Mạnh hơn sợ hãi - Chương 08 - Phần 1

8.

Andrew ghé qua tòa soạn lấy thư. Freddy Olson đang bò lổm ngổm dưới gầm bàn, uốn éo cặp mông.

- Cậu nghĩ mình là chó bông chắc, Olson? - Andrew hỏi trong lúc mở phong bì thư.

- Cậu không nhìn thấy thẻ phóng viên của tôi à, Stilman, thay vì nói những lời xuẩn ngốc đó?

- Tôi thậm chí còn không biết là cậu cũng có thẻ đấy. Cậu có muốn tôi đi mua hộ cho một ít thức ăn cho chó không?

- Cậu đang làm tôi vướng chân đấy, Stilman. Tôi đi tìm nó khắp nơi suốt hai hôm nay rồi.

- Hai hôm rồi cậu toàn chui dưới gầm bàn á? Hãy mở rộng phạm vi tìm kiếm đi.

Andrew đọc nốt tệp thư – hai thư quảng cáo và thư của một kẻ cuồng tưởng có ý định cung cấp cho anh những chứng cứ chứng tỏ rằng ngày tận thế sẽ xảy ra nội trong tháng này – rồi nhét nó vào khe của máy hủy tài liệu.

- Tôi có một tin đặc biệt cho cậu, Olson, nếu cậu vui lòng đứng dậy.

Olson đứng dậy và bị cụng đầu.

- Tin đặc biệt gì?

- Một gã đần vừa bị cụng trán. Chúc một ngày vui vẻ nhé, Olson.

Andrew huýt sáo tiến về phía thang máy. Olivia bước vào buồng thang máy ngay sau anh.

- Điều gì khiến anh trông phấn khởi thế này, Stilman? - Cô hỏi.

- Cô không thể hiểu được đâu.

- Anh đến phòng tư liệu à?

- Không. Tôi đang mong mỏi kiểm tra cho được số xê ri của cái nồi hơi[1], chính vì thế tôi mới xuống tầng hầm

[1] Trong hệ thống lò sưởi.

- Anh Stilman, suốt cuộc đời này tôi sẽ luôn cảm thấy có lỗi vì chuyện xảy đến với anh, nhưng dù gì anh cũng đừng có làm quá. Anh đang điều tra vụ gì đấy?

- Ai nói với cô là tôi đang làm việc vậy, Olivia?

- Trông anh có vẻ đang thiếu cồn, kẻ ra thì là dấu hiệu tốt. Nghe kỹ tôi nói đây, Andrew. Hoặc là hôm nay anh qua gặp tôi để nói cho tôi biết về cuộc điều tra của anh, hoặc là tôi sẽ mặc nhiên giao cho anh một vụ kèm thời hạn và có thưởng khi hoàn thành.

- Một nguồn đáng tin cậy có lẽ đang nắm giữ thông tin về ngày tận thế, Andrew nói với giọng rất nghiêm túc.

Cô tổng biên tập lườm anh chàng phóng viên đến cháy mắt, rồi các đường nét trên mặt cô giãn ra và cô phá lên cười.

- Anh…

- Không thể cứu vãn được nữa, tôi biết mà Olivia. Cho tôi tám ngày, tôi sẽ giải thích với cô sau, tôi hứa.

- Hẹn anh tám ngày nữa, Andrew.

Andrew để sếp ra trước và chờ cho cô đi xa hẳn mới chuồn lẹ tới phòng làm việc của Dolorès.

- Sao rồi? Anh hỏi khi khép cửa phòng lại.

- Có gì đó khiến tôi băn khoăn về cô gái được bảo hộ của anh, Stilman ạ. Tôi chẳng tìm được gì về cô ta. Cứ như thể ai đó đã cất công xóa sạch từng bước đi của cô ta. Người phụ nữ đó không có quá khứ.

- Tôi nghĩ là mình biết kẻ hẳn đã làm điều đó.

- Dù có là ai thì đó cũng là kẻ có tầm ảnh hưởng không hề nhỏ. Tôi chưa gặp chuyện nào tương tự trong suốt hai mươi năm làm nghề tìm kiếm. Thậm chí tôi còn gọi tới cả Fort Kent, trường đại học mà anh nói với tôi. Không thể nắm bắt được chút thông tin nào dù là nhỏ nhất về Suzie Baker.

- Thế còn về thượng nghị sĩ Walker?

- Tôi đã chuẩn bị sẵn tài liệu cho anh. Tôi không rành vụ này, nhưng khi cứ đọc trên báo chí thời kỳ ấy, có thể nhận thấy vụ này đã gây ồn ào không nhỏ. Tóm lại là, suốt vài ngày liền, và rồi thốt nhiên, không còn gì nữa, không một dòng tin. Im ắng hoàn toàn. Washington hẳn đã phải dốc sức để giữ được cái im ắng đó.

- Thời đó mọi chuyện rất khác, Internet chưa tồn tại. Cô giao cho tôi tài liệu này chứ, Dolorès?

- Nó ở trước mặt anh đấy thôi, anh chỉ việc cầm nó lên.

Andrew cầm tập tài liệu và bắt đầu đọc lướt qua.

- Cảm ơn, cún cưng, Dolorès thì thào.

- Nếu cô có gặp Olson, đừng dại mà nói với anh ta như vậy. Cảm ơn cô, Dolorès.

Andrew rời tòa soạn.

Khi về đến nhà, anh vào bếp và xê dịch tủ lạnh. Tự hỏi làm sao một mình Suzie có thể làm được chuyện đó. Khe hở vừa đủ rộng, anh liền luồn tay vào và thấy cái túi nhỏ.

Bên trong chứa một bức thư trong tình trạng khá cũ nát, anh cẩn trọng mở nó ra.

Edward thân mến,

Việc cần làm cũng đã hoàn thành và tôi cảm thấy một nỗi buồn trĩu nặng với anh vì chuyện đó. Mọi nguy hiểm từ giờ đã được loại bỏ. Thứ đó giờ đang nằm ở một nơi không ai có thể tiếp cận. Trừ phi lời đã nói không giữ được. Tôi sẽ chuyển cho anh tọa độ chính xác của nơi đó trong hai bức thư riêng biệt sẽ được gửi cùng lúc.

Tôi có thể hình dung nỗi hoang mang sâu sắc mà kết cục bi đát này khiến anh cảm thấy, nhưng nếu điều này có thể xoa dịu tinh thần anh, thì anh cũng nên biết rằng trong cảnh ngộ tương tự, bản thân tôi có lẽ cũng không hành động khác hơn. Lợi ích quốc gia là trên hết và những người như chúng ta chẳng có lựa chọn nào khác là phụng sự Tổ quốc, dù có phải hy sinh cho Tổ quốc thứ quý giá nhất đối với chúng ta.

Chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa và tôi tiếc cho điều đó. Sẽ không bao giờ tôi quên được quãng thời gian chúng ta lẩn trốn tại Berlin từ năm 1956 đến năm 1959 và đặc biệt là cái ngày 29 tháng Bảy đó, khi anh cứu mạng tôi. Chúng ta xong nợ.

Trong trường hợp khẩn cấp, anh có thể gửi thư cho tôi tới địa chỉ số 79, Juli 37 Gate, phòng 71, Oslo. Thỉnh thoảng tôi vẫn lưu lại đó.

Hãy hủy bức thư này ngay sau khi đọc được, tôi tin tưởng tính cẩn trọng của anh để cho không gì còn sót lại từ sau cuộc trao đổi cuối cùng này.

Người bạn tận tâm của anh.

Ashton

Andrew trở ra phòng khách xem xét tập tài liệu mà Dolorès đã tập hợp lại giúp anh.

Trong đó góp nhặt những bài báo đã được cắt ra, tất cả đều là từ giữa tháng Giêng 1966.

“Vợ của thượng nghị sĩ Walker bị nghi ngờ phản bội Tổ Quốc”, tờ The Washington Post giật tít.

“Vụ bê bối dưới mái nhà Walker”, trang nhất tờ Los Angeles Times viết. “Người vợ phản trắc”, trang nhất tờ Daily News thông tin. “Kẻ phạm tội!” tờ Denver Post thảng thốt. “Nữ gián điệp lừa dối chồng và đất nước”, tờ New York Post nâng tầm sự việc.

Hơn ba mươi tờ nhật báo khắp cả nước với cùng một trang nhất, chỉ có vài khác biệt nho nhỏ. Trên các cột báo, tất cả đều phản ánh câu chuyện của Liliane Walker, vợ thượng nghị sĩ đảng Dân chủ Edward Walker và mẹ của một cô gái mười chín tuổi, bị cáo buộc thực hiện hành vi do thám cho KGB. Theo Chicago Tribune, các nhân viên tới thực hiện vụ bắt giữ bà đã tìm thấy trong phòng ngủ nhà bà những bằng chứng bất ngờ, khả năng phạm tội của bà hầu như đã chắc chắn. Vợ của thượng nghị sĩ này thường ghi chép lại những cuộc trò chuyện mà bà nghe được từ phòng làm việc của chồng và đã lấy trộm chìa khóa két của chồng để sao chụp lại những tài liệu mà bà dự định sẽ bán cho phe cộng sản. Tờ Dallas Morning News khẳng định rằng nếu không có sự can thiệp của FBI, rất nhiều thiết bị quân sự cũng như các đơn vị lính tham chiến tại Việt Nam hẳn đã là nạn nhân trong vụ phản bội Tổ quốc của Liliane Walker. Được cảnh báo từ những kẻ đồng lõa, theo một số người, hay từ một nhân viên hai mang, theo một số người khác, bà đã bỏ trốn, vừa kịp thoát khỏi tay những kẻ tới bắt bà.

Ngày ngày, các nhật báo lại trục lợi từ vụ phản bội này, cũng như từ những hậu quả của nó. Ngày 18 tháng Giêng, thượng nghị sĩ Walker từ chức và thông báo rút lui vĩnh viễn khỏi đời sống chính trị. Ngày 19 tháng Giêng, báo chí cả nước đưa tin về vụ bắt giữ Liliane trong khi bà đang cố vượt biên ở miền Bắc Thụy Điển để tới Liên Xô qua đường Na Uy. Nhưng kể từ ngày 20 tháng Giêng, như Dolorès đã lưu ý, tất cả các nhật báo đều không còn một dòng tin nào về vụ Walker.

Trừ một lời dẫn từ một bài báo ra ngày 21 trong mục sổ tay chính trị của tờ The New York Times, ký tên Ben Morton, người này đã kết thúc bài bào của mình bằng câu hỏi “Ai được hưởng lợi từ cú ngã ngựa của thượng nghị sĩ Walker?”

Andrew vẫn lưu giữ ký ức về người đàn ông có tính các đã qua tôi luyện đó, một lão già lão luyện trong nghề mà thuở trước anh từng gặp trong hành lang tòa soạn khi anh mới khởi nghiệp ở mục cáo phó. Thời đó, Andrew chưa được xếp vào hàng phóng viên và anh không bao giờ có cơ hội trò chuyện với ông ấy.

Andrew gọi cho nhân viên đưa thư và hỏi ông địa chỉ nơi mà ông chuyển tiếp thư từ của Ben Morton. Figera báo cho anh biết là ông đã thôi làm việc đó từ lâu rồi, chỉ có thư quảng cáo gửi đến tòa soạn cho ông ấy và Ben Morton đã ra lệnh cho ông vứt bỏ chúng. Trước màn năn nỉ của Andrew, Figera rốt cuộc cũng thổ lộ với anh rằng nhà báo này đã lui về ở ẩn trong một ngôi làng nhỏ ở Turnbridge thuộc bang Vermont, ông không có địa chỉ chính xác, chỉ còn số hộp thư bưu điện.

Andrew nghiên cứu bản đồ, không có phương tiện giao thông nào ngoài xe riêng để đi đế Turnbridge. Anh không còn dung đến chiếc Datsun kể từ ngày một độc giả bất mãn đập hỏng nó bằng những cú gậy bóng chày trong một bãi đỗ ngầm. Kỷ niệm buồn. Chiếc Datsun đã được phục hồi nguyên trạng trong xưởng của Simon và giờ vẫn đang ở đó. Anh không mảy may nghi ngờ rằng nó sẽ lại khởi động rất bốc, phải thừa nhận là tính gàn dở ở người bạn thân nhất của anh cũng có vài ích lợi, vào những dịp hiếm hoi.

Anh mang theo tập hồ sơ, quần áo ấm, pha sẵn cà phê để trong bình giữ nhiệt và đi bộ đến ga ra.

*

- Tất nhiên là nó ở tình trạng vẫn chạy tốt, Simon thở dài, chúng ta đi đâu?

- Lần này tớ đi hóng gió một mình thôi.

- Điều đó không nói lên được là cậu đi đâu, Simon đáp, trưng ra bộ mặt hờn dỗi.

- Đến Vermont. Tớ lấy chìa khóa được chưa?

- Cậu sẽ gặp tuyết và, với chiết Datsun, cậu có thể bị chết gí ở đó ngay khúc ngoặt đầu tiên, còn tệ hơn nếu chạy xe đêm, Simon vừa nói vừa mở ngăn kéo bàn làm việc. Tớ sẽ giao cho cậu một chiếc Chevy station wagon 1954, một trăm mười mã lực được tạo ra từ động cơ sáu xi lanh dưới nắp mui. Tớ khuyên cậu nên trả lại nguyên trạng cho tớ, nó đã được chính tay bọn tớ đại tu tổng tể toàn phụ tùng chính hãng.

- Chắc là tớ không hình dung nổi điều ngược lại.

- Như thế là mỉa mai à?

- Simon, tớ phải tới đó.

- Khi nào cậu về?

- Bất cứ lúc nào, tớ đang tự hỏi không biết cậu có phải là hóa kiếp của mẹ tớ hay không.

- Khiếu hài hước của cậu chẳng làm tớ thấy buồn cười gì hết. Hãy gọi cho tớ khi nào cậu đến nơi nhé.

Andrew hứa với bạn điều đó rồi lên xe. Ghế ngồi xông mùi vải giả da cũ kỹ, nhưng vô lăng và bảng điều khiến bằng nhựa tổng hợp thì trông rất mượt mà.

- Tớ sẽ chăm lo cho nó như là xe của mình, Andrew thề thốt.

- Đúng hơn là hãy chăm lo cho nó như thể nó là xe của tớ. Simon vặn lại.

Andrew rời New York theo hướng Bắc. Vùng ngoại ô nhanh chóng mờ dần, với cảnh hỗn độn của các tòa chung cư, các khu công nghiệp, nhà kho và trạm xăng dầu. Kế tiếp là những thị trấn nhỏ hóa thành các ngôi làng khi ngày tàn.

Nhịp độ của con người cứ chậm dần. Những ngôi nhà nhường chỗ cho các cánh đồng, và chỉ những đốm sáng từ ô cửa sổ của vài trang trại rải rác mới gợi nhắc rằng ở đây có người sống.

Turnbridge chẳng là gì khác ngoài một đoạn phố được năm cột đèn đường chiếu sáng, cách nhau mười mét một. Năm cột đèn han gỉ chiếu ánh sáng tù mù cho một tiệm tạp hóa, một tiệm ngũ kim và một cây xăng, nơi duy nhất còn mở cửa. Andrew đỗ xe dọc trụ xăng duy nhất; bánh của chiếc Chevy, khi lăn qua một đoạn thừng, kéo cái chuông kêu leng keng. Một người đàn ông cũng già cả như trạm xăng bước ra. Andrew xuống xe.

- Ông bơm đầy bình cho tôi được không? Anh nói với chủ tiệm.

- Những chiếc kiểu này đã lâu rồi tôi chưa được thấy, ông già phều phào qua những chân răng hiếm hoi còn trụ lại được trên hai hàm. Chế hòa khí được thay rồi chứ? Ở đây chỉ có xăng không chì thôi.

- Tôi đoán thế, Andrew đáp. Nếu không thì đáng ngại à?

- Đáng ngại thì không, nhưng nếu cậu muốn đi tiếp, thì tốt hơn hết cậu nên biết điều đó. Mở nắp mui ra cho tôi xem nào, tôi sẽ kiểm tra mức xăng còn lại.

- Ông không phải mất công như vậy đâu, con xe này vừa mới được đại tu.

- Đã chạy được bao nhiêu dặm kể từ lúc đó?

- Khoảng ba trăm.

- Vậy thì cậu mở nắp mui cho tôi xem, những quý bà cổ xưa này là ngốn xăng lắm, với lại, tôi cũng đâu có bận rộn gì. Khách hàng mới nhất được tôi phục vụ ghé đây từ sáng qua cơ.

- Sao ông đóng cửa muộn vậy? Andrew vừa hỏi vừa nắn bóp hai vai trong khi người chủ tiệm bơm đầy bình xăng cho chiếc Chevy.

- Ghế đằng kia kìa, sau vách kính, đã năm mươi năm nay tôi ngồi trên đây, đó là chỗ duy nhất mà tôi thích đặt mông lên. Trạm xăng này, tôi tiếp quản nó từ khi bố tôi mất, năm 1960. Chính bố tôi là người xây dựng nó. Hồi tôi còn nhỏ, chúng tôi dung xăng Gulf, nhưng thương hiệu này đã biến mất trước cả chúng tôi. Phòng ngủ của tôi ở trên tầng. Tôi bị mất ngủ kinh niên, thế nên tôi cứ mở cửa cho đến khi nào mắt díp lại mới thôi. Cậu muốn tôi làm gì khác nữa không? Với lại, biết đâu được đấy, nhỡ đâu lại có một tay kiểu như cậu lạc đường tới đây, thật tiếc nếu để lỡ mất một khách hàng. Cậu định đi tới tận đâu?

- Tôi đã tới nơi rồi. Ông có biết ai là Ben Morton không?

- Tôi những muốn nói với cậu điều ngược lại, nhưng mà có, tôi có quen lão ta.

- Ông có biết ông ấy sống ở đâu không?

- Cậu đã có một ngày tốt lành chứ?

- Phải, thế thì sao?

- Ờ thì, hãy quay về đi, nếu không cậu sẽ mất toi cả ngày tốt lành này đấy.

- Tôi đã chạy xe từ New York tới đây là để gặp ông ấy.

- Cậu có đi từ Miami tới đây thì tôi cũng vẫn sẽ nói với cậu như vậy. Morton là một lão già ngu ngốc không nên dây vào.

- Tôi quá quen với thành phần đó, tôi trơ mặt rồi.

- Không phải với những kẻ như lão đâu! Ông chủ trạm xăng thốt lên trong lúc cắm bơm xăng vào chỗ cũ. Được rồi đấy, tám mươi đô la, làm tròn, mấy xăng tim coi như tiền chỗ.

Andrew đưa năm tờ hai mươi đô la cho ông già. Ông chủ trạm xăng đếm lại tiền và mỉm cười.

- Tiền típ thông thường là hai đô. Thêm mười tám đô để có địa chỉ của lão già gàn dở đó, cứ như trò bịp ấy nhỉ; hai tay tôi đã vấy đủ dầu mỡ rồi, không cần phải trát thêm nữa. Tôi sẽ lấy tiền lẻ trả lại. Cậu chỉ cần đi theo tôi, trong nhà có cà phê nóng.

Andrew bước vào trong trạm xăng.

- Cậu muốn gì ở lão ra, để ông phải để cao ông ấy vậy?

- Cho tôi biết tên một người nào đó từng hòa hợp được với con gấu già đó, tôi sẽ tặng cậu cả một bình đầy xăng.

- Đến mức ấy ư?

- Lão ta sống ẩn dật trong căn nhà tồi tàn của mình. Quý Ngài ấy chỉ giao hàng tiếp tế đến đầu lối vào, cấm tiệt đi tới tận nhà. Thậm chí trạm xăng nhà tôi cũng đã là quá xa xôi với Thái ấp của Quý Ngài.

Cà phê của ông chủ trạm xăng có màu và vị đắng của cam thảo, nhưng Andrew đang lạnh và anh đã uống một cách ngon lành.

- Cậu tính tới quấy rầy lão ta đêm nay sao? Lão mà ra mở cửa cho cậu thì tôi sẽ được mẻ cười vỡ bụng.

- Quán trọ gần đây nhất cách đây bao xa?

- Khoảng hơn năm mươi dặm nhưng vào mùa này thì quán đó đã đóng cửa rồi. Lẽ ra tôi cũng có thể mời cậu ngủ lại đây, nhưng nhà để xe không có hệ thống lò sưởi. Nhà của Morton ở phía Nam, cậu đi quá rồi. Cứ đi ngược lại hết đường Russel, cậu sẽ thấy một con đường mòn đắp đất ở phía bên phải, lão ta sống ở cuối con đường đó, cậu không đi nhầm được đâu.

Andrew cảm ơn ông chủ trạm xăng và tiến ra phía cửa.

- Còn động cơ xe cậu, cứ đi nhẹ nhàng thôi. Nếu máy lại nóng qua do loại xăng tôi bơm cho cậu, có nguy cơ sẽ hỏng xu páp đấy.

Chiếc Chevy lại lên đường, đèn pha bật sáng hết cỡ soi vào màn đêm đen đặc trước khi tiến vào con đường gập ghềnh sỏi đá.