Anne Tóc Đỏ Và Ngôi Nhà Mơ Ước - Chương 08

8. Cô Cornelia
Bryant ghé chơi

Tháng Chín năm
ấy là một tháng Chín sương vàng khói tím tại vũng Bốn Làn Gió… một tháng Chín
của những ngày đẫm nắng và những đêm ngụp lặn trong ánh trăng, hay phập phồng
những vì sao. Không một trận bão nào làm xây xước tháng Chín, không cơn gió dữ
nào thổi qua. Anne và Gilbert thu xếp tổ ấm của họ, lang thang trên bờ biển,
dong thuyền trên vịnh, đánh xe quanh Bốn Làn Gió và Glen, hay qua những con
đường rừng cô tịch mọc đầy dương xỉ quanh vịnh cảng; tóm lại, họ đã có một
tháng trăng mật mà bất cứ cặp tình nhân nào trên thế giới cũng phải ghen tị.

“Nếu cuộc sống có
phải dừng lại ngắn ngủi ngay bây giờ thì nó vẫn vô cùng đáng sống, nếu chỉ nhờ
bốn tuần vừa qua, phải không anh?” Anne nói. “Chắc chúng ta sẽ chẳng bao giờ có
lại bốn tuần hoàn hảo đến thế nữa đâu… nhưng chúng ta đã có.
Mọi thứ… gió, thời tiết, bạn bè, căn nhà mơ ước… đã thông đồng với nhau để làm
cho tháng trăng mật của chúng ta thật diệu kỳ. Chưa có đến một ngày mưa từ lúc
chúng mình đến đây.”

“Và chúng ta cũng
chưa cãi nhau lần nào,” Gilbert trêu.

“À, ‘đấy là một lạc
thú hoãn được chừng nào tốt chứng đấy,’ ” Anne trích. “Em rất vui là chúng mình
đã quyết định trải qua kỳ trăng mật tại đây. Những ký ức của chúng ta về nó sẽ
luôn thuộc về nơi này, trong ngôi nhà mơ ước của chúng ta, thay vì rải rác khắp
những nơi chốn xa lạ.”

Có một âm sắc lãng
mạn và phiêu lưu nhất định trong không gian căn nhà mới của họ mà Anne chưa bao
giờ tìm thấy ở Avonlea. Ở Avonlea, mặc dù cô đã sống trong tầm nhìn thấy biển,
biển chưa bao giờ bước vào đời cô một cách mật thiết. Ở Bốn Làn Gió, biển bao
bọc lấy cô và gọi cô không ngớt. Từ mọi ô cửa sổ căn nhà mới của mình, cô thấy
được một góc luôn biến đổi nào đó của biển. Tiếng rì rầm ám ảnh của nó luôn ở
trong tai cô. Những chiếc tàu ngày ngày dong vào vịnh để cập cầu cảng ở Glen,
hay giương buồm trở ra trong ánh hoàng hôn, đến những bến bờ chưa biết chừng
cách cả nửa vòng trái đất. Những thuyền cá lướt đôi cánh trắng xuống kênh nước
vào buổi sáng, và trở về trĩu nặng vào ban đêm. Thủy thủ và dân chài đi
trên những con đường cảng đất đỏ quanh co, vui vẻ và hài lòng. Lúc
nào cũng có cảm giác mọi điều đang sắp sửa xảy ra-những cuộc phiêu lưu và những
chuyến đi. Đường ở Bốn Làn Gió ít phẳng lặng, ổn định và mòn cũ như đường ở
Avonlea; những ngọn gió của sự đổi thay thổi tràn qua chúng; biển vẫy gọi liên
hồi những cư dân trên bờ, và ngay cả những người có thể không trả lời tiếng gọi
đó cũng cảm nhận được sự hào hứng và biến động và bí ẩn cũng như những tiềm
năng của nó.

“Giờ thì em hiểu vì
sao một số người nhất định phải ra biển,” Anne nói. “Cái khao khát đến với tất
cả chúng ta, lúc này hay lúc khác -‘dong buồm vượt ra ngoài biên giới của
hoàng hôn’-hẳn phải mãnh liệt lắm một khi nó nảy nở trong ta. Em không ngạc
nhiên khi thuyền trưởng Jim chạy theo tiếng gọi của nó. Em không bao giờ nhìn
một con tàu lướt ra ngoài kênh nước, hay một con chim mòng tung cánh qua đồi
cát, mà không ao ước mình cũng ở trên boong tàu hoặc có cánh, không phải như
một chú bồ câu ‘tung cánh hòa bình’, mà như một con mòng biển, sải cánh bay ra
vào tận trái tim của một cơn bão.”

“Em sẽ ở nguyên đây
với anh, bé Anne ạ,” Gilbert nói vẻ lười biếng. “Anh sẽ không cho em rời khỏi
anh bay vào các tâm bão nọ kia đâu.”

Họ đang ngồi trên
bậc thềm sa thạch đỏ vào một buổi chiều muộn. Vẻ bình yên tuyệt diệu ngự trị
khắp chung quanh hai người trong đất và biển và trời. Những chú mòng biển màu
bạc đang bay lượn trên đầu họ. Đường chân trời viền những dải mây mỏng dài màu
hồng hồng. Một điệp khúc gió và sóng du ca thì thầm xâu chỉ qua không gian nín
lặng. Những bông cúc tây tím nhạt đong đưa trên những đồng cỏ khô mù sương giữa
căn nhà và vịnh cảng.

“Các bác sĩ phải
thức cả đêm trông người bệnh chắc chẳng máu phiêu lưu lắm đâu nhỉ,” Anne ngoan
ngoãn nói. “Nếu đêm qua mà anh được ngủ ngon, Gilbert ạ, thì anh cũng sẽ sẵn
sàng cho một chuyến bay tưởng tượng giống em thôi.”

“Đêm qua anh đã làm
việc tốt, Anne ạ,” Gilbert nhẹ nhàng nói. “Dưới Chúa, anh đã cứu một mạng
người. Đây là lần đầu tiên anh có thể thật sự thừa nhận điều đó. Trong các
trường hợp khác có lẽ anh cũng giúp phần nào; nhưng mà, Anne ạ, nếu đêm qua anh
không ở lại nhà Allonby mà tay bo chiến đấu với thần Chết, thì người phụ nữ ấy
đã chết trước lúc trời sáng rồi. Anh đã thử nghiệm một phương pháp chắc chắn
trước đây chưa bao giờ được làm thử ở Bốn Làn Gió. Anh nghi là thậm chí nó còn
chưa được thử nghiệm ở bất cứ nơi nào khác ngoài bệnh viện. Đây là một phương
pháp mới ở bệnh viện Kingsport từ mùa đông trước. Anh đã không bao giờ dám thử
nếu anh không hoàn toàn chắc chắn là không còn bất cứ cơ hội nào khác. Anh đã
liều… và đã thành công. Kết quả là, một người vợ và một người mẹ tốt đã được
cứu để sống thêm nhiều năm hạnh phúc và hữu ích. Lúc anh đánh xe về nhà sáng
nay, khi mặt trời ló lên trên cảng, anh đã cảm tạ Chúa vì anh đã chọn nghề mình
đang làm. Anh đã đánh một trận cừ và đã thắng-em hãy nghĩ đi Anne, chiến
thắng
Kẻ Hủy Diệt Vĩ Đại. Đây là điều anh mơ ước từ rất lâu rồi khi
chúng ta cùng nhau nói về những điều ta muốn làm trong đời. Giấc mơ ấy của anh
đã trở thành sự thật sáng hôm nay.”

“Đấy có phải là
giấc mơ duy nhất của anh đã trở thành sự thật không?” Anne hỏi, hoàn toàn biết
rõ đại ý câu trả lời của anh sẽ là gì, nhưng vẫn muốn nghe lại một
lần nữa.

Em biết
mà, bé Anne,” Gilbert nói, mỉm cười nhìn mắt cô. Vào giây phút ấy chắc chắn có
hai con người hoàn toàn hạnh phúc ngồi trên bậc thềm của một căn nhà trắng nhỏ
trên bờ vịnh cảng Bốn Làn Gió.

Đúng lúc đó Gilbert
nói, đổi giọng, “Có phải anh đang thấy một con tàu trang bị đủ đồ nghề đang
dong buồm hướng lên đường vào nhà mình không nhỉ?”

Anne nhìn và bật
dậy.

“Chắc là cô
Cornelia Bryant hoặc là bà Moore đến hỏi thăm đấy,” cô nói.

“Anh vào văn phòng
đây, và nếu đấy là cô Cornelia thì anh cảnh cáo em là anh sẽ nghe lén đấy,”
Gilbert nói. “Từ những gì nghe được về cô Cornelia, anh kết luận là cuộc chuyện
trò với cô ấy sẽ không nhàm chán đâu, đấy là nói nhẹ nhất rồi đấy.”

“Có thể là bà
Moore.”

“Anh không nghĩ bà
Moore có dáng người như vậy. Hôm trước anh thoáng thấy bà ấy làm việc trong
vườn, và, mặc dù đứng xa quá không nhìn rõ được, anh nghĩ bà ấy trông khá thanh
mảnh. Bà ấy có vẻ không thích giao thiệp xã hội cho lắm khi mà vẫn chưa đến hỏi
thăm em, mặc dù bà ấy là láng giềng gần nhất của chúng ta.”

“Chí ít thì bà ấy
cũng không thể giống như bà Lynde, bằng không thì trí tò mò đã mang bà ấy đến
rồi,” Anne nói. “Người khách này, em nghĩ, là cô Cornelia.”

Đúng là cô
Cornelia; hơn nữa, cô Cornelia không đến chỉ để thăm hỏi đám cưới ngắn gọn và
xã giao. Cô cắp theo một bộ đồ nghề đựng trong một cái gói to đùng, và khi Anne
mời cô ở lại cô đàng hoàng cởi chiếc mũ đi nắng to uỳnh, được gắn lên đầu cô,
bất chấp những cơn gió tháng Chín xấc láo, bằng một dải băng chun chật ních
buộc dưới một búi tóc vàng nhỏ chặt. Không kim băng cài mũ cho cô Cornelia, cảm
ơn nhé! Dây chun đã là đủ cho mẹ cô, và chúng cũng đủ cho . Cô có
khuôn mặt tươi tắn, tròn trịa, trắng hồng, và đôi mắt nâu vui vẻ. Cô không
giống một “bà cô già” truyền thống tí nào, và có gì đó trong cung cách của cô
chiếm ngay được cảm tình của Anne. Với sự nhanh nhạy bản năng trong việc tìm
kiếm những tâm hồn đồng điệu, cô biết cô sẽ thích cô Cornelia, bất chấp một số
khác biệt chưa xác định về chính kiến, và những khác biệt rõ ràng về cách ăn
mặc.

Không ai ngoài cô
Cornelia đến thăm nhà mà lại khoác lên mình một cái tạp dề sọc xanh trắng và
một chiếc áo choàng màu sô cô la với hoa văn in hình những bông hồng to tướng
vương vãi trên đó. Và không ai ngoài cô Cornelia có thể trông đường hoàng và
phù hợp khi ăn mặc như thế. Giá kể cô Cornelia có bước vào một cung điện để
thăm hỏi cô dâu của một hoàng tử, thì cô trông cũng sẽ đường hoàng và hoàn toàn
làm chủ bản thân y như vậy. Cô sẽ lê cái viền váy hoa hồng của mình trên mặt
sàn đá cẩm thạch cũng với vẻ vô tư lự như thế, và cô cũng sẽ bình thản tiến
hành quá trình làm cho nàng công chúa kia tỉnh ngộ nếu nàng ta manh nha có ý
nghĩ rằng việc sở hữu một gã đàn ông, dù đấy là hoàng tử hay nông dân, là một
cái gì đáng để mà khoác lác.

“Ta có mang theo đồ
nghề đây, cháu Blythe, cưng ạ,” bà nhận xét, tháo ra một ít vật liệu rất thanh
nhã. “Ta đang vội làm cho xong cái này, và không còn thì giờ đâu để mà bỏ phí
nữa.”

Anne nhìn với chút
ngạc nhiên chỗ vải trắng trải khắp trên lòng cô Cornelia. Rõ ràng đấy là
một chiếc váy cho trẻ con, và nó mới đẹp làm sao chứ, những viền những nếp bé
tí ti. Cô Cornelia chỉnh lại kính và chú mục vào thêu những đường chỉ thật là
tinh tế.

“Cái này là cho
Fred Proctor ở trên Glen,” bà tuyên bố. “Chị chàng sắp sinh đứa thứ tám tới nơi
rồi, mà chưa chuẩn bị cho nó lấy một cái áo cái quần nào. Bảy đứa trước đã mặc
nát tất cả những gì chị ta may cho đứa thứ nhất, và chị ta không bao giờ có thì
giờ hay sức lực hay tinh thần để may thêm cái gì nữa. Người đàn bà ấy đúng là
một tu sĩ tử vì đạo đấy, tin ta đi, cháu Blythe ạ. Khi chị ta
cưới Fred Proctor ta đã biết chuyện sẽ thành ra như thế nào
rồi, một gã đồi bại và hấp dẫn. Sau khi hắn lấy vợ hắn hết hấp dẫn mà chỉ tiếp
tục đồi bại. Hắn uống rượu vào rồi hắn bỏ bê gia đình. Đúng là đồ đàn ông! Ta
cũng không biết Proctor làm thế nào mà giữ cho con cái chị ta ăn mặc tử tế nếu
hàng xóm không đỡ cho nữa.”

Như Anne sau này sẽ
biết, cô Cornelia là người hàng xóm duy nhất mất công lo cho sự tử tế của mấy
đứa nhỏ nhà Proctor.

“Khi nghe tin đứa
trẻ thứ tám này sắp chào đời ta đã quyết định sẽ làm vài thứ cho nó,” cô
Cornelia nói tiếp. “Đây là cái cuối cùng và ta muốn làm cho xong luôn hôm nay.”

“Nó rõ ràng là rất
đẹp ạ,” Anne nói. “Cháu sẽ lấy bộ đồ thêu của cháu và chúng ta sẽ có một nhóm
may vá nhỏ gồm có hai người. Cô may đẹp quá, cô Bryant ạ.”

“Ừ, ta là thợ máy
khéo nhất vùng này đấy,” cô Cornelia nói bằng giọng thản nhiên. “Phải thế chứ
còn gì nữa! Chúa ơi, ta may đồ còn nhiều hơn cả nếu ta có một trăm đứa con
ruột, tin ta đi! Ta nghĩ ta thật là đồ ngốc, ta thêu tay trên
cái váy này cho một đứa con thứ tám. Nhưng, Chúa ơi, cháu Blythe, cưng ạ,
làm sao đổ lỗi cho nó vì nó là đứa con thứ tám được, và ta thì đại loại hy vọng
nó có một cái váy thật xinh, như thể là một đứa con được mong
chờ vậy. Chả ai thèm cái con bé tội nghiệp đó cả… thế nên ta bày vẽ thêm chút
xíu trên mấy thứ đồ của nó chỉ riêng vì điều đó.”

“Bất cứ đứa trẻ nào
cũng có thể tự hào về chiếc váy đó,” Anne nói, cảm nhận ngày càng mạnh mẽ là
mình sẽ thích cô Cornelia.

“Ta đoán cháu đã
nghĩ ta sẽ chẳng bao giờ đến hỏi thăm cháu,” cô Cornelia nói tiếp. “Nhưng đang
là tháng gặt, cháu biết đấy, và ta bận lắm… rất nhiều công nhân làm thêm lởn
vởn xung quanh, ăn nhiều làm ít, đúng là đồ đàn ông. Ta định sang hôm qua,
nhưng lại phải đến dự đám tang của bà Roderick MacAllister. Ban đầu ta nghĩ đầu
mình nhức quá, không thể nào vui vẻ được nếu mà đi. Nhưng bà ta một trăm tuổi
lận, và ta lúc nào cũng tự hứa với lòng là sẽ đi dự đám tang của bà ta.”

“Đám tang có… ừm,
thuận lợi không ạ?” Anne hỏi, nhận thấy cửa phòng làm việc đang he hé.

“Cái gì cơ? À, có,
đám tang hoành tráng lắm. Bà ta quan hệ rộng lắm. Có tới hơn một trăm hai mươi
cỗ xe trong lễ đưa tang. Có một hai chuyện tức cười xảy ra. Ta tưởng ta chết
tới nơi khi thấy lão già Joe Bradshaw, vốn không theo đạo và chưa bao giờ hắt
bóng lên cửa một cái nhà thờ nào, lại hát bài ‘An toàn trong vòng tay của đức
Jesus’ nhiệt tình hăng hái tới mức đó. Ông già nổi danh hát hay… chính vì thế
ổng không bỏ qua một đám tang nào. Bà già Bradshaw tội nghiệp trông không có vẻ
gì là thích hát hò… nai lưng phục vụ chồng con đã mệt chết ra rồi. Thỉnh thoảng
ông già Joe lại lên đường đi mua cho bà vợ một món quà nhưng rồi lại lôi về nhà
một món máy móc nông trại mới nào đó. Đúng là đồ đàn ông! Nhưng một người đàn
ông mà không bao giờ đi nhà thờ, ngay cả nhà thờ Giám lý, thì trông mong được
gì? Ta thật mừng khi thấy cháu với bác sĩ trẻ trong nhà thờ Trưởng lão hôm Chủ
nhật đầu tiên các cháu tới đây. Không Trưởng lão thì không có bác sĩ bác siếc
gì với ta sất.”

“Tối Chủ nhật tuần
trước chúng cháu mới đi nhà thờ Giám lý đấy ạ,” Anne ranh mãnh nói.

“Ồ, ta đoán bác sĩ
Blythe thỉnh thoảng cũng phải đi nhà thờ Giám lý, nếu không thì sẽ mất bệnh
nhân bên đó.”

“Chúng cháu thích
bài giảng đạo hôm đó lắm,” Anne bạo gan tuyên bố. “Và cháu nghĩ lời cầu nguyện
của vị mục sư Giám lý là một trong những lời cầu nguyện hay nhất cháu từng được
nghe.”

“Ồ, ta không nghi
ngờ chuyện thằng cha ấy biết cầu nguyện. Ta chưa bao giờ nghe ai cầu nguyện hay
hơn ông già Simon Bentley, lúc nào cũng say, hoặc sắp say, mà càng say thì ông
ta cầu nguyện càng hay.”

“Mục sư Giám lý rất
đẹp trai,” Anne nói, vì lợi ích của cánh cửa phòng làm việc.

“Đúng, hắn khá chải
chuốt,” cô Cornelia đồng ý. “Ồ, và rất chi nữ tính. Và hắn nghĩ cô gái nào nhìn
hắn cũng sẽ sa bẫy tình yêu với hắn… như thể một mục sư Giám lý, cà lơ phất
phơ như một tên Do Thái, là cái quý báu lắm ấy! Nếu cháu và bác sĩ trẻ mà
nghe lời khuyên của ta, thì các cháu không nên dính dáng nhiều đến đám
Giám lý. Phương châm của ta là… nếu đã là người của Giáo hội Trưởng lão, hãy cư
xử cho ra người Trưởng lão.”

“Cô không nghĩ là
người theo Giáo hội Giám lý cũng được lên thiên đường như người theo Giáo hội
Trưởng lão sao?” Anne hỏi, không cười cợt.

“Chuyện đó đâu đến
lượt chúng ta quyết định. Nó nằm trong những bàn tay cao hơn
chúng ta, cô Cornelia nghiêm trang nói. “Nhưng ta sẽ không dây dưa với bọn họ
trên mặt đất, dù ta có thể phải làm thế trên thiên đường. Cái gã mục sư Giám
này chưa lấy vợ. Ông trước thì có vợ, và vợ ông ta là cái
thứ ngờ nghệch, đồng bóng nhất ta từng thấy. Có lần ta nói với chồng cô ta rằng
ông ta lẽ ra nên đợi tới khi cô ta lớn rồi hãy lấy làm vợ. Ông ta bảo ông ta
muốn được huấn luyện vợ. Đúng là đồ đàn ông!”

“Cũng hơi khó xác
định chính xác khi nào thì con người ta lớn,” Anne bật cười.

“Cháu nói đúng đó
cưng. Một số người mới sinh ra đã trưởng thành rồi, và số khác đến tám mươi
tuổi cũng chưa lớn, tin ta đi. Cái bà Roderick ta mới đó cũng
không bao giờ lớn. Một trăm tuổi rồi bà ta vẫn ngốc y như hồi lên mười.”

“Có lẽ vì vậy mà bà
ấy sống lâu đến thế,” Anne gợi ý.

“Chắc vậy. Ta thà
sống năm mươi năm biết điều còn hơn một trăn năm ngơ ngốc.”

“Nhưng cứ thử nghĩ
thế giới này sẽ tẻ nhạt biết bao nhiêu nếu ai ai cũng đầy lý trí,” Anne nài nỉ.

Cô Cornelia coi
thường mọi cuộc đôi co về thơ thẩn vần vèo vớ vẩn.

“Bà Roderick là một
người nhà Milgrave, và nhà Milgrave chưa bao giờ có mấy đầu óc cả. Cháu trai
của bà ta, Ebenezer Milgrave, hồi xưa còn bị mất trí cả mấy năm trời kia. Hắn
tưởng mình chết rồi và thường nổi cơn tam bành với cô vợ vì cô ta không chịu
chôn hắn. Phải tay ta là ta chôn luôn!”

Cô Cornelia trông
quyết tâm sắt đá tới mức Anne gần như có thể hình dung ra cô với một con dao
bầu trong tay.

“Cô không biết
người chồng nào tốt hết sao, cô Bryant?”

“Ồ, có, đầy… ngoài
kia kìa,” cô Cornelia nói, vẫy tay qua cửa số mở về phía khu nghĩa trang nhỏ
của nhà thờ phía bên kia cảng.

“Nhưng mà còn sống
ấy… đi lại bằng xương bằng thịt ấy?” Anne khăng khăng.

“Ồ, cũng có vài
tay, để thấy là với Chúa mọi thứ đều có thể,” cô Cornelia thừa nhận một cách
miễn cưỡng. “Ta không phủ nhận là chỗ nọ chỗ kia cũng có một vài gã đàn ông lạc
loài, nếu tóm được sớm và huấn luyện đúng cách, và nếu mẹ gã đã tét mông gã ra
trò từ trước, có thể thành ra người tử tế. Chồng cháu này,
cũng không đến nỗi tồi, xét theo tiêu chuẩn đàn ông, từ những gì ta nghe được.
Ta đoán,”… cô Cornelia nhìn Anne một cái sắc lẻm qua cặp kính… “cháu cho rằng
trên đời này không có ai như chồng cháu.”

“Không có đâu ạ,”
Anne đàng hoàng nói.

“À ờ, ta từng nghe
một cô dâu nói câu đó một lần rồi,” cô Cornelia thở dài. “Jennie Dean lúc cưới
đã nghĩ không có ai như chồng cô ta trên đời này. Và cô ta nói
đúng… làm gì có! Đúng quá đi mà, tin ta đi! Hắn ta dẫn cô ta
vào một cuộc đời kinh khủng… và lúc cô ta hấp hối thì hắn đang tán cô vợ thứ
hai của hắn. Đúng là đồ đàn ông! Tuy nhiên, ta hy vọng sự tự tin của cháu
cơ sở hơn, cưng ạ! Bác sĩ trẻ đang được tiếng lắm. Lúc đầu ta sợ là không được
đâu, vì bà con quanh đây lúc nào cũng nghĩ bác sĩ Dave già là bác sĩ duy nhất
trên thế giới. Bác sĩ Dave không khôn khéo gì cho lắm, chắc chắn rồi… toàn nói
chuyện dây thừng trong nhà có người treo cổ thôi. Nhưng dân tình hễ đau bụng là
quên để bụng. Nếu bác ấy mà là mục sư thay vì bác sĩ thì đừng hòng người ta tha
thứ cho bác ấy. Ta thấy là cả hai đứa đều là người Giáo hội Trưởng lão và không
có gã Giám lý nào ở quanh đây, cháu có thể cho ta biết ý kiến thẳng thắn của
cháu về mục sư của chúng ta được không?”

“Chà… thật tình…
cháu… ừm,” Anne ngần ngừ.

Cô Cornelia gật
đầu.

“Chính xác. Ta đồng
ý với cháu, cưng ạ. Chúng ta đã phạm một sai lầm khi thuê ông ta.
Cái mặt ông ta trông đúng như một trong mấy cái bia mộ dài và hẹp trong nghĩa
trang, nhỉ? Đáng lẽ người ta nên khắc lên trán ông ta dòng chữ ‘Thiêng
liêng trong ký ức’ mới phải. Ta sẽ không bao giờ quên được bài đầu tiên
ông ta giảng lúc về đây. Nó nói về việc tất cả mọi người nên làm việc mà
họ thấy hợp với mình nhất… một đề tài rất hay, dĩ nhiên; nhưng những minh họa
ông ta dùng chứ! Ông ta nói, ‘Nếu các bạn có một con bò và một cây táo, và nếu
bạn buộc cây táo trong chuồng rồi trồng con bò trong vườn, bốn chân giơ lên,
liệu bạn sẽ lấy được bao nhiêu sữa từ cây táo và mấy quả táo từ con bò?’ Trần
đời cháu đã bao giờ nghe thứ gì như vậy chưa cưng? Ta mừng hết lớn là hôm ấy
không có gã Giám lý nào ở đó… bằng không thì chúng nó lải nhải bình loạn cả đời
chẳng hết. Nhưng cái ta không thích nhất ở ông ta là thói quen đồng ý với tất
cả mọi người, dù người ta có nói chuyện gì. Nếu cháu nói với ông ta, ‘Ông là đồ
cà chớn,’ ông ta sẽ nói, kèm theo cái nụ cười nuột nà, ‘Đúng, chính thế.’ Một
mục sư phải có nhiều chính kiến hơn tí chứ. Nói dài nói ngắn, nói tóm lại là,
ta xem ông ta là một gã mục sư chết tiệt. Nhưng, dĩ nhiên, đó là giữa ta với
cháu thôi nhé. Dân tình có người nghĩ vợ ông ta ăn mặc vui vẻ qua, ta thì
bảo là khi bà ta phải sống với một cái mặt như vậy thì bà ta cần cái gì đó để
làm mình vui lên chứ. Cháu sẽ không bao giờ nghe ta kết tội một phụ nữ vì quần
áo của cô ta. Chồng cô ta không quá keo kiệt xấu tính mà cho cô ta ăn diện
là ta mừng hết lớn rồi. Nói vậy không phải là bản thân ta quan tâm đến quần áo
gì lắm đâu. Phụ nữ chỉ mặc đẹp để chiều lòng đàn ông, và ta không bao giờ hạ
mình tới mức đó. Ta đã sống một đời bình lặng, dễ chịu, và chính là vì
ta không bao giờ để ý một xu tới những gì đàn ông nghĩ.”

“Sao cô ghét đàn
ông thế, hở cô Bryant?”

“Chúa ơi, cưng à, ta
không ghét họ. Họ không đáng. Ta chỉ đại loại là coi thường họ. Ta nghĩ ta sẽ
thích chồng cháu nếu nó tiếp tục như nó đã bắt đầu. Nhưng
ngoài nó ra thì hai người đàn ông duy nhất trên thế giới ta thấy có chút tác
dụng là ông bác sĩ già và thuyền trưởng Jim.”

“Thuyền trưởng Jim
đương nhiên là tuyệt vời rồi,” Anne đồng ý nhiệt thành.

“Thuyền trưởng Jim
là người tốt, nhưng ông ấy cũng làm ta bực mình theo một kiểu khác. Người
ta không làm sao cho ông ấy bực mình lên được. Ta đã cố gắng
hai mươi năm nay mà ông ấy vẫn điềm tĩnh. Làm ta khá là bứt rứt. Mà ta đoán cái
bà ông ấy đáng lẽ đã lấy làm vợ thể nào cũng vớ được một gã ngày nổi khùng hai
bận.”

“Bà ấy là ai thế
ạ?”

“Ồ, ta không biết,
cưng ạ. Ta chẳng nhớ thuyền trưởng Jim có bao giờ để ý tới ai không. Ông ấy đã
chớm già từ hồi ta bắt đầu nhớ được. Ông ấy bảy mươi sáu tuổi rồi, cháu biết
đấy. Ta chưa bao giờ nghe được bất cứ lý do gì khiến ông ấy chịu cảnh độc thân,
nhưng chắc chắn là có lý do, tin ta đi. Ông ấy đi biển cả đời
cho mãi đến năm năm trước, và không có xó xỉnh nào trên trái đất mà ông ấy chưa
chọc mũi vào. Ông ấy với Elizabeth Russell là bạn chí cốt, cả đời luôn ấy,
nhưng họ chưa bao giờ có chút ý nghĩ yêu đương gì. Elizabeth chẳng bao giờ lấy
chồng, mặc dù cũng có nhiều cơ hội. Hồi trẻ bà ấy đẹp lắm. Cái năm hoàng tử xứ
Wales đến thăm đảo, bà ấy đang đến chơi nhà ông chú làm nhân viên chính phủ ở
Charlottetown, thế là bà ấy được mời dự buổi vũ hội. Bà ấy là cô gái đẹp nhất ở
đấy, và hoàng tử nhảy với bà, thế là tất cả đám phụ nữ khác không được ông ta
nhảy cùng liền phát rồ lên, vì địa vị xã hội của họ cao hơn bà ấy và họ nói ông
ta không nên bỏ qua họ. Elizabeth rất chi là tự hào vì điệu nhảy ấy. Đám ác mồm
nói đấy là lý do vì sao bà ấy không lấy chồng… không chịu nổi bất cứ người đàn
ông bình thường nào nữa sau khi đã nhảy với một hoàng tử. Nhưng không phải vậy
đâu. Có lần bà ấy kể cho ta biết vì sao… đó là vì bà ấy có tính khí nóng như
lửa nên bà ấy sợ không thể sống yên bình với ông nào hết. Bà ấy nóng tính thật ấy
chứ… thỉnh thoảng bà ấy thường phải đi lên lầu cắn cho cái tủ com mốt mấy miếng
để hạ hỏa mà. Nhưng ta bảo đấy không phải là lý do để không lấy chồng nếu bà ấy
muốn. Không lý gì chúng ta phải để cho bọn đàn ông độc quyền nóng tính, phải
vậy không, cháu Blythe cưng?”

“Bản thân cháu cũng
hơi nóng tính đấy ạ,” Anne thở dài.

“Thế là tốt con ạ.
Vậy mới không dễ bị giẫm đạp lên, tin ta đi! Ôi kìa, đám cúc
vàng của cháu nở đẹp chưa kìa! Vườn nhà cháu trông ổn đấy. Elizabeth tội nghiệp
chăm bẵm khu vườn này ghê lắm.”

“Cháu yêu nó lắm,”
Anne nói. “Cháu rất mừng là nó toàn những loại hoa lỗi mốt. Nói về làm vườn,
chúng cháu muốn nhờ một người đào chỗ đất nhỏ phía sau rặng linh sam lên và
trồng mấy cây dâu tây cho chúng cháu. Gilbert bận quá, mùa thu này anh ấy sẽ
chẳng có thời gian cho việc đó đâu. Cô có biết chúng cháu có thể thuê ai được
không?”

“À, Henry Hammond
trên Glen làm mấy việc đó. Chắc là thằng cha đấy cũng được. Lúc nào hắn cũng
quan tâm đến tiền công hơn là công việc, đúng là đồ đàn ông, và hắn chậm hiểu
đến nỗi có khi đứng đơ ra năm phút mới phát hiện ra là mình đã đơ. Cha hắn
ném một gốc cây vào người hắn lúc hắn còn bé mà. Một quả tên lửa nhẹ nhàng dịu
dàng, phải không nào? Đúng là đồ đàn ông! Nhưng hắn là người duy nhất ta có thể
giới thiệu cho cháu. Hắn sơn cho ta cái nhà hồi mùa xuân năm ngoái. Giờ trông
khá là xinh đẹp đấy chứ, cháu có nghĩ vậy không?”

Anne được cứu nhờ
tiếng đồng hồ điểm năm giờ.

“Chúa ơi, trễ vậy
rồi đó hả?” cô Cornelia la làng. “Lúc vui vẻ thì thời gian trôi cái vèo vậy đó!
Thôi, ta phải vác xác về nhà đây.”

“Không được đâu! Cô
phải ở lại dùng trà với bọn cháu chứ,” Anne nhiệt thành nói.

“Cháu mời ta vì
cháu nghĩ cháu nên mời, hay vì cháu thật sự muốn thế?” cô Cornelia hất hàm hỏi.

“Vì cháu thực lòng
muốn thế.”

“Thế thì ta sẽ ở
lại. Cháu thuộc lớp người quen của Joseph.”

“Cháu biết là chúng
ta sẽ là bạn bè mà,” Anne nói, với một nụ cười mà chỉ những người có cùng đức
tin đó mới được nhìn thấy.

“Đúng là như thế,
cưng ạ. Cảm ơn Chúa, ta có thể chọn bạn mà chơi. Ta phải chấp nhận bà con họ
hàng như họ vốn thế, và phải lấy làm biết ơn nếu không có con chiên ghẻ nào
trong nhà. Mà ta cũng chả có nhiều họ hàng gì cho cam… không có ai gần hơn đám
anh chị em họ xa xa. Ta là một linh hồn khá cô đơn, cháu Blythe ạ.”

Có một nốt nuối
tiếc trong giọng cô Cornelia.

“Cháu hy vọng cô có
thể gọi cháu là Anne,” Anne bộc phát kêu lên. “Như thế nghe sẽ thân mật
hơn. Mọi người ở Bốn Làn Gió, trừ chồng cháu, đều gọi cháu là bà Blythe, làm
cháu thấy mình như người lạ ấy. Cô có biết tên cô rất gần với cái tên mà cháu
khao khát lúc cháu còn bé không. Cháu ghét tên ‘Anne’ và tự gọi mình là
‘Cordelia’ trong tưởng tượng.”

“Ta thích tên Anne.
Đấy là tên mẹ ta. Cứ tên kiểu cũ là hay nhất và ngọt ngào nhất theo ý ta. Nếu
cháu định đi dọn bữa trà thì nên gọi bác sĩ trẻ ra nói chuyện với ta đi. Nó nằm
trên chiếc sofa trong cái văn phòng đó từ lúc ta đến, cười sắp chết vì những gì
ta nói nãy giờ.”

“Làm sao cô biết?”
Anne kêu lên, hoảng hồn trước ví dụ về khả năng nhận biết phi thường này
của cô Cornelia đến nỗi không buồn chối cho lịch sự.

“Ta thấy nó ngồi
cạnh cháu lúc ta đi bộ trên đường, và ta biết mánh khóe của đám đàn ông,” cô
Cornelia vặn lại. “Đó, ta đã may xong cái váy nhỏ của ta rồi, cưng ạ, và đứa bé
thứ tám có thể chui ra bất cứ khi nào nó thích.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3