rồng vừa mới thức giấc hay không?
Sư Hiền lại im lặng. Ông Đán bảo:
- Lúc này việc nước là quan trọng hơn hết.
Sư Hiền từ đó về nhà trở nên trầm lặng. Con ông là Nguyên Dận ít lâu nay, vẫn hay lui tới phủ tướng công Nguyên Uyên. Hai người vẫn rủ nhau lên Hồ Tây, thả thuyền trên mặt nước, uống rượu, ngâm thơ, ca hát.
Mới đầu, Sư Hiền yên tâm vì nghĩ rằng con mình chỉ chơi bời kiểu phong lưu tài tử. Nhưng rồi ông nghe bọn gia nhân xì xào rằng Uyên và Dận lúc tửu hứng nói năng chẳng giữ gìn. Sư Hiền gọi Dận đến răn dạy:
- Anh Dận, anh có biết thời buổi này là thời gì không?
- Thưa cha, ai chẳng rõ đó là thời bất ổn.
- Anh hãy nhớ, người xưa nói đó là “thời Thiên túy.” Hay thật “Thiên túy.” Trời mà cũng say, thì con chèo thuyền trên Hồ Tây, uống rượu thâu đêm suốt sáng cũng phải lắm. Trời đã say, ai còn dám không say.
- Các người đú đởn ra sao trên Hồ Tây, ta biết hết. Cái lão Nguyên Uyên tằng tịu với bà hoàng hậu góa chồng (vợ Phế Đế) làm đức thượng hoàng giận. Ta nghe nói ngài nổi cơn lôi đình đem mụ hoàng hậu ngứa nghề gả cho Nguyên Hàng rồi. Các người hãy liệu hồn?
Nguyên Dận im lặng. Sư Hiền hạ giọng:
- Ừ, thì cái chuyện đú đởn đó có thể tha thứ được. Nhưng còn việc các người ba hoa những chuyện quốc sự ta thấy không ổn.
Nguyên Dận đang im lặng bỗng bừng bừng sôi nổi:
- Cha ơi? Cơ nghiệp nhà Trần, cơ nghiệp của tổ tiên chúng ta đang như ngàn cân treo sợi tóc. Cha nỡ bảo con hãy ngậm miệng bàng quan sao? Phủ quân tướng công vốn ưu thời mẫn thế. Việc ông có tình ý với bà hoàng hậu góa chỉ là chuyện trai tài gái sắc. Vả lại...
- Nói hay lắm! Ta hiểu Nguyên Uyên định che mặt người đời. Định dùng sự chơi bời phóng đãng làm bức màn che việc lớn. Mà thượng hoàng chủng đâu có ngờ nghệch. Ngài nổi giận lôi đình, gả bà hoàng hậu ngứa nghề cho Nguyên Hàng anh trai Nguyên Uyên, bên ngoài như để làm nhục Nguyên Uyên, nhưng thực chất để che chở cho Uyên. Làm cho mọi người tin rằng Nguyên Uyên là kẻ phóng đãng, tạo cho Uyên bức lá chắn để hoạt động. Nhưng ông vua già đã nhầm. Không che mắt được Quý Ly đâu. Tay chân ông ta ở khắp nơi. Ta chẳng lạ gì Nguyên Uyên. Hồi loạn vua phường chèo, ông ta là người nhiệt tâm đắc lực. Nhưng hắn không biết thời thế lúc này khác xa thời loạn Nhật Lễ. Phải vô cùng đầu óc. Mà đầu óc các người thì ra sao?
- Hãy cứ làm! Sẽ ra đầu óc.
- Đầu óc con có bằng đầu óc ông Nguyên Đán không?
- Ông ta giỏi, song già rồi. Ông ta lại rút lui về ở ẩn, bỏ mặc cơ nghiệp tổ tiên. Ông ta là người hèn nhát. Lại kết giao với gian thần. Ông ta là kẻ có tội.
- Công ư? Tội ư? Giữa dòng nước xoáy, đâu là thị đâu là phi, đâu là công đâu là tội? Liệu ba trăm năm sau người đời đã đánh giá được việc làm của chúng ta chưa? Hay phải đến một ngàn năm nữa? À, ta hiểu ý con. Có phải giữa dòng nước xoáy hôm nay, ta không phân biệt nổi đen trắng, thì ta cứ làm đi. Làm những gì mà trái tim ta, khối óc ta cho là đúng. Nếu việc thành đời sẽ cho ta là trắng. Còn nếu bại thì... ôi thôi... còn gì nữa... lúc đó ta đã nằm yên dưới ba thước đất... lúc đó đen với trắng cũng là chuyện nực cười... Nguyên Dận lúc này càng hào hứng sôi nổi:
- Chúng con sẽ lôi kéo quan Thái bảo Nguyên Hàng, quan thượng tướng Khát Chân... quan thượng thư Hà Đức Lân...
- Họ sẽ theo các người ư?
- Chắc là thế vì chúng con là chánh nghĩa; Vì chúng con là trung hiếu - Mà cha ơi! - Giọng Dận hạ xuống. - Cha có biết không, chúng con đã liên hệ được với nhà Minh, nhà Minh sẽ giúp chúng ta... và nếu cần...
Sư Hiền giật bắn lên:
- Người phương Bắc sẽ thương xót chúng ta ư? Hay người phương Nam sẽ đau đớn thay cho dân ta? Ôi chao? Mê muội các người đã mê muội đến thế rồi sao? Vết nhơ nào ta cũng cam chịu, nhưng vết nhơ ấy thì đừng con ơi? Đừng đẩy sự tức giận thành cuồng nộ. Đừng đẩy sự tranh bá đồ vương thành niềm tuyệt hận vô sỉ. Con tự lừa dối mình rằng con sẽ lợi dụng được họ. Chắc con muốn như Tấn Văn Công nước Tấn chạy sang nước Tần, nhờ tay Tần Mục công để phục hồi nước Tấn. Con nên nhớ Tấn và Tần ngày xưa chỉ là hai tiểu quốc nói cùng một thứ tiếng. Còn như Việt và Hán là hai nước riêng biệt, văn hiến khác nhau. Vả lại, lúc đó thời xuân thu, cách xa ta gần hai ngàn năm... Tỉnh lại đi con ơi?...
- Ai tỉnh, ai say? Hay chính cha đã say mà con đang tỉnh. Ai mê muội ai sáng suốt? Cha ơi con không nỡ nói... nhưng quả thực... cha đã già rồi... Cha đã nói rồi đó thời nay là thời “thiên túy”, trời đất quay cuồng... thời của những kẻ cực say... thời của sự nghiệp... ai say nhiều sẽ nên sự nghiệp... thời của tuổi trẻ... vì chỉ tuổi trẻ mới dám uống cả vò, ăn cả bã, húp cả cái... con xin cúi lạy cha... hãy tha lỗi cho con... Cha ạ, đêm nay con sẽ thả thuyền trên Tây hồ, con sẽ uống rượu thâu đêm.
Đêm hôm ấy, Sư Hiền lên cơn sốt. Ông lâm bệnh nặng. Nằm liệt giường mấy tháng trời, lúc ngồi dậy được, ông mất thính giác, điếc đặc và người đời gọi ông là lão Điếc.
Sau những ngày chôn cất Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông, Thăng Long đúng là một kinh đô tang tóc. Toàn dân mặc đồ đen. Ai không có quần áo đen không dám ra đường. Chỉ những kẻ nghèo hèn phải hàng ngày kiếm kế sinh nhai mà không có đồ đen mới được phép mặc quần áo nâu, nhưng phải kết một dải khăn trắng trên đầu. Quan Thái sư Quý Ly sai cấm binh đứng ở các đầu đường, đôn đốc nhân dân phải chấp hành tang phục và những nguyên tắc tang lễ khác. Các trà đình, tửu quán vang ngắt chẳng người lai vãng. Các kỹ viện, thanh lâu bặt tiếng đàn, không thấy thấp thoáng áo xanh áo đỏ. Người đi đường cúi đầu lầm lũi, chẳng ai dám chuyện trò rộn ràng hoặc cười đùa vui vẻ. Một toán thanh niên con nhà giàu có, cậy của, uống rượu say đi nghênh ngang ở phường Phục Cổ, vừa đi vừa cười hô hố. Lính cấm vệ liền bắt ngay lại hỏi:
- Chúng mày con cái nhà ai?
- Bẩm là cháu Cung tín Vương.
- Bẩm là người nhà Hoàng tín hầu.
- Bẩm ở phủ công chúa Tấn Ninh.
Nguyễn Cẩn chỉ huy cấm quân, sai bắt tất cả đám công tử bột nằm úp sấp trên mặt đường. Người hàng phố bu đến đông nghịt. Cẩn sai lính đọc tờ cáo thị dân trên gốc cây:
Bố cáo cho toàn dân Thăng Long: Việc để tang hạn trong một tháng. Dân chúng phải mặc đồ đen. Ai không có đồ đen được phép mặc đồ nâu chít khăn tang. Việc hôn thú, sự vui chơi cũng cấm trong vòng một tháng. Ngoài đường, nơi công cộng phải lặng lẽ nghiêm cẩn, không sỗ sàng cợt nhả. Ai trái lệnh, nhẹ thì phạt trượng, nặng thì tù đày.
Ai lợi dụng tang lễ gây sự rối loạn thì tử hình. Nay bố cáo để toàn dân nghiêm ngặt tuân thủ.
Đọc xong, ông đánh cho mỗi công tử hai mươi trượng, lính đánh thẳng tay. Dân đứng xem mặt xanh mét, im phăng phắc.
Buổi tối hôm ấy. Quý Ly gọi các con trai và lũ Nguyễn Cẩn, Phạm Cự Luận đến. Luận nói:
- Tôi thảo ra tang quy, tưởng chỉ để làm yên lòng triều thần. Tôi nghĩ cũng không nên nghiêm khắc với nhân dân quá.
Quý Ly lắc đầu:
- Ông hành khiển sai rồi. Ta muốn đã không nói thì thôi, còn nếu đã nói ra quyết phải được thi hành. Ông vua già quá nhu nhược. Nói mà không làm, thành ra mọi kỷ cương đều lỏng lẻo. Từ nay là thời kỷ cương. Các ông sợ làm thế này, lòng dân sẽ càng luyến tiếc ông vua già chứ gì? Ta không sợ điều đó. Làm thế này ta được hai điểm: thứ nhất, trước mắt sẽ làm yên lòng dân, dân thấy ta vẹn tình vẹn nghĩa với ông vua già; thứ hai về lâu dài đó là kỷ cương, việc để tang chính là việc kỷ cương bắt đầu. Ta sẽ cho dân Thăng Long và cả nước hiểu thế nào là kỷ cương. Ông Cẩn báo ngay cho ta rõ tình hình các nơi.
- Bẩm đại nhân, người của ta ở các bộ, phủ bên ngoài đều đã báo về, các địa phương đều yên ắng cả.
- Còn bên trong?
- Các quan đại thần trong triều đều tỏ ra nghiêm cẩn trong tang lễ. Những người cần theo dõi nhất đều im lặng. Chỉ có hai ông Nguyên Uyên, Nguyên Dận - vẫn thả thuyền trên Hồ Tây uống rượu.
- Im lặng ư? Đó là điều ta rất quan tâm. Hai người Uyên và Dận không đáng sợ. Họ nói nhiều, kẻ nói nhiều chẳng làm được việc lớn. Bọn im lặng mới là bọn âm mưu. Bọn âm mưu sẽ không liên hệ với bọn ba hoa mà chỉ điều khiển gián tiếp bọn ba hoa; Vì bọn ba hoa làm mồi nhen đám cháy. Khi có thể cháy lớn, bọn im lặng mới lộ diện. Đáng chú ý nhất là những kẻ có tài trí lớn, có thể trở thành minh chủ.
Phạm Cự Luận:
- Những con cá lớn như vậy bao giờ cũng biết chờ đợi. Chắc chắn họ sẽ kết bè kết đảng lặng lẽ.
Nguyễn Cẩn:
- Tuy nhiên Uyên và Dận cũng đáng để ý. Họ thường nói: “Thượng Hoàng chết là lúc quan thái sư sẽ lộng hành nhất.” và “Thượng Hoàng chết, thái sư sẽ cướp ngôi.”
Quý Ly:
- Ta chẳng lạ gì những lời xì xào đó.
Cự Luận:
- Người ta xì xào nhưng Uyên và Dận đã nói to cho mọi người đều nghe thấy.
Quý Ly:
- Ai nghe thấy? Ông già điếc có nghe thấy không? Hôm đám tang, ông già điếc khóc nấc lên và ngất đi trước linh sàng...
Nguyễn Cẩn:
- Hạ quan vẫn cho người dò xét xem Sư Hiền điếc thật hay điếc giả. Vẫn chưa có chứng cứ. Nhưng việc ông Uyên và ông Dận hai người uống rượu say trong phủ của Uyên rồi nói những câu trên trước mặt bọn gia nhân thì có chứng cứ.
Quý Ly:
- Nếu có chứng cứ, hãy cho quân bắt ngay Uyên và Dận. Nhớ bắt ngay, xử ngay, xử rầm rộ, tốt nhất là xử trong tháng dân Thăng Long còn đang để tang Nghệ Tông.
4
Khi bắt Uyên và Dận, quan thái sư cũng chỉ định ra oai, làm cho họ sợ và để đe nẹt triều thần. Ông vua già Nghệ Tông đã chết. Ông vua con Thuận Tông quá nhu nhược, lại là con rể ông nên lúc này quyền hành nằm cả trong tay Quý Ly. Quan thái sư muốn vỗ về mọi người, ông định ra ân nhiều hơn ra uy. Ông sai dẫn Uyên và Dận đến trước mặt và bảo:
- Tội loạn ngôn của các ông đã rành rành, đầy đủ chứng cứ. Thượng hoàng vừa mới chết, ta không nỡ ra tay với các ông. Chỉ cốt các ông khai ra đầy đủ, chịu ăn năn hối lỗi, ta sẽ thả các ông về.
Uyên và Dận im lặng không nói. Quý Ly tiếp.
- Thực ra các ông nói nhiều quá. Những người nói nhiều ta không sợ đâu. Mà nghĩ cho cùng, tài kinh sử các ông phỏng có bao nhiêu? Sự lịch duyệt trải đời các ông phỏng có bao nhiêu? Các ông là những kẻ cuồng trung... Chuyện này ta hiểu được và cũng có thể tha thứ được. Mong các ông biết điều.
Quý Ly giao Uyên và Dậu cho Nguyên Trừng xử lý. Trừng đứng đầu Đăng Văn Kiểm pháp tự, vốn tính ôn hòa. Thái sư cho con giữ chức ấy cũng để làm yên lòng bá quan. Trừng hỏi han hai người qua loa và bảo:
- Vụ của các ông giá vào lúc trước thì nguy hiểm đấy. Tôi chỉ khuyên các ông một điều: việc ngôn xuất thật hệ trọng, mong các ông giữ gìn, các ông là người tôn thất lại càng phải giữ gìn hơn nữa.
Trừng sắp sửa thả họ bỗng có chuyện bất ngờ xảy ra. Thời gian đó quan thái sư đang chuẩn bị thành lập một bộ phận gọi là liêm phóng*, ông định sẽ có nhiều chức liêm phóng sứ, chức quan có trách nhiệm bí mật dò xét cái hay cái dở của các quan lại và những điều lợi hại trong dân gian.
*Việt sử thông giám cương mục tập VII trang 676 viết: “Quý Ly sai liêm phóng sứ chia nhau đến các lộ, bí mật dò hỏi kẻ hay người dở về quan lại, việc lợi việc hại ở dân gian...”
Những liêm phóng sứ do ông trực tiếp chỉ đạo. Dưới tay mỗi liêm phóng sứ gồm nhiều thủ hạ, có khi là những quan lại bí mật nằm lì ở các cơ quan lộ, phủ, huyện, có khi là những người dò la trong dân gian, có khi là những người được nhất thời phái từ kinh đô xuống các địa phương nhằm điều tra một việc. Lúc đó, Đặng Tất làm tướng ở Hóa Châu. Vì thượng hoàng mất, nên được điều về kinh đô phòng nhỡ có biến động. Đặng Tất tố cáo bọn Phan Mành và Chu Bỉnh Khuê là những người có ý chống đối quan thái sư, vì vậy Tất được tín nhiệm và được bổ dụng. Tất vừa về đến Thăng Long lại được phái ngay lên lộ Bắc Giang và vùng biên giới Lạng Sơn để phòng thủ.
Nhà Minh, thời kỳ ấy đang cực thịnh. Chu Nguyên Chương tức Minh Thái Tổ, đã đánh tan được nhà Nguyên, giành lại được quyền độc lập cho người Hán, Chu Nguyên Chương xuất thân nghèo khổ lập nên sự nghiệp, là một ông vua giỏi, có chí lớn, nhiều tham vọng, là nhà quân sự có chí khí sắt đá, tàn bạo. Không những ông muốn thống nhất đất nước Trung Hoa mà còn muốn mở mang bờ cõi cả lên phía Bắc cũng như xuống phương Nam. Cái hùng tâm mở mang bờ cõi ấy ông chưa làm được, phải đến đời con ông là Minh Thành Tổ, một ông vua kiệt xuất thứ hai của nhà Minh mới thực hiện được. Chính Minh Thành Tổ đã tiêu diệt nhà Hồ và đô hộ đất nước Đại Việt, nhưng đó là chuyện về sau. Một ngẫu nhiên trùng hợp lạ kỳ là sự song hành lịch sử giữa Trung Hoa và Đại Việt. Khi nhà Nguyên tiêu diệt nhà Tống, thì nhà Trần cũng cướp ngôi nhà Lý. Khi nhà Minh tiêu diệt nhà Nguyên, thì nhà Hồ cũng cướp ngôi nhà Trần. Sự rối loạn lịch sử ở hai nước hầu như diễn ra gần cùng một thời điểm. Chỉ có điểm khác biệt sự cướp ngôi ở Đại Việt, Trần thay Lý sớm hơn Nguyên thay Tống, còn Hồ thay Trần lại muộn hơn Minh thay Nguyên. Do đó, khi Nguyên xâm lấn Đại Việt, nhà Trần đã ổn định, lòng dân đã quên nhà Lý; còn khi Minh xâm lấn ta, nhà Hồ còn đang thời kỳ bước đầu, lòng dân vẫn nhớ tới nhà Trần. Nhưng đó là chuyện về sau.
Còn lúc Đặng Tất được phái lên lộ Bắc Giang và biên giới. Chu Nguyên Chương vua nhà Minh tuy chưa có ý định xâm chiếm nước ta, nhưng ông đã làm các công việc tham dò.
Năm 1384 nhà Minh sai sứ sang ta trưng cầu năm nghìn thạch lương thực đưa sang Trung Hoa. Quan quân ta bị chết vì lam sơn chướng khí trong việc tải lương này rất nhiều.
Năm 1385 lại sai sứ sang yêu cầu ta dâng nộp các nhà sư.
Năm 1386 nhà Minh lại sai sứ sang ta đòi dâng các cây đặc sản như cau, vải, nhãn, mít và hỏi nhờ đường nước ta để đi đánh Chiêm Thành. Lại còn đòi cống cho năm mươi thớt voi nữa.
Đến khi Trần Nghệ Tông chết lập tức nhà Minh cho quân tiến sát phía bên kia biên giới. Lấy cớ đánh người Mán làm phản ở Long Chấu, họ sai Nhâm Hanh Thái làm sứ thần sang ta xin giúp cho thiên triều năm vạn quân, năm mươi thớt voi và năm mươi vạn thạch lương.
Quý Ly sai Đặng Tất đi, vừa làm nhiệm vụ đôn đốc quân lính phòng bị biên ải, vừa làm nhiệm vụ xem xét tình hình địch ta, tức kiêm nhiệm cả chức liêm phóng sứ. Đến Đồng Đăng, Tất gặp bọn gián viên nằm ở cả hai phía vùng biên cương. Có một người báo thấy một người Việt ra vào nơi đóng quân của binh lính nhà Minh. Lập tức vòng vây biên ải được thắt chặt. Đang đêm, lính ta bắt được một người luồn rừng từ phía bên kia trốn sang. Người đó là Nguyễn Phù, một nho sinh, sống trong phủ Trần Nguyên Uyên. Tên nho sinh này sang Trung Hoa trong lúc Nguyên Uyên và Nguyên Dận bị bắt. Hắn không biết tình hình diễn biến ở Thăng Long thời gian qua.
Đặng Tất mừng rỡ vội vã đóng cũi giải ngay Nguyễn Phù về kinh.
Đêm hôm ấy, trong nhà giam, Nguyên Uyên nói với Nguyên Dận:
- Hiền đệ, tự nhiên cả ngày hôm nay ta thấy trong lòng như có lửa đốt.
- Huynh chớ nên cả nghĩ. Theo cách Hồ Nguyên Trừng nói, vụ án của chúng ta chỉ có tính chất răn đe. Đệ nghĩ chỉ ngày mốt ngày hai, họ sẽ thả ngay chúng ta.
Uyên ngẫm nghĩ hồi lâu mới nói:
- Theo sự tính toán của ta, Nguyễn Phù lúc này đã từ bên kia biên giới về đến Thăng Long. Tại sao huynh lại phải cầu viện đến nhà Minh? Huynh không nhờ đến triều đình nhà Minh mà chỉ nhờ đến bọn quan quân vùng biên giới. Mình chỉ nhờ họ một mức hạn chế, nhờ họ bán vũ khí, nhờ họ trú quân, phòng lúc cần, nhờ họ dàn quân nơi biên cương làm sức ép... Tóm lại không nhờ đến mức họ đem quân sang nước ta.
- Huynh cho rằng người Minh sẽ chỉ dừng ở những mức giúp đỡ mà huynh yêu cầu?
- Mình sẽ trả vàng cho họ.
Dận thở dài... Uyên nhíu mày lại.
- Đệ hãy tin ở huynh. Chúng ta phải biết lợi dụng họ.
- Còn họ chẳng biết lợi dụng ta sao? - Dận lại thở dài.
Nguyên Uyên đứng dậy:
- Hồ Quý Ly là kẻ tàn tặc. Hắn sắp sửa lên ngôi. Cơ nghiệp nhà Trần sắp mất. Vả lại, hắn đa sát, nhiễu sự. Lên ngôi, hắn sẽ là một bạo chúa, một Tần Thủy Hoàng của nước Việt. Mà đối với một kẻ bạo tàn như vậy thì biện pháp bất kể thế nào cũng là tốt, cũng được phép.