Trên Chuyến Bay Đêm - Chương 13 - Phần 1
Chương 13
Hình ảnh cuối cùng mà Harry Marks thấy còn dính dáng đến châu Âu là ngọn đèn pha trắng vươn lên kiêu hãnh trên bờ Bắc của cửa sông Shaunon, trong khi Đại Tây Dương vỗ sóng dưới chân sườn núi đá. Mấy phút sau, anh không còn thấy đất liền nữa, tứ bề toàn biển cả mênh mông bát ngát.
Anh nhủ thầm: khi đến Mỹ, mình sẽ giàu.
Cảm giác đang ngồi gần bên bộ trang sức Delhi rất rạo rực, đến nỗi anh cảm thấy như cảm xúc tình dục đang cuồn cuộn dâng lên trong lòng anh. Đâu đó trên chuyến máy bay, chỉ cách chỗ anh ngồi vài mét, có bộ đồ nữ trang đáng giá kếch sù. Mấy ngón tay của anh ngứa ngáy như muốn sờ vào.
Bộ đồ trang sức bằng đá quí trị giá một triệu đô la chỉ cần bán cho một tay mua đồ ăn trộm lấy 100 ngàn đô la thôi là đủ rồi. Anh nghĩ, mình sẽ mua một ngôi nhà thật đẹp và một chiếc xe hơi. Hay là mua một ngôi nhà ở nông thôn có sân đánh quần vợt. Hay có lẽ mình phải đầu tư tiền bạc lấy lời để sống. Tiền lời sẽ đủ cho mình sống như một ông hoàng: nhưng trước hết là phải để tay lên món hàng này đã.
Vì bà Oxenford không mang đồ trang sức trên người, chắc thế nào bà cũng để chúng trong túi xách hành lý ở trong buồng, hay nằm trong va li ký gởi hiện để trong khoang hành lý. Harry nhủ thầm, nếu mình là bà ta mình sẽ không để tài sản xa mình. Mình sẽ cất trong túi xách ở trong buồng này, để có thể canh chừng luôn luôn. Nhưng làm sao biết ý đồ của bà Oxenford ra sao.
Trước hết là phải tìm trong va li đã. Anh thấy chiếc va li của bà ta để dưới chỗ ngồi của bà, chiếc va li da màu đỏ có bịt đồng bốn góc rất đẹp. Nhưng làm sao lục tìm cho được? Có lẽ anh phải đợi đến đêm tối khi mọi người đã đi ngủ rồi chăng?
Anh sẽ tìm ra cách. Hoạt động trên máy bay nhộn nhịp, có thể rất nguy hiểm cho anh. Nhưng thế nào anh cũng thoát được, thậm chí gặp khi tình hình rất xấu anh cũng qua khỏi. Thì đấy, anh tự nhủ, mới hôm qua chứ lâu lắc gì, mình bị bắt quả tang ăn cắp một nút tay áo: mình bị tù một đêm; thế mà bây giờ mình ngồi trên chiếc Clipper của hãng Pan American để đi New York. Thế không phải may mắn hay sao? Nói thế đâu có ngoa. Anh đã bịa ra một chuyện có tên ăn trộm nhảy qua cửa sổ lầu 10, và khi đi qua lầu 5 anh nghe người ta nói:
– “Bây giờ không còn lo sợ gì nữa”.
Kết quả là anh bình an vô sự.
Nicky, người tiếp viên, mang bản thực đơn bữa ăn tối đến, anh ta hỏi anh có uống cốc-tai không. Anh cảm thấy không cần uống rượu mạnh, nhưng anh gọi một ly sâm banh, chỉ vì anh thấy phải làm thế, thói đời mà, anh nghĩ. Anh thấy ngây ngất khi được đi trên chiếc máy bay sang nhất thế giới nhưng đồng thời cũng lo lắng khi bay qua đại dương, nhưng rượu sâm banh chắc sẽ mang lại cho anh cảm giác sảng khoái, yên ổn.
Anh ngạc nhiên khi thấy tờ thực đơn viết bằng tiếng Anh. Vậy người Mỹ không cho rằng những bản thực đơn sang trọng phải viết bằng tiếng Pháp sao?
Có lẽ họ thấy phi lý khi in thực đơn bằng tiếng ngoại quốc. Harry nghĩ rằng chắc nước Mỹ sẽ làm cho anh hài lòng.
Trong phòng ăn chỉ có mười bốn chỗ ngồi, cho nên sẽ có ba suất ăn, anh tiếp viên cho biết như thế. Anh ta hỏi Harry:
– Ông Vandenpost, ông muốn ăn lúc 6 giờ, 7 giờ 30 hay 9 giờ?
Có lẽ đây là dịp may mắn đến cho mình rồi đây, Harry nhủ thầm. Nếu gia đình Oxenford ăn sớm hay trễ hơn, anh sẽ ở một mình trong buồng. Nhưng họ sẽ ăn suất mấy giờ? Harry chửi thề anh tiếp viên, vì anh ta hỏi anh trước. Gặp tiếp viên người Anh, thế nào anh ta cũng hỏi những người có danh vọng trước, nhưng anh tiếp viên người Mỹ này đã quen lề lối làm việc dân chủ, nên anh ta bắt đầu hỏi theo thứ tự trên ghế ngồi. Harry phải đoán gia đình Oxenford sẽ chọn giờ ăn lúc nào.
– Ăn giờ nào hả? - Anh rề rà nói để có thì giờ suy tính. Theo chỗ anh biết thì những người giàu có đều ăn rất trễ, cho nên anh chọn giờ ăn đầu tiên. - Tôi đói quá rồi, tôi ăn vào suất 6 giờ.
Người tiếp viên quay qua gia đình Oxenford, Harry nín thở. Ngài Oxenforđ nói:
– Tôi nghĩ ăn lúc 9 giờ là tuyệt nhất.
Harry mừng thầm trong bụng.
Nhưng phu nhân Oxenford lên tiếng:
– Như thế Percy ăn trễ quá... Chúng ta nên ăn sớm hơn.
Được, Harry tự nhủ, lòng hồi hộp, nhưng lạy trời đừng sớm quá.
– Vậy thì ta ăn lúc 7 giờ 30. - Ông Oxenford nói lại.
Harry cảm thấy tràn trề hạnh phúc. Anh đã tiến thêm một bước đến gần bộ trang sức Delhi.
Anh tiếp viên quay qua phía người hành khách ngồi trước mặt Harry, người đàn ông mặc ghi lê màu đỏ hơi tím, có vẻ là cảnh sát. Ông ta cho biết ông tên là Clive Membury. Nói ăn lúc 7 giờ 30 đi, Harry nghĩ, hãy để tôi một mình trong buồng. Nhưng anh đã thất vọng não nề, Membury không đói, ông ta chọn suất ăn chín giờ.
Khó khăn rồi đấy! Harry nghĩ. Phải ngồi yên để đợi Membury đi khỏi buồng mới hành động được. Cái nghề ông ta làm là phải hoạt động luôn, phải đi lui đi tới. Mà nếu ông ta không ra khỏi phòng thì chắc Harry phải kiếm cớ để tống khứ ông ta đi cho được.
– Thưa ông Vandenpost, - người tiếp viên nói, - nếu ông không thấy bất tiện thì ông cơ khí trưởng và ông hoa tiêu sẽ ngồi ăn cùng bàn với ông.
– Chẳng có gì bất tiện hết, - Harry đáp. Anh sung sướng được nói chuyện với các nhân viên phi hành đoàn.
Ngài Oxenford gọi một ly whisky khác. Ông ta là loại người có óc bảo thủ từ nhỏ, như người Ailen thường nói. Vợ ông mặt mày tái mét, bà ta im lặng, cuốn sách mở ra trên đầu gối, nhưng bà không lật một trang nào. Bà ta có vẻ bị ức chế.
Cậu Percy đi tới phía trước để nói chuyện với những người trong phi hành đoàn đang rỗi rảnh việc, còn Margaret thì sang ngồi bên cạnh Harry. Anh ngửi thấy mùi nước hoa trên người cô tỏa ra là loại nước hoa Tosca. Cô đã cởi áo măng tô, thân hình bây giờ trông giống mẹ cô: cao lớn, hai vai rộng, ngực to và chân dài. Đồ trang sức sang trọng nhưng giản dị, không lòe loẹt. Harry tưởng tượng cô mặc áo dạ hội dài hở cổ tóc màu hung búi cao, cổ dài trắng lủng lẳng đôi hoa tai bằng ngọc bích do Louis Cartier gọt rập khuôn của Ấn Độ, chắc kiêu kỳ lắm. Nhưng không phải thế. Cô không trang điểm theo cách của tầng lớp thượng lưu quí tộc giàu có, mà cô phục sức như vợ một ông Mục sư. Cô là cô gái gây cho người ta nhiều ấn tượng, Harry cảm thấy hơi lo sợ khi ngồi bên cô nhưng anh không đoán cô cũng có tính nhẹ dạ, và anh cảm động. Này Harry, anh tự nhủ, không phải là lúc yếu lòng; mày nhớ là cô ta rất nguy hiểm cho mày, mày phải tán tỉnh cô ta đi.
Anh hỏi cô ta đi máy bay lần nào chưa, cô đáp:
– Chỉ đi Paris với mẹ thôi.
Anh nhủ thầm trong lòng, chỉ đi Paris với mẹ. Mẹ anh chưa bao giờ thấy Paris, thậm chí chưa bao giờ đi máy bay. Anh hỏi:
– Đi như thế nào?
– Tôi quá khiếp khi đi Paris trên máy bay. Tôi phải uống trà với những người Anh bệ vệ kiểu cách, mặc dù tôi rất muốn đến các nhà hàng ám khói nơi người ta chơi nhạc của dân da đen.
– Mẹ tôi có dẫn tôi đến Margate, - Harry nói. - Tôi lội trong nước biển, rồi đi uống nước đá, ăn cá với khoai rán.
Mọi khi không bao giờ anh nói chuyện này cho ai nghe hết. Anh thường nói với các cô gái trong giới thượng lưu rằng anh là học sinh con nhà giàu, có nhà nghỉ mát ở nông thôn mỗi khi anh buộc lòng phải nói về thời thơ ấu của mình với họ. Nhưng Margaret đã biết chuyện bí mật của anh rồi, anh nói nhỏ để những người khác không nghe được. Thế nhưng, khi nói xong chuyện ấy, anh cảm thấy muốn nhảy ra khỏi máy bay, bung dù ra để trốn đi đâu cho khuất mắt mọi người.
– Chúng tôi chưa bao giờ đi biển, - Margaret nói với giọng tiếc nuối. - Chỉ có hạng bình dân mới lội trong nước biển. Chị tôi và tôi thường ghen với những đứa bé con nhà nghèo. Chúng làm gì cũng được.
Harry thấy thích thú khi nghe cô nói, vì đây là một bằng chứng nữa cho thấy anh được may mắn: con nít con nhà giàu được đi trong xe hơi đen khổng lồ, được mặc áo măng tô có cổ áo lót nhung, và được cho ăn thịt cả ngày, lại muốn được chạy chơi bằng chân trần và muốn ăn cá với khoai chiên.
– Tôi nhớ những mùi vị bốc ra từ các nơi có người bình dân vui chơi, - cô nói tiếp. - Như là mùi trong tiệm bánh vào giờ ăn trưa, mùi dầu máy trong những nơi giải trí bằng ngựa hay xe gỗ quay, mùi bia và thuốc lá hôi hám trong quán rượu vào một buổi tối mùa Đông ở những chỗ ấy mọi người trông có vẻ vui sướng quá.
– Chưa bao giờ tôi đặt chân được vào một quán rượu.
– Cô có thiếu thứ gì đâu, - Harry đáp, bản thân anh, anh không ưa những quán rượu. - Ăn uống trong những nhà hàng như nhà hàng Ritz vẫn tuyệt hơn chứ.
– Người nào cũng đứng núi này trông núi nọ, - cô nói.
– Nhưng tôi đã thử vào hai chỗ rồi, - Harry cãi lại. Tôi biết nơi nào tuyệt.
Cô im lặng trầm tư một lát rồi mới nói tiếp. Cô hỏi:
– Rồi anh sẽ làm gì?
– Câu hỏi thật kỳ. Harry đáp:
– Vui chơi?
– Vui chơi à, thật không?
– Thật không, nghĩa là sao?
– Mọi người đều muốn vui chơi. Nhưng anh sẽ làm gì?
– Làm công việc tôi đang làm đây. - Tự nhiên Harry nổi máu bốc đồng nói cho cô nghe chuyện mà chưa bao giờ anh nói cho ai nghe hết. - Có khi nào cô đọc tờ Nhà Ảo thuật Tài tử của Homung không? – Cô lắc đầu Anh nói tiếp:
– Tờ báo kể chuyện một nhà quí phái có máu ăn trộm, tên là Rames, ông ta hút thuốc thơm Thổ Nhĩ Kỳ, mặc áo quần sang trọng, được người ta mời đến dự tiệc, rồi ăn trộm đồ nữ trang. Tôi muốn làm nghề như ông ta.
– Ồ, này này, đừng nói chuyện tầm bậy, - cô gay gắt nói.
Anh đã lỡ thổ lộ tâm tình rồi, anh đành nói tiếp để cho cô tin là anh nói thật.
– Không phải tôi nói chuyện tầm bậy đâu.
– Nhưng anh không thể làm nghề ăn trộm cả đời, - cô cãi lại. - Thế nào anh cũng bị tù. Ngay như Robin Rừng rú mà cuối cùng cũng phải lấy vợ, ổn định cuộc sống. Thực tình anh muốn cái gì?
Thường khi có ai hỏi như thế, anh trả lời một hơi: tôi muốn có ngôi nhà, có xe hơi, có các cô bồ, có những đêm dạ hội, có com lê may ở Savile Row. Nhưng bây giờ anh nghĩ thế nào cô cũng tỏ vẻ khinh bỉ những thứ ấy. Anh rất muốn cho cô biết mộng ước của mình, và anh rất ngạc nhiên thấy mình tự nhiên thổ lộ tâm tình với cô tâm tình mà chưa bao giờ anh kể cho ai nghe. Anh nói:
– Tôi thích sống trong một ngôi nhà lớn ở thôn quê có cây leo leo khắp tường.
Anh dừng lại. Anh bối rối, nhưng không biết tại sao, anh nói tiếp những điều anh mơ ước cho cô nghe:
– Một ngôi nhà ở nông thôn có sân quần vợt, có chuồng ngựa và có hai hàng đỗ quyên hai bên lối đi trước nhà. - Anh hình dung ra khung cảnh này rất rõ trong óc, và anh nghĩ chỗ ở như thế này là chỗ lý tưởng nhất đáng sống nhất trên đời. - Tôi sẽ đi quanh nhà, mang ủng, mặc com lê tuýt, nói chuyện với những người làm vườn, với các chàng trai chăm sóc ngựa, và họ xem tôi là người quí phái chân chính. Tôi sẽ đầu tư tiền bạc vào những nơi đảm bảo, và tôi sẽ không tiêu hết một nửa lợi túc. Vào mùa hè, tôi sẽ tổ chức những buổi tiệc vườn với dâu tây ăn với kem. Và tôi sẽ có năm đứa con gái đẹp như mẹ nó.
– Năm à! - Cô cười nói. - Anh phải lấy một bà vợ thật vạm vỡ mới được! - Nhưng cô trở lại nghiêm trang ngay. Cô nói:
– Giấc mộng đẹp đấy. Tôi hy vọng mộng sẽ thành.
Anh cảm thấy rất gần gũi với cô, anh nghĩ anh có thể hỏi câu gì cũng được.
Anh bèn hỏi:
– Còn cô? Cô mộng ước cái gì?
– Tôi muốn tham gia chiến tranh. Tôi sẽ đầu quân vào lực lượng nữ quân nhân.
Trước đây mà nghe phụ nữ nói chuyện đầu quân vào quân đội quả tức cười thật nhưng bây giờ chuyện này trở nên phổ biến rồi. Anh hỏi:
– Cô sẽ làm gì trong quân đội?
– Tôi sẽ lái xe. Người ta cần phụ nữ lái xe chuyển tin và lái xe cứu thương.
– Công việc ấy nguy hiểm đấy.
– Tôi biết. Nhưng tôi không sợ. Tôi muốn được tham gia vào cuộc chiến.
Đây là cơ hội để ngăn chặn chủ nghĩa phát xít. - Cô nghiến răng, mắt long lanh, Harry nghĩ chắc cô rất can đảm.
– Xem cô có vẻ cương quyết, - anh nói
– Tôi có một... người bạn bị phát xít giết chết ở Tây Ban Nha, tôi muốn tiếp tục sự nghiệp của anh ấy.
Đột nhiên Harry hỏi:
– Cô yêu anh ấy phải không?
Cô gật đầu.
Anh nhận thấy cô gần khóc. Anh để tay lên tay cô vẻ thương cảm.
– Cô còn yêu anh ấy phải không?
– Chắc tôi còn yêu anh ấy mãi. - Giọng cô như tiếng thì thào. - Anh ấy, tên là Ian.
Harry nghẹn ngào. Anh muốn ôm cô vào lòng để an ủi cô và nếu không có bố cô đang ngồi uống whisky và đọc tờ Times mặt đỏ gay, ở góc bên kia buồng, thì chắc anh đã làm thế rồi. Anh đành kín đáo bóp mạnh tay cô, và cô mỉm cười tỏ vẻ biết ơn.
Người tiếp viên đến báo:
– Thưa ông Vandenpost, bữa ăn tối đã đọn rồi.
Harry ngạc nhiên thấy đã 6 giờ rồi. Anh rất buồn khi phải chấm dút câu chuyện với Margaret.
Cô đoán được tâm trạng của anh, nên cô nói:
– Chúng ta còn nhiều thì giờ để nói chuyện. Chúng ta còn đi với nhau hai mươi bốn giờ nữa.
– Đúng vậy. Hẹn cô lát nữa.
Anh nói nhỏ với cô, nhưng bụng thầm nghĩ, hãy coi chừng, thân mật với cô ta thì cứ thân, nhưng đừng tiết lộ bí mật. Thân mật quá đến nỗi cô ta làm hỏng mất kế hoạch của mày đi, thì quả đáng buồn đấy. Nhưng điều tệ hại nhất lại chính là chỗ anh thích thân mật với cô ta.
Anh đi qua buồng bên cạnh. Anh ngạc nhiên thấy phòng khách đã biến thành phòng ăn. Có ba bàn ăn, mỗi bàn bốn người, thêm hai bàn nhỏ để ăn tráng miệng. Giống như trong một nhà hàng sang trọng, bàn ăn cũng có khăn trải bàn, khăn ăn bằng vải lanh, bát đĩa bằng sứ màu trắng có trang hoàng biểu tượng màu xanh của hãng Pan American. Tường dán giấy có in bản đồ thế giới với biểu tượng của công ty, giống như tất cả các hãng máy bay khác, là cặp cánh giang rộng ra.
Người tiếp viên chỉ cho anh chỗ ngồi trước mặt một người đàn ông thấp mập, anh ta mặc một bộ đồ màu xám nhạt, mới thấy, Harry liền thích bộ đồ ngay. Trên cà vạt có vài chiếc ghim được trang hoàng bằng một viên ngọc lớn, một viên ngọc thật. Harry giới thiệu, người đàn ông dưa tay bắt rồi nói:
– Tôi là Tom Luther. - Harry nhận thấy cặp nút ở tay áo cũng bằng ngọc như cái ghim ở cà vạt. Đây là một anh chàng tiêu tiền vào các thứ linh tinh không quan trọng.
Harry ngồi xuống, trải khăn ăn ra. Luther nói giọng Mỹ nhưng nghe bẹ bẹ, như có pha giọng châu Âu.
– Ông ở đâu, ông Tom? - Harry hỏi, vẻ thăm dò.
– Ở Provence, Rhode Island. Còn anh?
– Philadelphie. - Harry rất muốn biết Philadelphie ở đâu. - Nhưng tôi sống lung tung, cha tôi làm việc cho các cơ quan bảo hiểm.
Luther gật đầu ra vẻ lễ phép, nhưng không có vẻ quan tâm cho lắm. Chính đây là điều Harry thích. Anh không muốn người ta hỏi anh dông dài về gia đình.
Hai nhân viên phi hành đoàn bước vào, họ tự giới thiệu. Eddie Deakin cơ khí trưởng, có đôi vai rộng, tóc màu nhung, khuôn mặt dễ thương; Harry có cảm giác như anh ta muốn tháo cà vạt và cởi chiếc áo vét đồng phục ra. Jack Ashford, hoa tiêu, có mái tóc màu nâu; thái độ chững chạc, trông anh ta như có máu thích mặc đồng phục bẩm sinh.
Họ vừa ngồi xuống là Harry đã nhận thấy giữa Eddie cơ khí trưởng và Luther hành khách có sự thù hằn nhau rồi. Anh nhận thấy chuyện này có vẻ hấp dẫn quá.
Bữa ăn bắt đầu bằng món tôm hùm khai vị. Hai nhân viên phi hành đoàn uống côca côla. Harry uống rượu vang vùng sông Rhin, còn Tom Luther gọi một ly Marbni.
Harry nghĩ đến Margaret Oxenford và ông bạn trai bị chết ở Tây Ban Nha.
Anh nhìn qua cửa sổ, lòng phân vân không biết cô có còn thương mến anh ta không.
Jack Ashford nhìn theo anh rồi nói:
– Cho đến bây giờ, chúng ta còn may mắn có thời tiết tốt. Bầu trời trong sáng, ánh mặt trời chiếu sáng lên cánh máy bay.
– Thường khi thì ra sao? - Harry hỏi.
– Thỉnh thoảng trời mưa suốt cả chuyến bay từ Ailen cho đến Terle Neuve, - Jaek đáp. - Có khi có mưa đá, có tuyết, có sấm chớp.
Harry nhớ những chuyện anh đã đọc trên sách báo.
– Gặp băng giá có nguy hiểm không?
– Chúng tôi đã tính đường bay để tránh băng giá. Nhưng dù sao, máy bay cũng đã có trang bị mũ chụp chống băng giá rồi.
– Mũ chụp là gì?
– Là những lớp chăn bằng cao su để đậy hai cánh và cánh lái ở đuôi, nơi rất dễ bị đóng băng.
– Dự báo thời tiết cho biết suốt chuyến bay ra sao?
Jack ngần ngừ một lát, Harry bỗng cảm thấy ân hận vì đã hỏi về thời tiết.
Nhưng Jack vẫn đáp:
– Có bão ở Đại Tây Dương.
– Bão có mạnh không?
– Ở trung tâm bão thì mạnh, nhưng theo tôi thì máy bay sẽ bay ngoài bìa của cơn bão. - Ông ta có vẻ không hoàn toàn hài lòng về cách trả lời.
– Nếu gặp bão thì máy bay sẽ như thế nào? - Tom Luther hỏi xen vào. Anh ta nhe răng cười, nhưng Harry thấy nỗi lo sợ của anh ta lộ rõ trong cặp mắt màu xanh nhạt.
– Máy bay sẽ lắc lư một ít, - Jack đáp.
Anh không nói tiếp, nhưng Eddie lại lên tiếng nói.
Anh nhìn thẳng vào mắt Luther và nói với giọng chắc nịch:
– Nó bay như là ta cưỡi trên lưng một con ngựa hoang vậy.
Luther tái mặt. Jack nhìn Eddie, cau mày, rõ ràng anh ta không hài lòng cách trả lời thiếu tế nhị của Eddie.
Cơ khí có vẻ đang lo lắng việc gì đó lén quan sát anh ta. Với khuôn mặt rạng rỡ, dễ thương, anh ta không có vẻ gì là người hay hờn dỗi. Để lôi anh ta ra khỏi tình trạng đăm chiêu, Harry hỏi:
– Ông Eddie này, trong khi ông đang ăn thì ai làm việc ở chỗ ông?
– Người cơ khí phó, anh Mickey Fiun, thay chỗ tôi. Eddie đáp. Anh nói với giọng lễ phép, nhưng không cười, - Phi hành đoàn chúng tôi gồm có chín người, không kể hai người tiếp viên. Ngoại trừ ông Cơ trưởng, tất cả chúng tôi đều làm việc thay phiên, mỗi phiên như vậy là bốn giờ. Jack và tôi bắt đầu làm việc từ khi máy bay cất cánh ở Southampton lúc hai giờ cho nên đến sáu giờ chúng tôi được nghĩ, cách đây mấy phút.
– Thế còn ông Cơ trưởng thì sao? - Tom Luther hỏi, giọng lo lắng. - ông ấy uống thuốc để thức cả đêm à?
– Khi nào có thể ngủ được, ông ta ngủ một giấc, Eddie đáp. - Có lẽ khi chúng ta dã vượt qua điểm không quay về, thì ông ấy sê ngủ một chút.
– Như thế, khi chúng ta bay trên trời thì ông Cơ trưởng đi ngủ à? - Luther hỏi, giọng hơi lo một chút.
– Đương nhiên, - Eddie đáp, miệng tươi cười.
Luther có vẻ hoảng hốt. Harry cố xoay câu chuyện sang những vùng yên tĩnh hơn. Anh hỏi:
– Điểm không quay về là điểm gì?
– Chúng tôi thường xuyên kiểm tra lượng dự trữ nhiên liệu của máy bay. Khi chúng tôi không đủ lượng nhiên liệu để quay về Foynes nữa, khi ấy chúng tôi đã qua khỏi điểm không quay về. - Eddie nói với thái độ dữ dội, Harry bỗng hiểu ra cơ khí trưởng muốn làm cho Luther lo sợ, Anh hoa tiêu nói xen vào, như cố làm cho mọi người an tâm:
– Hiện giờ, chúng ta có đủ nhiên liệu để bay đến nơi hay quay trở về.
– Nhưng nếu chứng ta không đủ nhiên liệu để bay đến nơi và cũng không quay về được, thì tính sao? Luther hỏi.
Eddie nghiêng người trên bàn, nhìn anh ta, nhếch miệng cười chua chát, rồi nói:
– Ông Luther, xin ông hãy tin vào tôi đi.
– Chuyện như thế sẽ không bao giờ xảy ra đâu, – Người hoa tiêu vội vàng nói. - Chúng ta sẽ quay về Foynes được trước khi đến điểm ấy. Và để đề phòng trước chúng tôi đã tính đến chuyện bay với ba động cơ trong số bốn động cơ nếu gặp trường hợp có một động cơ hỏng.
Jack cố làm cho Luther vững dạ, nhưng rõ ràng khi nghe nói đến động cơ hư hỏng anh ta lại càng lo sợ thêm. Anh ta cố múc một muỗng xúp lên ăn, nhưng vì tay run nên xúp đổ cả vào cà vạt.