Mạnh hơn sợ hãi - Chương 14 - Phần 1

14.

Chiếc ô tô chạy xuyên qua tầng rừng thấp mà tiếp đò là một vùng nông thôn trắng xóa. Những cánh đồng, ngăn cách nhau bằng những bức tường thấp, san sát nối tiếp nhau, buồn tẻ như những khoảnh sân nhà tù khi mùa đông đến. Phía chân trời thấp thoáng bóng làng mạc với những ống khói tỏa làn khói bếp. Họ đi ven một hồ nước, qua nhiều ngôi làng và khi bức mành ngày mới được vén lên thì họ đã tới ngoại ô Oslo.

Suzie lấy từ trong túi xách ra chiếc phong bì mà người đàn ông nọ đã trao cho cô trước khi xuất phát. Bên trong chứa một cuốn cẩm nang du lịch, một ít tiền curon Na Uy và địa chỉ một khách sạn mà cô đưa luôn cho tài xế.

Khách sạn bình dân, nhưng ông chủ không yêu cầu họ xuất trình giấy tờ tùy thân cũng chẳng bắt điền vào phiếu khai thông tin.

Căn phòng có hai giường đơn được trải một lớp vải nhung sớm sờn cũ. Cửa sổ trông ra lối vào một nhà máy nơi công nhân đang tất bật làm việc. Suzie kéo tấm rèm bông mịn và đi tắm trong phòng tắm sát vách. Nó bé xíu, nhưng cũng đầy đủ những đồ cần có.

*

Bầu không khí trầm lắng ngự trị trong phòng ăn. Người phụ nữ mang bữa bữa sáng tới cho họ không biết bao nhiêu tuổi, bà lại vào trong mà không nói một lời. Andrew và Suzie ngồi cùng một cặp vợ chồng khách du lịch, gần một tủ buýp phê. Người đàn ông đang đọc báo, vợ ông thì chăm chú phết một thứ mứt màu đỏ lên bánh mì nướng. Họ chào nhau bằng ánh mắt và ai nấy lại cắm cúi vào phần ăn của mình.

Andrew lên phòng tìm túi xách. Anh giữ lại sổ tay và lấy tờ giấy gấp mà một mặt in bản đồ thành phố còn mặt kia in bản đồ hệ thống đường sắt.

Suzie, người thường ca cẩm về sự khắc nghiệt của cái lạnh ở Boston, sẽ phải xem xét lại vấn đề khi được chào đón bằng cơn gió lạnh buốt đang lướt qua các con phố của khu ngoại ô Na Uy này.

Họ đi bộ đến tận ga Asker, Andrew hỏi một người bán vé xem tàu chạy tuyến Drammen đến Oslo thì xuất phát từ bến nào. Người đó chỉ đường cho họ bằng một thứ tiếng Anh rất chuẩn xác.

Mười lăm phút sau, một đầu máy màu đỏ tiến vào trong ga. Đó là một con tàu nội vùng giống loại tàu thường gặp trong mọi ngoại ô của các thành phố lớn trên thế giới, nhưng thay vì hình vẽ graffiti trên các toa, nó khoác lên mình những vệt tuyết xám mà gió đã vẽ lên hai bên sườn tàu.

Tại ga trung tâm Oslo, Suzie đến trước một sạp báo. Cô mua hai tờ báo Herald Tribune rồi dẫn Andrew lại một bàn cà phê và họ ngồi xuống cạnh nhau.

- Anh phết bơ vào bánh mì nướng cho tôi được không? Cô vừa nói vừa mở tờ nhật báo.

Andrew ghé nhìn qua vai cô.

- Chúng ta đang tìm gì vậy? Anh hỏi.

- Một lời nhắn bâng quơ.

- Cô học tất cả những trò này ở đâu vậy?

- Knopf là người đỡ đầu của tôi, tôi có được người thầy xuất sắc. - Suzie đáp. Knopf từng kể với tôi rằng thời chiến tranh lạnh, mục quảng cáo của tờ Herald Tribune được dùng làm thư từ cho tất cả các tổ chức gián điệp, họ đã liên lạc một cách công khai như thế. Các thông tin tuyệt mật đã vượt qua mọi biên giới mà không ai có thể chặn được. Thế nên, sang sang, các cơ quan phản giánlại săm soi từng dòng chữ nhỏ nhất trên các quảng cáo đó, mò tìm một thông điệp để giải mã. Vậy đấy, tôi đang tìm thong điệp của chúng ta, cô vừa nói thêm vừa lướt ngón tay khắp các dòng sau đây:

Clarks yêu quý,

Mọi chuyện ổn.

Em hãy chờ anh ở Bryggen để cùng ăn cá trích.

Hãy gọi điện tới Bergenhus,

nhớ mua hoa mimosa nhé, giờ đang là đầu mùa.

Thân ái.

- Thế mẩu quảng cáo này là dành cho cô à?

- Mimosa là loài hoa yêu thích nhất của bà tôi, chỉ có ông ấy và tôi mới biết.

- Thế phần còn lại nghĩa là gì?

- Nghĩa là có rắc rối. - Suzie đáp. Tôi nghĩ Knopf đang ở Na Uy.

- Cô vẫn tin tưởng ông ta vậy sao?

- Hơn bao giờ hết.

Andrew mở cẩm nang du lịch.

- Chúng ta có đi thăm chỗ này không nhỉ, bảo tàng Lịch sử tự nhiên ấy?

Suzie gập tờ Herald Tribune lại và nhét nó vào trong túi xách.

- Tôi hoàn toàn không cảm thấy như thế. Nếu Knopf viết cho chúng ta là mọi chuyện đều ổn, tức là ông ấy đang nghĩ điều ngược lại. Nếu ông ấy viện dẫn đến đảo Clarks, đấy là để cảnh báo với chúng ta có nguy hiểm.

Andrew lật qua các trang sách, anh dừng lại ở trang in bản đồ Na Uy và nghiên cứu nó.

- Nếu cô thấy món cá trích hấp dẫn hơn thì Bryggen nằm ở đây, bên bờ biển phía Tây. Chúng ta có thể đi tới đó bằng tàu hỏa hoặc ô tô. Đi cách nào thì cũng sẽ mất khoảng bảy tiếng. Tôi đề nghĩ đi tàu hỏa, tôi không biết có cách nào thuê được xe mà không phải xuất trình giấy tờ, mà điều đó nên tránh thì hơn, anh vừa gấp cuốn cẩm nang lại.

- Hoặc bằng thủy phi cơ. Suzie gợi ý, đồng thời chỉ cho Andrew thấy cái nhãn hiệu lòe loẹt trên mục rao tin ở bìa sau cuốn cẩm nang.

Họ rời nhà ga và nhảy lên một chiếc taxi đưa họ ra bến cảng.

*

Chiếc thủy phi cơ, xếp hàng đậu trên biển, dập dềnh những chiếc phao. Phía cuối tàu, có một căn nhà gỗ nhỏ được dùng làm trụ sở của hãng du lịch Nordairway Tour. Andrew đẩy cửa bước vào. Một người đàn ông bụng phệ, đang uể oải trên chiếc ghế bành, hai bàn chân xòe ra gác lên chiếc bàn thấp, đang ngáy đều đều, như chiếc lò sưởi cũ kỹ đã được chất đầy củi. Suzie hung hắng ho. Người đó mở mắt, ngáp dài rồi mỉm cười hết cỡ với cô. Sau bộ râu bạc trắng muốt, trông cứ như một ông già Noel vừa đột ngột hiện ra từ một câu chuyện cổ tích.

Suzie hỏi ông ta xem có thể đưa họ tới Bryggen được không. Người đàn ông vươn vai đáp rằng nếu đưa mười nghìn curon thì hai tiếng nữa họ sẽ có mặt ở đó. Nhưng trước đó ông ta còn phải đi giao một lô dụng cũ đã, ông ta vừa nhìn đồng hồ nói thêm. Có thể đến đầu giờ chiều ông ta sẽ về tới nơi. Suzie chào giá thêm hai nghìn curon, và ông già liền đoán chắc rằng lô hàng kim khí kia có thể đợi.

Chiếc thủy phi cơ Beaver De Havilland cũng mang dáng vẻ xởi lởi như phi công lái nó, với cái mũi to tròn, và phần khoang dày dặn. Đậu trên những chiếc phao, trông nó hơi ì ạch. Andrew ngồi vào chỗ phụ lái còn Suzie ngồi phía sau. Không phải Andrew có chút kiến thức kỹ năng gì về hàng không, mà chẳng qua viên phi công chỉ định như vậy. Động cơ hung hắng ho, khặc ra những cuộn khói đen lớn, và ổn định chế độ. Viên phi công tháo dây neo vào bến tàu rồi đóng cửa khoang lái.

Máy bay lướt trên mặt nước ra phía cửa sông, hơi tròng trành mỗi lần cắt ngang đường rẽ sóng của những chiếc xà lan đang vào cảng.

Khi đã đi qua ngon hải đăng, viên phi công đẩy cần gạt, động cơ chồm lên, cả khoang rung lên bần bật.

- Nhấc chân cậu ra khỏi bàn đạp lái đi, nếu cậu không muốn xong đời dưới nước, ông ta làu bàu, bàn đạp ấy, mẹ kiếp nhấc chân cậu ra!

Andrew làm theo và chiếc thủy phi cơ bay lên cao.

- Trời đẹp quá, viên phi công nói tiếp, chúng ta hẳn sẽ không bị rung lắc quá đâu.

Ông ta bẻ lái và Suzie thấy cảng Oslo khuất dần dưới cánh máy bay.

*

Một thứ ánh sáng mờ đục lọt qua các lỗ châu mai trên pháo đài Bergenhus. Vọng gác, mới đây thôi, đã tìm lại được một số đồ đạc từng được đặt ở đây thời xa xưa. Một chiếc bàn gỗ và vài băng ghế, được sao phỏng tài tình dưới bàn tay của các thợ mộc và thợ gỗ trong vùng. Công việc trùng tu vẫn chưa hoàn thiện và khu vực này của bảo tàng vẫn đóng cửa với công chúng.

Knopf dấu những bước chân ông trên mặt đất khô cứng khắp sàn nhà. Giả như nghe thấy tiếng ro ro của những tàu đánh lưới rê vọng từ xa, hẳn ông sẽ nghĩ mình bị đưa trở về những thế kỉ xa xưa. Một phút mơ mộng mà ông đã ngỡ gần như thành sự thật khi thấy gương mặt người đàn ông vừa bước vào phòng.

- Tôi tưởng ông về hưu rồi. Ashton vừa tiến lại chỗ ông vừa nói.

- Nhiều người không có được cái quyền ấy. Knopf vặn lại

- Cuộc hẹn này có cần thiết không?

- Con bé đang ở đây, Knopf đáp. Tôi đi trước con bé vài tiếng đồng hồ.

- Mathilde?

- Mathilde chết rồi, tôi đang nói với ông về con gái của cô ấy.

- Con bé ấy biết chuyện à?

- Tất nhiên là không, chúng ta là hai người duy nhất biết chuyện.

- Vậy thì nó tới Na Uy làm gì?

- Tự cứu mạng.

- Thế ông ở đây là để giúp đỡ nó, tôi đoán thế.

- Tôi hy vọng làm được thế, điều đó phụ thuộc nhiều vào ông.

- Vào tôi sao?

- Tôi cần có tập hồ sơ; Ashton, đó là món tiền chuộc duy nhất có thể ngăn bầy chó săn bám riết lấy con bé.

- Lạy Chúa, Knopf à, khi nghe ông nói, tôi có cảm tưởng đã trở lại bốn mươi năm trước.

- Đó cũng chính là cảm giác của tôi khi nhìn thấy ông, dù mọi chuyện thời đó giản đơn hơn bây giờ. Người ta không giết những kẻ cùng phe với mình.

- Người của ông đang truy đuổi con bé ấy à? Họ biết sự tồn tại của tập hồ sơ đó?

- Họ nghi ngờ điều đó.

- Và ông muốn giao nó cho họ để cứu cháu gái của Liliane.

- Con bé là người cuối cùng của nhà Walker. Tôi đã thề với ông con bé là sẽ bảo vệ nó cho đến ngày cuối cùng của đời tôi.

- Chắc là ông sẽ chết sớm hơn. Tôi không thể làm gì được, Knopf ạ, cho ông cũng như cho con bé ấy. Và hãy tin là tôi rất lấy làm tiếc vì điều đó. Tôi không có tài liệu đó, ngay cả khi biết nó ở đâu, tôi cũng không cầm chìa để lấy được nó.

- Chìa nào?

- Chìa khóa của một cái hộp, không ai có thể bẻ được khóa mà không phá hủy tài liệu bên trong.

- Vậy là ông biết nó ở đâu.

- Về nhà đi, Knopf, ông không nên đi chuyến này và con đường của hai chúng ta không nên giao nhau một lần nữa.

- Tôi sẽ không về tay trắng đâu, Ashton. Tôi có nên…

- Giết tôi chăng? Bằng một cú đập gậy? Cuộc chiến của hai con gà già… Thôi nào, Knopf, sẽ lâm li bí đát lắm.

Knopf siết chặt cổ họng Ashton và gì ông ta vào sát tường.

- Ở tuổi này tôi vẫn còn nhiều sức lắm, mà tôi lại thấy trong mắt ông ham muốn sống thêm vài năm nữa. Tập hồ sơ đó ở đâu?

Khuôn mặt Ashton tím tái dần theo lượng oxy trong phổi giảm đi. Ông ta cố chống cự, nhưng Knopf khỏe hơn ông ta. Hai chân nhũn ra, Ashton trượt xuống dọc tường, trong lúc ngã xuống đã kéo theo cả kẻ tấn công.

- Tôi cho ông cơ hội cuối cùng. Knopf cúi xuống nói đồng thời nới lỏng cú siết.

Ashton ho sặc sụa khi được trở lại.

- Hai lão già đánh nhau chí chết, ông ta hổn hển. Khi tôi nghĩ tới sự nghiệp chúng ta đã có, nếu những người được chúng ta đào tạo nhìn thấy cảnh này, khác nào làm trò cười cho họ!

- Tôi đã giữ kín lời nói dối của ông, Ashton. Tôi biết ông vẫn chưa thực hiện đến cùng nhiệm vụ của mình. Nếu tôi nói ra chuyện đó, sự nghiệp của ông hẳn đã lao xuống hố sâu.

- Ông biết chuyện đó vì Edward đã nói với ông, một lời thầm kín bên gối chăng?

Knopf tát Ashton. Người điệp viên già ngã lăn ra sàn. Ông ta vừa đứng dậy vừa xoa má.

- Tôi không phải không biết chuyện gì đã xảy ra giữa ông và thượng nghị sĩ.

- Bà ấy đã nói với ông sao?

- Đương nhiên là bà ấy. Trong lúc tôi đưa bà ấy tới cái chết, trong khu rừng ấy, cách đây 100 cây số, bà ấy đã kể cho tôi nghe về cuộc đời mình, cả cái ngày bà ấy bước vào phòng và bắt gặp ông trên giường cùng chồng bà ấy. Ông thấy không, tôi cũng đã giữ vài bí mật nho nhỏ của ông. Thật xúc động mạnh khi tình cảm ông dành cho thượng nghị sĩ vẫn không suy chuyển theo thời gian, nhưng ông cứ việc bóp chết tôi nếu muốn, chuyện đó sẽ chẳng thay đổi được gì hết. Tôi không thể làm gì để cứu con nhỏ Walker. Bảo vệ nó là việc của ông, không phải việc của tôi.

Knopf tiến lại một lỗ châu mai. Ông gỡ tấm nhựa che chắn và chiêm ngưỡng tầm nhìn. Từ vị trí này, có thể nhìn thấy vùng cửa bến cảng và những mỏm nhấp nhô của những con vịnh nổi lên trên biển Bắc. Ông tự hỏi bao năm tháng nữa chúng sẽ biến mất dưới làn sóng biển. Hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm, có thể lâu hơn một chút chăng? Bây giờ, phải chăng từ thành lũy của pháo đài thành cổ này, ta sẽ thấy bùng lên trong màn đêm địa cực ngọn lửa khổng lồ của hệ thống giàn khoan, khi hệ thống đó đã mọc lên trên Bắc Băng Dương như những hạm đội thuyền hỏa công được châm lửa điên loạn của con người?

- Nó ở đó, phải không? Knopf nói, vẻ tư lự. Ông đã giấu nó trong lớp váy đó. Công chúa Tuyết nắm giữ chính cái bí mật sẽ kết liễu mình. Thật ranh ma, ai có thể nghĩ tới điều đó chứ?

- Tôi, Ashton nói, đồng thời bước lại gần Knopf.

Con dao cắm sâu vào lưng Knopf từ phía trên thắt lưng, Ashton ấn lưỡi dao sâu lút cán.

Knopf chết sững bởi con đau và nhăn nhó sụp xuống.

- Và Công chúa Tuyết sẽ mang nó xuống mồ. Ashton thì thào vào hõm tai ông. Tập hồ sơ sẽ biến mất cùng nàng.

- Tại sao? Knopf rên rỉ khi trượt dài trên sàn nhà.

Với cử chỉ gần như ân cần, Ashton giúp ông dựa vào tường. Ông ta quỳ xuống bên cạnh ông và thở dài.

- Tôi chưa bao giờ thấy vui thú khi giết người. Mỗi lần phải làm việc ấy, với tôi, đều là thử thách kinh hoàng. Chẳng gì hoan hỉ khi đứng nhìn một chiến hữu già chết. Nhiệm vụ của ông là bảo vệ con gái của thượng nghĩ sĩ Walker và cháu gái ông ấy, nhiệm vụ của tôi là bảo vệ vợ ông ấy. Sự cứng đầu của ông gây trở ngại cho chúng tôi, tôi không còn lựa chọn nào khác.

Knopf mỉm cười, khuôn mặt ông dúm dó. Ashton cầm lấy tay ông.

- Ông có đau lắm không?

- Không đến mức như ông nghĩ đâu.

- Tôi sẽ ở lại với ông đến cuối, ít ra tôi cũng nợ ông chuyện đó.

- Không, Knopf lẩm bẩm, tôi muốn ở một mình hơn.

Ashton vỗ vỗ tay Knopf. Ông ta đứng dậy, lảo đảo ra cửa vọng gác rồi ngoái lại nhìn Knopf trước khi đi khỏi. Nét buồn trong ánh mắt ông ta không hề giả tạo.

- Tôi rất tiếc.

- Tôi biết mà. Knopf nói. Giờ thì đi đi.

Ashton giơ tay lên trán, chào ông theo kiểu nhà binh. Một cách vĩnh biệt với người đồng đội cũ.

*

- Chúng ta sắp tới nơi rồi, viên phi công vừa thốt lên vừa chỉ những ngôi nhà gỗ nhỏ xíu ở Bryggen có thể nhìn thấy phía xa xa. Biển động, tôi sẽ đáp xuống cửa sông. Cài dây an toàn vào đi, thủy phi cơ luôn phải đề phòng rủi ro lúc hạ cánh, mà khi ấy thì dữ dội lắm.

- Cái tay Bergenhus mà chúng ta phải gọi tới nơi này là ai? Andrew vừa ngoái lại nhìn Suzie vừa hỏi.

- Tôi không biết, chúng ta sẽ xem khi tới nơi, có thể đó là một nhà hàng phục vụ cá trích. Nếu là thế, Knopf hẳn sẽ để lại lời nhắn cho chúng ta trong cabin điện thoại gần đó.

- Bergenhus không phải là nhà hàng đâu, viên phi công bật cười chỉnh lại. Đó là một pháo đài cổ. Nó ở ngay phía dưới kia kìa, phía bên phải, ông ta vừa chỉ vừa chao nghiêng cánh. Những tòa nhà cổ xưa vẫn vững chãi ấy được xây dựng từ năm 1240. Thời chiến tranh, một tàu hàng Hà Lan chờ đầy thuốc nổ đã tan xác ngay dưới chân pháo đài. Một cuộc tàn sát kinh hoàng! Vụ cháy dữ dội đến mức ngọn lửa đã thiêu rụi gần như tất cả. Nói thế đủ rồi, giờ ta hạ cánh thôi!

*

Elias Littlefield chốt cửa văn phòng lại, tới ngồi vào chiếc ghế bành và nhấc điện thoại lên.

- Là tôi, thưa phó tổng thống.

- Elias thân mến, ông là người duy nhất vẫn còn gọi tôi là “phó tổng thống”. Chúng ta tới đâu rồi?

- Họ đã bỏ xa chúng ta tới tận cảng Oslo, nhưng chúng tôi biết họ đi đâu, một nhóm người của ta sẽ nhanh chóng bắt kịp họ.

- Tôi tưởng ông đã giăng bẫy họ?

- Knopf đã nghi ngờ gì đó, hẳn ông ta đã tìm được cách báo trước cho hai kẻ đó. Họ không tới cuộc hẹn.

- Họ đang ở đâu?

- Bryggen, người của ta không có phương tiện nào khác ngoài ô tô để đuổi theo họ. Walker và tay nhà báo đi trước bốn tiếng, nhưng tôi không thấy lo, chúng ta sẽ tóm được họ thôi.

- Ông có biết họ tới tận đó làm gì không?

- Gặp Knopf, tôi đoán thế.

- Vì ông ta cũng đã thoát khỏi tay ông?

- Đó là một đối thủ đã tường tận đường đi nước bước. Một con mồi khó mà…

- Hãy bớt viện cớ đi. Ông ta giữ hồ sơ hay không, có hay không?

- Tôi hy vọng là có; nếu như thế, ông ta sẽ muốn thương lượng đổi nó lấy mạng của cô gái mà ông ta bảo hộ. Chính vì thế tôi mới gọi cho ông, ông muốn chúng tôi làm thế nào?