Anne Tóc Đỏ Và Ngôi Nhà Mơ Ước - Chương 09

9. Một tối ở mũi
đất Bốn Làn Gió

Mãi cuối tháng Chín
Anne và Gilbert mới đến thăm được ngọn hải đăng Bốn Làn Gió như đã hứa. Họ vẫn
thường định đi, nhưng lúc nào cũng xảy ra chuyện gì đó ngăn cản họ. Thuyền
trưởng Jim đã “tạt qua” căn nhà nhỏ vài lần.

“Ta không khách sáo
đâu, cháu Blythe ạ,” ông bảo Anne. “Với ta đến đây là cả một niềm vui thích, và
ta không định từ chối bản thân điều đó chỉ vì cháu chưa xuống thăm ta đâu.
Không nên có kiểu cò cưa mặc cả như thế trong lớp người quen của Joseph. Ta sẽ
đến khi nào có thể, và cháu cứ đến khi nào đến được, và miễn là được nói chuyện
vui vẻ với nhau thì trên đầu là mái nhà ai chả quan trọng gì hết.”

Thuyền trưởng Jim
hết sức thích thú với Gog và Magog, hai con chó sứ đang ngự trên bệ sưởi trong
căn nhà nhỏ cũng kiêu hãnh và trang nghiêm như hồi chúng còn ở nhà Patty.

“Hai cái con này dễ
thương quá trời,” ông thường nói một cách thích thú; và ông chào hỏi chúng lúc
đến cũng như lúc về, nghiêm chỉnh, không bao giờ sai khác, cũng như chào hỏi
hai vị chủ nhà vậy. Thuyền trưởng Jim không có ý định xúc phạm các vị gia thần
bởi sự thiếu sót trong tôn kính cũng như lễ nghi.

“Cháu đã thu vén
căn nhà này gần như hoàn hảo,” ông nói với Anne. “Chưa bao giờ nó được xinh xắn
như thế này. Cô Selwyn cũng có khiếu thẩm mỹ giống cháu và cô ấy làm được nhiều
thứ tuyệt lắm; nhưng bà con thời đấy làm gì có mấy cái rèm cửa nhỏ xinh rồi
tranh ảnh và hầm bà lằng các thứ như các cháu có bây giờ. Còn Elizabeth, cô ấy
sống trong quá khứ. Cháu đã gần như đem tương lai vào nhà, nôm na thế. Ta sẽ
vẫn thật là hạnh phúc ngay cả khi chúng ta không nói chuyện gì hết, khi ta đến
đây… chỉ ngồi ngắm cháu và đám tranh và hoa của cháu đã đủ sướng rồi. Đẹp… đẹp
lắm!”

Thuyền trưởng Jim
là kẻ tôn thờ nhiệt thành cái đẹp. Mọi thứ đáng yêu nghe được hay nhìn thấy đều
mang cho ông một niềm vui sâu sắc, tinh tế, tỏa sáng cuộc đời ông. Ông cũng ý
thức rất rõ việc mình thiếu một vẻ ngoài dễ nhìn, và than vãn về điều ấy.

“Bà con nói ta
tốt,” một dịp nọ ông nhận xét vẻ chua chát, “nhưng thỉnh thoảng ta ước Chúa
trời đúc ta tốt phân nửa thôi và để phần còn lại vào vẻ bề ngoài. Nhưng đó, ta
nghĩ Ngài biết Ngài đang làm gì, như một thuyền trưởng giỏi vậy. Một số người
trong chúng ta phải xấu xí, không thì những người đẹp-như cháu Blythe đây-sẽ
không được nổi bật như thế.”

Một buổi chiều nọ
Anne và Gilbert cuối cùng cũng đi bộ xuống ngọn hải đăng Bốn Làn Gió. Ngày khởi
đầu u ám trong mây xám và sương mù, nhưng đã kết thúc trong vẻ tráng lệ tím
vàng. Bên những ngọn đồi phía Tây đằng sau vịnh cảng là những vùng nước sâu
thẫm màu hổ phách và những vùng nước nông trong ngắt, với ánh lửa hoàng hôn bên
dưới. Phía Bắc là một vùng mây trời li ti vàng rực như lửa. Ánh đỏ bừng lên
trên những cánh buồm trắng của một con tàu đang lướt dọc kênh nước, hướng về
một hải cảng phía Nam trên một vùng đất đầy cây cọ. Phía sau con tàu, ánh hoàng
hôn ập xuống và nhuộm hồng những khuôn mặt trắng sáng ngời, nhẵn cỏ của những
đụn cát. Về bên phải, ánh sáng rơi trên căn nhà cũ giữa những cây liễu bên trên
con suối, và trong giây phút ngắn ngủi đem lại cho nó những ô cửa sổ rực rỡ hơn
cả cửa sổ của một nhà thờ cũ. Chúng tỏa sáng từ vẻ ngoài xám xịt lặng lẽ của
căn nhà như những suy nghĩ phập phồng, đỏ máu của một linh hồn sinh động bị cầm
tù trong một lớp vỏ môi trường khô khan nhàm chán.

“Ngôi nhà cũ phía
trên con suối kia lúc nào cũng có vẻ thật cô đơn,” Anne nói. “Em chưa bao giờ
thấy nó có khách khứa đến viếng thăm. Dĩ nhiên, lối vào nhà mở ra đường trên…
nhưng em không nghĩ có mấy người lui tới. Thật kỳ cục là chúng ta vẫn chưa gặp
nhà Moore, khi họ chỉ sống cách chúng ta mười lăm phút đi bộ. Em có thể đã nhìn
thấy họ ở nhà thờ, dĩ nhiên, nhưng dẫu vậy chắc em cũng không biết. Em rất tiếc
là họ ít giao du đến thế, trong khi họ là những hàng xóm duy nhất của chúng
ta.”

“Rõ ràng họ không
thuộc lớp người quen của Joseph,” Gilbert cười. “Em đã tìm hiểu được ai là cô
gái mà em nghĩ là rất đẹp ấy chưa?”

“Chưa. Không hiểu
vì sao em chẳng bao giờ nhớ ra để hỏi thăm về cô ấy. Nhưng em cũng chưa gặp cô
ấy ở đâu khác cả, thế nên em nghĩ có thể cô ấy là một người lạ. Ô, mặt trời đã
lặn rồi kìa… và ngọn hải đăng kia rồi.”

Khi bóng chiều sẫm
dần, con mắt đèn khổng lồ cắt từng vạt sáng xuyên qua hoàng hôn, quét một vòng
tròn qua những cánh đồng và khu cảng, cồn cát ngầm và vùng vịnh.

“Em có cảm giác như
nó có thể bắt lấy em và cuốn em hàng hải lý ra biển,” Anne nói, khi một làn đèn
tưới đẫm họ trong ánh sáng; và cô cảm thấy khá nhẹ nhõm khi họ đến đủ gần mũi
đất để nằm trong tầm với của những tia sáng rực rỡ, đều đặn kia.

Khi họ rẽ vào lối
đi nhỏ băng qua những cánh đồng dẫn đến mũi đất, họ gặp một người đàn ông bước
ra khỏi đó-một người đàn ông với vẻ bề ngoài phi thường đến nỗi trong một
khoảnh khắc cả hai cứ thế trố mắt ra nhìn. Ông là một người rõ ràng là điển
trai-cao lớn, vai rộng, các đường nét hài hòa, với một chiếc mũi kiểu La Mã và
đôi mắt xám kiên trực; ông ăn mặc theo kiểu phú nông đi nhà thờ Chủ nhật; tả
đến đó thì ông có thể là bất cứ cư dân nào của Bốn Làn Gió hoặc Glen. Nhưng,
tuôn trào trên ngực ông dài đến tận gối, là một dòng-sông-râu màu nâu uốn khúc,
và phía sau lưng ông, bên dưới chiếc mũ tầm thường, là một thác-tóc nâu dày,
lượn sóng tương ứng.

“Anne,” Gilbert thì
thầm, khi họ đã ra ngoài tầm nghe, “em không cho cái chú Dave gọi là ‘một ít
Luật Scott’ vào cốc nước chanh em đưa anh ngay trước khi ta rời nhà chứ hả?”

“Không, em không
có,” Anne nói, nén cười, sợ con người bí hiểm đang dời gót nghe được đến tận
đấy. “Ông ấy là ai dưới gầm trời này vậy?”

“Anh không biết;
nhưng nếu thuyền trưởng Jim giấu những bóng ma như vậy dưới mũi đất này thì anh
sẽ phải mang theo một cây gậy sắt trong túi mỗi khi đến đây. Ông kia không phải
thủy thủ, nếu không thì người ta đã có thể thông cảm với vẻ ngoài lập dị của
ông ấy; chắc ông ấy thuộc hội mấy người bên kia cảng. Chú Dave nói họ có một
vài tay lập dị bên đó.”

“Chú Dave hơi thiên
kiến một tí, em nghĩ thế. Anh biết tất cả những người bên kia cảng đi nhà thờ
Glen đều có vẻ rất dễ mến mà. Ôi, Gilbert, anh xem đẹp chưa kìa?”

Ngọn hải đăng Bốn
Làn Gió được xây dựng trên một mỏm đá vôi đỏ nhô ra vịnh. Ở một bên, qua kênh
nước, trải dài bờ cát bạc của cồn cát ngầm; bên kia, mở ra một bờ biển dài uốn
cong những vách đá đỏ, vươn lên thẳng đứng từ những vịnh nhỏ đầy đá cuội. Đấy
là một bờ biển đã biết đến sự diệu kỳ và bí ấn của bão và của sao. Một bờ biển
như thế luôn có một vẻ cô tịch sâu sắc. Rừng không bao giờ cô tịch… chúng đầy
những sự sống thì thầm, mời gọi thân thiện. Nhưng biển là một linh hồn uy dũng,
mãi mãi than khóc về một nỗi buồn rộng lớn, không sao chia sẻ được, tự
nhốt mình vào với chính mình trong ngàn thu. Chúng ta không bao giờ có thể
xuyên thủng sự bí ẩn không cùng của biển… chúng ta chỉ có thể lang thang, kinh
ngạc và mê hoặc, ở rìa ngoài của biển. Rừng gọi đến ta với hàng trăm giọng nói,
nhưng biển chỉ có một… một giọng nói quyền uy nhấn chìm linh hồn ta trong tiếng
nhạc huy hoàng của nó. Rừng là người, nhưng biển bầu bạn cùng những thiên
thần tối thượng.

Anne và Gilbert
thấy thuyền trưởng Jim đang ngồi trên một băng ghế ngoài ngọn hải đăng, tút lại
những đường nét cuối cùng cho một chiếc thuyền buồm đồ chơi tuyệt vời, đầy đủ
mái buồm. Ông đứng lên và chào đón họ vào nơi trú ngụ của ông với vẻ lịch sự
nhẹ nhàng, không cần cố gắng, rất hợp với ông.

“Hôm nay quả là một
ngày đẹp đẽ từ đầu đến cuối, cháu Blythe nhỉ, và bây giờ, ngay phút cuối, nó
lại phô ra vẻ huy hoàng nhất của nó. Hai đứa có muốn ngồi xuống đây ở ngoài này
một tí, khi ánh sáng còn sót lại không? Ta vừa làm xong món đồ chơi nhỏ này cho
thằng cháu họ nhỏ của ta, thằng Joe, ở trên Glen. Sau khi ta hứa sẽ làm cái này
cho nó ta cũng hơi hối hận, vì mẹ nó buồn bực lắm. Mẹ nó sợ thằng bé sau này sẽ
muốn đi biển và không muốn khuyến khích ý nghĩ đó trong đầu nó. Nhưng mà ta
biết làm sao bây giờ, cháu Blythe? Ta lỡ hứa rồi, và ta nghĩ
thiệt tình nếu mà đi nuốt lời đã hứa với một đứa trẻ con thì quá là hèn đi.
Nào, ngồi xuống đi. Ở lại một tiếng đồng hồ không lâu đâu.”

Gió đã rời bờ, và
chỉ vỗ về khiến mặt biển vỡ thành những gợn bạc dài, và đem những chiếc bóng
lấp lóa từ mọi ngóc ngách và mũi đất bay ngang mặt biển, như những cách bay vô
hình. Hoàng hôn đang treo một tấm rèm bóng tối màu tím lên những đụn cát và
những mũi đất, nơi lũ mòng biển đang dập dìu bay lượn. Bầu trời phủ những mảnh
khăn choàng lụa khói sương. Từng cụm mây trôi lững lờ dọc đường chân trời. Một
ngôi sao hôm đang giữ gác trên cồn cát.

“Chẳng phải là một
khung cảnh đáng ngắm nghía hay sao?” thuyền trường Jim nói, với niềm tự hào yêu
thương, gắn bó. “Dễ thương và xa hẳn chốn xô bồ, đúng không nào? Không mua
không bán không mặc cả. Không phải trả đồng nào cả… tất cả biển đó trời đó đều
miễn phí… ‘không cần tiền và không có giá’. Mà trăng sắp lên rồi đó… ta chẳng
bao giờ chán xem trăng sẽ mọc thế nào trên ghềnh đá, mặt biển và bến cảng. Lần
nào cũng có một điều ngạc nhiên trong đó.”

Họ xem trăng lên,
và ngắm sự thần kỳ và ma thuật của nó trong một sự im lặng không đòi hỏi gì thêm
ở thế giới hay ở nhau. Khi họ đi vào tháp đèn, thuyền trưởng Jim chỉ dẫn và
giải thích cơ chế của ngọn đèn khổng lồ. Cuối cùng họ thấy mình đang ngồi trong
phòng ăn, nơi một ngọn lửa đốt bằng gỗ trôi dạt đang dệt những sợi lửa lập lòe,
chập chờn ẩn hiện, mang sắc màu của biển trong lò sưởi mở.

“Tự tay ta lắp cái
lò sưởi này vào đấy,” thuyền trưởng Jim nói. “Chính phủ không cho người giữ đèn
những thứ xa xỉ như vậy đâu. Nhìn màu sắc đám gỗ kia tạo ra xem. Nếu cháu thích
có ít gỗ trôi dạt để đốt lửa, cháu Blythe ạ, hôm nào ta sẽ mang lên cho cháu
một mớ. Ngồi xuống đi. Ta sẽ pha cho các cháu một cốc trà.”

Thuyền trưởng Jim
chỉ một cái ghế cho Anne, nhưng trước tiên ông phải chuyển một con mèo bự chảng
màu cam và một tờ báo ra khỏi đó.

“Bạn Đầu, đi xuống.
Chỗ của mày là sofa kìa. Ta phải cất tờ báo này đi cho an toàn chờ khi ta có
thời gian đọc xong câu chuyện ở trong đó. Nó có tên là Một tình yêu
cuồng dại
. Đây không phải là dòng truyện ta thích, nhưng ta đang đọc để xem
bả kéo dài được đến chừng nào. Giờ đã là chương sáu hai rồi, mà so với chương
đầu thì đám cưới vẫn chưa gần hơn tẹo nào, theo như ta thấy. Khi thằng bé Joe
đến đây ta phải đọc cho nó nghe chuyện cướp biển. Kỳ nhỉ, những sinh vật nhỏ bé
ngây thơ như bọn con nít lại thích những chuyện máu me nhất?”

“Y như thằng bé
Davy của cháu ở nhà,” Anne nói. “Nó cứ thích những chuyện phải khét
lẹt bạo lực cơ,”

Trà của thuyền
trưởng Jim đúng là nước tiên. Ông hài lòng như một đứa trẻ trước những lời khen
của Anne, nhưng cũng bày tỏ một vẻ thản nhiên hết sức tế nhị.

“Bí quyết là ta
không keo kiệt món kem sữa,” ông thoải mái nhận xét. Thuyền trưởng Jim chưa bao
giờ nghe nói đến Oliver Wendell Holmes nhưng rõ ràng ông đồng ý với câu châm
ngôn của nhà văn rằng “trái tim lớn không thích hũ kem nhỏ”.

“Chúng cháu gặp một
nhân vật trông hết sức quái đản bước ra khỏi con đường nhà ông,” Gilbert nói
khi họ nhấm nháp trà. “Ai thế ạ?”

Thuyền trưởng Jim
nhe răng cười.

“Đấy là Marshall
Elliott, một người rất tốt, chỉ có điều hơi xuẩn ngốc. Ta đoán các cháu thắc
mắc mục đích của thằng chả là gì khi tự biến mình thành một vật phẩm trưng bày
bảo tàng quái dị hả?”

“Phải chăng ông ấy
là một tu sĩ Do Thái tóc dài thời hiện đại hay một nhà tiên tri Do Thái còn sót
lại từ thời xa xưa?” Anne hỏi.

“Không phải. Chính
trị là căn nguyên sự quái dị của chả. Cả đám nhà Elliott và Crawford rồi
MacAllister đều là chính trị gia từ trong trứng, và họ sống cũng Tự do hoặc Bảo
thủ, và họ chết cũng Tự do hoặc Bảo thủ; và họ làm gì trên thiên đường, nơi có
lẽ không có chính trị, thì vượt qua trí tưởng tượng của ta. Gã Marshall Elliott
này sinh ra đã theo Tự do. Ta cũng là dân Tự do vừa phải, nhưng với Marshall
Elliott thì không có vừa phải gì hết. Mười lăm năm trước có một cuộc tổng tuyển
cử đặc biệt căng thẳng. Marshall nhe răng xắn tay tranh đấu cho đảng của mình.
Hắn tin chắc trăm phần là đảng Tự do sẽ thắng… chắc đến nỗi hắn đứng lên trong
một buổi họp chung mà thể rằng sẽ không cạo mặt hay cắt tóc cho đến khi đảng Tự
do lên nắm quyền. Ờ, họ không lên-và vẫn chưa lên-và hôm nay mấy đứa được mục
sở thị kết quả đấy. Marshall đã giữ lời.”

“Vợ chú ấy nghĩ sao
ạ?” Anne hỏi.

“Thằng chả độc
thân. Nhưng nếu hắn có vợ thì ta nghĩ cô ta cũng không thể làm hắn phá lời thề
đó. Cái nhà Elliott đó lúc nào cũng cứng đầu hơn bình thường. Anh trai của
Marshall, Alexander có một con chó hắn ta cưng lắm, và khi nó chết thằng chả
thực tình muốn cho chôn nó trong nghĩa trang, ‘cạnh các con chiên Thiên Chúa
giáo khác’, hắn nói. Dĩ nhiên, đâu có ai cho; thế là hắn chôn con chó ngay
ngoài hàng rào nghĩa trang, và không bao giờ bén mảng tới cửa nhà thờ nữa.
Nhưng các Chủ nhật hắn vẫn đánh xe đưa cả nhà đi lễ còn mình thì ngồi cạnh mộ
con chó đó rồi đọc Kinh Thánh suốt thời gian diễn ra buổi lễ. Họ nói khi hấp
hối hắn biểu vợ hắn chôn hắn cạnh con chó; cô ta là một linh hồn bé nhỏ yếu ớt
nhưng đến đó thì cô ả nổi khùng lên. Cổ nói cổ không định nằm
cạnh con chó nào hết cả sất, và nếu hắn thà có chỗ nghỉ ngơi cuối cùng cạnh con
chó hơn là cạnh cổ, thì cứ nói ra. Alexander Elliott là một con lừa cứng đầu,
nhưng hắn cũng yêu vợ, thế là hắn đầu hàng và nói, ‘Rồi, chết tiệt, cứ chôn tôi
chỗ nào bà thích. Nhưng khi tiếng kèn của Thánh Gabriel thổi lên tôi sẽ chờ xem
con chó của tôi bay lên cùng với cả đám chúng ta, vì linh hôn của nó cũng như
bất cứ tay Elliott hay Crawford hay MacAllister chết tiệt nào từng khệnh khạng
bước trên đời này.’ Đấy là những lời trăn trối của hắn. Còn về
Marshall, chúng ta đã quá quen với hắn, nhưng với người lạ chắc hắn phải trông
kỳ cục ghê lắm. Ta biết hắn từ hồi hắn mới mười tuổi-giờ gần năm mươi rồi-và ta
thích hắn. Hắn với ta mới ra câu cá tuyết hôm nay. Giờ thì ta chỉ được mỗi việc
đấy-thỉnh thoảng bắt cá hồi với cá tuyết. Nhưng không phải lúc nào ta cũng vậy
đâu… không có đâu. Ta cũng từng làm những chuyện khác, như mấy đứa sẽ phải công
nhận nếu mấy đứa coi quyển sách cuộc đời của ta.”

Anne đang định hỏi
quyển sách-cuộc-đời của ông là gì thì bị con Bạn Đầu đánh lạc hướng bằng cách
nhảy xổ lên đùi thuyền trưởng Jim. Nó là một con vật tuyệt đẹp, với khuôn mặt
tròn như trăng rằm, mắt xanh sáng quắc, và bộ móng đôi trắng muốt mạnh mẽ.
Thuyền trưởng Jim nhẹ nhàng vuốt ve sống lưng nhung của nó.

“Ta chưa bao giờ
thích mèo cho lắm trước khi ta gặp con Bạn Đầu,” ông giải thích, với những
tiếng gầm gừ hoành tráng của con Bạn Đầu làm nhạc đệm. “Ta cứu mạng nó, và khi
mình đã cứu mạng một con vật thì mình buộc phải yêu nó thôi. Đấy là điều gần
nhất với việc tạo ra sự sống. Trên đời này có những người vô tâm khủng khiếp,
cháu Blythe ạ. Dân thành phố có vài người tậu nhà nghỉ mùa hè bên kia cảng, họ
vô tâm đến độ tàn nhẫn. Đấy là loại tàn nhẫn tệ nhất-dạng vô tâm. Ta không làm
sao đối phó được. Họ nuôi mèo ở đó vào mùa hè, rồi cho chúng ăn rồi cưng nựng
chúng, và chưng diện cho chúng nào là ruy băng nào là dây đeo cổ. Rồi đến mùa
thu họ bỏ đi để mặc chúng lại cho chết đói hoặc chết rét. Làm máu ta sôi lên,
cháu Blythe ạ. Một ngày mùa đông năm trước ta thấy một con mèo mẹ già tội
nghiệp chết trên bãi biển, nằm sát vào ba con mèo con chỉ còn da bọc xương. Nó
chết khi cố gắng che chắn cho chúng. Những cẳng chân cứng đơ tội nghiệp của nó
còn ôm lấy chúng. Trời ơi, ta khóc. Rồi ta chửi thề. Rồi ta mang mấy con mèo
con tội nghiệp về nhà cho ăn rồi tìm nhà tốt cho chúng ở. Ta biết cái bà để con
mèo lại ấy, và hè năm nay khi bà ta quay lại đây, ta đã qua bên kia cảng nói
cho bả biết ta nghĩ gì về bả. Rành là nhiều chuyện, nhưng ta thiệt sự thích
được nhiều chuyện vì lẽ phải.”

“Bà ấy phản ứng ra
sao ạ?” Gilbert hỏi.

“Khóc và nói bả
‘không nghĩ’. Ta nói với bả, ta nói chứ, ‘Cô cho rằng đó sẽ là một lời bào chữa
xác đáng vào ngày Phán xét ư, khi mà cô sẽ phải lý giải cho cái chết của con
mèo mẹ già tội nghiệp đó hay sao? Đức Chúa sẽ hỏi cô Ngài cho cô não để làm gì
nếu không phải để nghĩ, ta đoán vậy.’ Ta không nghĩ là bà ta dám để mấy con mèo
lại cho chết đói nữa đâu.”

“Con Bạn Đầu cũng
bị bỏ rơi ạ?” Anne hỏi, tỏ với con mèo vài cử chỉ làm thân được đáp lại một
cách duyên dáng, dù có hơi kẻ cả.

“Đúng. Ta tìm
thấy một ngày mùa đông lạnh thấu xương, bị mắc lên cây bởi
cái dây ruy băng đeo cổ chết tiệt của nó. Nó suýt chết đói đến nơi. Giá cháu
thấy được mắt nó lúc đó, cháu Blythe ạ! Nó mới là một con mèo con chứ mấy, sao
đó nó đã tự sống được từ hồi bị bỏ lại cho đến khi bị vướng lên cây. Khi ta
giải thoát cho nó, nó liếm tay ta một cách tội nghiệp bằng cái lưỡi đỏ nhỏ xíu
của nó. Hồi đó nó chưa phải là tay đi biển tài năng mấy đứa thấy bây giờ đâu.
Nó gầy nhom à. Chín năm trước rồi. Với một con mèo thì nó sống trên mặt đất thế
là thọ đấy. Nó là một anh bạn già rất tốt, con Bạn Đầu ấy.”

“Cháu nghĩ chắc ông
sẽ nuôi một con chó,” Gilbert nói.

Thuyền trưởng Jim
lắc đầu.

“Ta cũng từng có
một con chó. Ta thương nó nhiều đến nỗi nó chết ta không chịu được ý nghĩ tìm
một con khác để thay thế. Nó là một người bạn… cháu hiểu chứ,
cháu Blythe? Con Bạn Đầu chỉ là một con bạn thôi. Ta thích nó, càngthích hơn vì
chút gia vị quỷ quái trong nó… bọn mèo đứa nào cũng vậy. Nhưng ta yêu con
chó của ta. Ta lúc nào cũng có chút cảm thông lén lút dành cho Alexander
Elliott vì con chó của hắn. Không có chút ma quỷ nào trong một con
chó tốt. Đấy là lý do vì sao chúng đáng yêu hơn mèo, ta đoán vậy. Nhưng quỷ tha
ma bắt ta đi nếu chúng thú vị được như mèo. Đó đó, ta lại nói nhiều quá rồi.
Sao mấy đứa không cản ta? Cứ khi nào có cơ hội nói chuyện với ai đó là ta ba
láp kinh dị luôn. Nếu hai đứa uống xong trà rồi thì ta có mấy thứ nho nhỏ hai
đứa chắc là thích coi… nhặt nhạnh từ mấy cái xó xỉnh kỳ quặc ta từng hay thò
mũi vào.”

“Mấy thứ nho nhỏ”
của thuyền trường Jim thì ra là một bộ sưu tập thú vị bậc nhất toàn cổ vật,
quái dị, kỳ quặc và tuyệt đẹp. Và hầu như mỗi thứ đều có một câu chuyện ấn
tượng đi kèm.

Anne không bao giờ
quên niềm say mê mà cô dành để lắng nghe những câu chuyện cũ đêm trăng đó bên
đống lửa gỗ trôi dạt mê hoặc ấy, khi biển bạc vẫy gọi họ qua cửa sổ để mở và
thổn thức vỗ vào những tảng đá bên dưới họ.

Thuyền trưởng Jim
không bao giờ nói một lời khoe khoang, nhưng không thể không thấy ông đã là một
người anh hùng như thế nào-dũng cảm, thành thật, không chút ích kỷ. Ông ngồi đó
trong căn phòng nhỏ của mình và làm những đồ vật sống lại cho khán giả của
mình. Bằng một cái nhướng lông mày, một cái cong môi, một cử chỉ, một lời nói,
ông vẽ lại cả một khung cảnh hay nhân vật để họ nhìn thấy chúng như chúng xưa
kia.

Vài cuộc phiêu lưu
của thuyền trưởng Jim có một khía cạnh phi thường đến nỗi Anne và Gilbert thầm
tự hỏi liệu ông có đang kéo dãn hơi quá sự cả tin của họ không. Nhưng trong
khoản này, sau này họ biết, họ đã hiểu sai cho ông. Những câu chuyện của ông
tất cả đều hoàn toàn là sự thật. Thuyền trưởng Jim có cái tài của một nhà kể
chuyện bẩm sinh, theo đó “những mẩu chuyện bất hạnh và xa xôi” được đưa ra
trước mắt người nghe sống động trong tất cả sự thấm thía tinh khôi của chúng.

Anne và Gilbert
cười và rùng mình trước những câu chuyện đó, và có lúc Anne thấy mình đang
khóc. Thuyền trưởng Jim quan sát những giọt nước mắt của cô với vẻ hài
lòng ánh lên trên khuôn mặt ông.

“Ta thích nhìn
người khác khóc kiểu đó,” ông nhận xét. “Đó là một lời khen tặng. Nhưng ta
không thể kể cho xứng đáng với những gì ta đã nhìn thấy hoặc đã góp phần làm.
Ta đã ghi chúng lại trong quyển sách cuộc đời ta, nhưng ta không có cái tài để
viết chúng ta cho tử tế. Giá có thể dùng được đúng từ ngữ và nối chúng lại với
nhau cho ra hồn trên giấy, ta có thể làm một quyển sách tuyệt vời. Nó sẽ đánh
bại Một tình yêu cuồng dại liền, và ta tin là thằng Joe cũng
sẽ thích nó y như các truyện cướp biển. Đúng, ta đã có một vài cuộc phiêu lưu
trong đời mình; và cháu có biết không, cháu Blythe, ta vẫn thầm thèm khát
chúng. Đúng, dẫu có già và vô dụng, một nỗi khao khát khủng khiếp thỉnh thoảng
vẫn quét qua ta, khao khát được dong buồm ra khơi… đi… đi… mãi mãi và mãi mãi.”

“Như Ulysses, ông
sẽ

Dong buồm vượt cả
hoàng hôn và bể tắm

Của muôn vì sao
phía đằng Tây cho đến chết,”

Anne mơ màng nói.

“Ulysses à? Ta có
đọc về ổng. Đúng, chính là ta cảm thấy như vậy đó… đúng là cảm giác của đám
thủy thủ già chúng ta, ta đoán vậy. Ta tính cuối cùng chắc ta sẽ chết trên đất
liền thôi. Ờ, cái gì đến thì sẽ đến. Có lão William Ford ở Glen trong đời mình
chưa bao giờ ra biển, vì lão sợ chết đuối. Một bà thầy bói đã phán là lão sẽ
chết đuối. Rồi một ngày lão ngất xỉu và ngã sấp mặt xuống máng cỏ và chết
nước. Hai đứa phải đi rồi à? Ờ, tới sớm và tới thường xuyên nha. Lần sau đến
lượt bác sĩ kể chuyện đó. Cậu ấy biết cả mớ thứ mà ta muốn biết. Ở đây ta thỉnh
thoảng cũng hơi cô đơn. Từ hồi Elizabeth Russell mất đi thì còn tệ hơn. Bà ấy
và ta là bạn bè tốt lắm.”

Thuyền trưởng Jim
nói với nỗi thống thiết của người già, chứng kiến những người bạn của mình lần
lượt rời xa, từng người một – những người bạn mà vị trí không thể thay thế được
bởi những người thuộc thế hệ trẻ hơn, dù cho có thuộc lớp người quen của
Joseph. Anne và Gilbert hứa sẽ quay lại sớm và thường xuyên.

“Ông ấy quả thật là
một ông già hiếm có, em nhỉ?” Gilbert nói, khi họ đi bộ về nhà,

“Thế nào đó, em không
thể hòa hợp cái nhân cách giản dị, tốt đẹp của ông với cuộc sống sóng gió,
phiêu lưu mà ông đã sống,” Anne trầm ngâm.

“Em sẽ không thấy
khó như vậy đâu nếu em gặp ông hôm nọ dưới xóm chài. Một gã trên tàu của Peter
Gautier đưa ra một nhận xét xấu tính về một cô gái nào đó sống dọc bờ biển.
Thuyền trưởng Jim suýt thì đốt sống gã trai xấu số kia bằng ánh chớp trong mắt
ông ấy. Ông ấy như một người hoàn toàn khác. Ông ấy không nói nhiều đâu… nhưng
cái cách ông ấy nói chứ! Em sẽ thấy nó như tước hết da thịt khỏi xương của gã
kia. Anh hiểu rằng thuyền trưởng Jim không bao giờ cho phép một lời nói xấu
phụ nữ nào được thốt ra trước mặt mình.”

“Em tự hỏi tại sao
ông không bao giờ cưới vợ,” Anne nói. “Ông đáng lẽ phải có những người con trai
với những con tàu riêng lênh đênh trên biển, và những đứa cháu nội trèo vào
lòng ông để nghe chuyện của ông… ông là kiểu người như vậy đó. Thế mà thay vào
đó, ông chẳng có gì ngoài một con mèo lộng lẫy.”

Nhưng Anne đã lầm.
Thuyền trưởng Jim có nhiều hơn thế. Ông có một ký ức.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3