Trên Chuyến Bay Đêm - Chương 13 - Phần 2
Eddie ngồi im lặng, rõ ràng là anh thích thú khi thấy Tom lo sợ. Jack cố nói chuyện cho gã yên tâm, nhưng không khí vẫn căng thẳng. Harry tự hỏi không biết giữa Eddie và Luther có chuyện gì xích mích.
Chẳng mấy chốc phòng ăn đã đông người. Bà mặc áo có chấm đỏ xinh dẹp đến ngồi vào bàn bên cạnh bàn của Harry với người đàn ông mặc áo vét mỏng màu xanh. Harry nghe họ gọi nhau là Diana Lovesey và Mack Alder. Harry nhủ thầm: nếu Margaret cũng mặc quần áo như bà Lovesey này, chắc có lẽ sẽ đẹp hơn là đằng khác. Nhưng bà Lovesey không có vẻ gì sung sướng; thật vậy, trông bà ta có vẻ khổ sở quá.
Việc phục vụ rất nhanh nhẹn và thức ăn thật ngon. Món ăn chính là thịt thăn bò nấu nấm với xốt Hòa Lan và với khoai tây nghiền. Thịt bò bít tết lớn gấp đôi trong các quán ăn của người Anh. Harry ăn không hết, và anh cũng từ chối không uống ly vang thứ hai. Anh muốn đầu óc minh mẫn. Anh quyết lấy cho kỳ được bộ trang sức Delhi. Đây là cú làm ăn lớn trong sự nghiệp ăn trộm của Harry và anh quyết định đây cũng là vố cuối cùng. Vố này đủ cho anh mua một cái nhà ở nông thôn có cây leo bên tường và có sân quần vợt.
Sau món bít tết, người ta dọn món rau, khiến Harry phải ngạc nhiên. Trong các nhà hàng sang trọng ở Luân Đôn không có rau, và nhất là sau khi đã ăn món chính, không bao giờ có món rau này.
Đào ướp xirô trộn đá, cà phê và bánh nướng nhỏ nối tiếp nhau dọn ra rất nhanh. Eddie hình như thấy mình không hòa đồng với mọi người, anh bèn cố góp chuyện.
– Ông Vandenpost này, xin phép hỏi mục đích chuyến đi này của ông có được không?
– Thú thục là tôi không muốn rơi vào tay của Hitler. Harry đáp. - Ít ra cũng trước khi nước Mỹ tham chiến.
– Ông tin nước Mỹ sẽ tham chiến à? - Eddie hỏi với giọng hồ nghi.
– Sẽ tham chiến như trận đại chiến vừa rồi.
Bỗng Tom Luther lớn tiếng nói:
– Chúng ta không xích mích gì với người quốc xã hết. Họ chống Cộng sản, và chúng ta cũng thế.
Jack gật đầu đồng ý.
Harry quá đỗi kinh ngạc. Ở Anh, mọi người đều tin thế nào ngưởi Mỹ cũng tham chiến. Nhưng ở đây, quanh các bàn ăn này, không ai nghĩ như thế. Có lẽ những người Anh đã nghĩ sai? Có lẽ họ không nên trông chờ vào sự giúp đỡ của người Mỹ. Tin này mà mẹ anh ở Luân Đôn nghe được thì bà sẽ buồn biết mấy.
Eddie nói tiếp:
– Theo tôi thì tất cả chúng ta đều phải chiến đấu chống bọn quốc xã. - Giọng anh có vẻ giận dữ. - Bọn chúng là đồ cướp bóc, - anh nói tiếp, nhìn thẳng vào mặt Luther. Tính cho kỹ thì ta phải tiêu diệt bọn chúng như diệt chuột vậy.
Bỗng Jack đột ngột đứng dậy, và buồn rầu.
– Eddie, chúng ta ăn xong rồi, nên về phòng nghỉ ngơi một chút, - anh ta nói, giọng cương nghị.
Eddie ngạc nhiên khi thấy bạn bỏ đi, nhưng anh vẫn gật đầu, hai người cùng đi về phòng nghỉ.
Harry nói:
– Anh chàng cơ khí trưởng cục cằn quá nhỉ.
– Anh thấy thế à? - Luther hỏi. - Tôi chẳng thấy gì hết.
Đồ nói láo dơ bẩn, Harry nhủ thầm. Anh ta vừa xem anh như đồ cướp bóc đấy!
Luther gọi rượu cô nhắc. Harry tự hỏi không biết hắn ta có phải là đồ băng đảng cướp bóc không. Những kẻ thuộc băng đảng mà Harry biết ở Luân Đôn đều rất lòe loẹt, nhẫn đeo đầy các ngón tay, áo măng tô lông thú và giày hai màu. Luther có vẻ là một triệu phú tự lập có thể là nhà triệu phú gặp thời, hay có chân trong kỹ nghệ cũng nên. Thình lình anh hỏi gã ta:
– Ông Tom, ông làm nghề gì vậy?
– Tôi kinh doanh ở Rhode Island.
Câu chuyện giữa họ không mầy hứng thú khiến anh chán nản, anh ngồi im một lát rồi đứng dậy, gật đầu chào gã rồi đi ra.
Khi anh về lại buồng của mình, ngài Oxenford hỏi anh với giọng cộc lốc.
– Bữa ăn có ngon không?
Harry đánh giá rất cao bữa ăn, nhưng giới quí tộc chắc không bao giờ tỏ ra có thiện cảm với các món ăn của những nơi như nơi này. Anh lấy giọng tự nhiên đáp:
– Không tệ. Lại còn có rượu vang miền sông Rhin uống thả dàn nữa.
Oxenford càu nhàu cái gì đó trong họng, rồi tiếp tục đọc báo. Harry nghĩ, chắc không có kẻ nào mất dạy bằng một lãnh chúa mất dạy.
Margaret cười, cô có vẻ sung sướng khi thấy anh.
– Thục ra thì bữa ăn ra sao? - Cô hỏi nhỏ như không muốn cho ai nghe hết.
– Tuyệt diệu! - Anh đáp. Hai người cùng phá ra cười Khi Margaret cười, trông cô khác hẳn. Lúc ngồi yên, mắt cô có vẻ nhọt nhạt, tầm thường, nhưng khi cô nói, hai má cô ửng hồng, để lộ hai hàm răng đẹp không chê vào đâu được, và giọng cười nghe rất hấp dẫn. Harry muốn nghiêng người qua lối đi hẹp để sờ vào tay cô. Anh định làm thế thì bỗng thấy ông Clive Membury ngồi trước mặt đưa mắt nhìn anh, và không biết tại sao, ánh mắt của ông ta đã ngăn anh lại, không để cho anh làm theo ý muốn. Anh bèn ngồi yên và nói với Margaret:
– Có bão trên Đại Tây Dương.
– Như thế có nghĩa là chuyến bay sẽ gặp khó khăn?
– Phải. Họ sẽ cho máy bay bay vòng để tránh bão, nhưng chúng ta cũng sẽ bị rung động mạnh.
Câu chuyện của họ thường bị gián đoạn vì các tiếp viên không ngớt đi lui đi tới trên lối đi, họ mang thức ăn đến phòng ăn rồi mang chén đĩa dơ về nhà bếp.
Harry thấy họ rất vất vả, vì chỉ có hai mà phải phục vụ rất nhiều người.
Anh lấy tờ Life của Margaret vừa để xuống, anh lật ra giả vờ xem, cốt đợi cho gia đình Oxenford đi ăn.
Anh không mang theo sách vở mà cũng không mang theo tạp chí; anh không thích đọc. Anh chỉ thích liếc mắt nhìn qua các tờ báo thôi, anh chỉ thích giải trí bằng cách nghe rađi-ô và xem xi-nê.
Cuối cùng người ta mời gia đình Oxenford đi ăn, trong buồng chỉ còn lại Harry và Clive Membury. Mới đầu chuyến bay, ông ta sang chơi bài ở phòng khách, nhưng bây giờ phòng khách đã biến thành phòng ăn, nên ông ta ngồi tại chỗ. Harry nghĩ, thế nào ông ta cũng đi vào phòng vệ sinh.
Anh lại tự hỏi không biết ông Membury có phải là cảnh sát không và nếu thế thì ông ta đi trên chiếc Clipper này làm gì. Nếu ông ta theo dõi một nghi can, thì chắc nghi can này phải là một tội phạm quan trọng, nếu không thì sao một cảnh sát Anh lại chi tiền để mua một cái vé trên chiếc Clipper sang trọng này. Có thể ông ta đã dành dụm nhiều năm trời để đi du hành một chuyến, bay trên sông Nil hay đi trên chiếc tốc hành Phương Đông. Cũng có thể ông ta chỉ muốn bay qua Đại Tây Dương chơi. Nếu thế, thế nào ông ta cũng sẽ tranh thủ thời giờ để thưởng ngoạn chuyến bay. Chín mươi bảng Anh chứ ít ỏi gì, số tiền quá lớn đối với một cảnh sát viên.
Harry thiếu kiên nhẫn, nên khoảng nửa giờ sau, thấy ông Membury vẫn ngồi yên không nhúc nhích, anh bèn quyết định ra tay. Anh hỏi ông ta:
– Ông Membury, ông đã xem phòng máy chưa?
– Chưa...
– Nghe nói phòng máy rất kỳ diệu. Người ta nói phòng máy to lớn như cả một chiếc Douglas DC. 3, mà loại máy bay này cũng thuộc loại lớn rồi đấy.
– Ái chà! - Membury chỉ tỏ thái độ ngạc nhiên cho hợp phép lịch sự...
Quả ông ta là loại người không có đam mê về máy bay.
– Chúng ta nên đi xem qua cho biết. - Harry chặn Nicky lại, anh ta đang bưng khay xúp đi qua. Anh hỏi:
– Hành khách có thể xem phòng máy được không?
– Thưa ông được chứ, quý khách sẽ được đón tiếp niềm nở.
– Lúc này đến thăm có tiện không?
– Lúc này rất tiện, thưa ông Vandenpost. Còn lâu mới đến giờ máy bay hạ cánh, cũng không phải giờ cất cánh, không phải giờ thay phiên, mà thời tiết lại tốt. Quí vị không còn đợi lúc nào tốt hơn nữa.
Harry đã mong anh ta trả lời như thế. Anh bèn đứng dậy, quay qua ông Membury.
– Ta đi xem chứ?
Membury có vẻ như muốn từ chối, ông ta không phải loại người dễ bị người khác lôi cuốn nghe theo. Nhưng có lẽ ông sẽ mang tiếng là người thô lỗ cục cằn, nếu ông từ chối. Có lẽ ông không tỏ ra mình là người khó chơi. Cho nên sau một lát do dự, ông ta đứng lên và nói:
– Tại sao không?
Harry đi trước, anh qua phòng bếp và phòng vệ sinh, rồi quay qua phải leo lên cẩu thang xoắn ốc. Lên hết cầu thang, anh đi vào phòng máy, Membury đi theo sau lưng anh.
Harry nhìn quanh. Nơi đây không giống tí nào hình ảnh mà anh đã thấy người ta chụp về buồng máy ở máy bay. Sạch sẽ, yên lặng, dễ chịu, khung cảnh khiến người ta nghĩ đây là một phòng làm việc trong một cơ sở tối tân. Dĩ nhiên ông cơ khí trưởng và ông hoa tiêu đã cùng ăn với anh không có mặt ở đây vì họ đã hết phiên làm việc: toán khác đang làm việc. Nhưng ông Cơ trưởng thì có mặt ở đây, ông ta ngồi ở cái bàn nhỏ nằm phía sau buồng lái. Ông ta ngước mắt nhìn, mỉm cười thân ái với họ và nói:
– Xin chào quí ông, quí ông muốn thăm buồng máy phải không?
– Dạ phải, - Harry đáp. - Nhưng chắc tôi phải đi lấy máy ảnh cái đã. Tôi chụp hình được chứ?
– Dĩ nhiên là được.
– Tôi sẽ quay lại tức khắc. Anh đi nhanh xuống cầu thang, rết hài lòng về mình, nhưng cũng rất căng thẳng. Anh đã đẩy ông Membury ra khỏi phòng một lát được rồi, nhưng anh phải tìm cho nhanh mới được.
Anh quay về chỗ ngồi. Một tiếp viên trong phòng bếp và người kia trong phòng ăn. Đáng ra anh nên đợi cho cả hai bận bịu phục vụ ở bàn ăn để bảo đảm họ không đi qua buồng của anh vài phút, nhưng vì thì giờ eo hẹp, nên anh phải đánh liều. Có thể anh bị gián đoạn lắm.
Anh lôi va li của bà Oxenford dưới chỗ ngồi ra. Va li hành lý xách tay vào buồng mà quá lớn và quá nặng, nhưng có lẽ bà ta không xách. Anh để va li lên chỗ ngồi và mở ra. Va li không khóa; thế là có dấu hiệu không tốt rồi. Bà Oxenford không đời nào ngu ngốc đem bỏ đồ nữ trang quí giá vào một chiếc va li không khóa như thế này.
Thế nhưng anh cũng lục tìm thật nhanh, mắt liếc nhìn thử có ai đi qua không.
Trong va li có nước hoa, đồ dùng để trang điểm, có quần lót, chiếc áo ngủ dài màu hạt dẻ, áo sơ mi ngủ, đôi dép thật đẹp, đồ lót bằng xoa có màu hồng đào, bít tất, một cái xắc nhỏ đựng bàn chải răng và vài thứ trang điểm, một tập thơ của Blake, nhưng không có đồ nữ trang.
Harry nhủ thầm. Anh đã đoán đây là chỗ có khả năng nhất bà ta giấu bộ trang sức Dehli. Bây giờ anh mới thấy giả thuyết của anh là đáng ngờ.
Việc lùng tìm chỉ diễn ra trong vòng hai mươi giây.
Anh vội đóng va li lại và để xuống dưới ghế ngồi.
Có thể bà ta yêu cầu chồng mang giúp đỡ nữ trang của bà trong túi xách hành lý của ông ta không?
Anh nhìn cái túi xách của ông Oxenford dưới chỗ ngồi. Các tiếp viên vẫn bận bịu công việc. Anh quyết định thử vận may sang các va li khác.
Anh lôi cái túi xách của ông Oxenford ra. Người ta nhìn vào cứ tưởng va li bằng vải, nhưng lại bằng da, có dây kéo, cuối dây kéo có ổ khóa bấm nhỏ. Harry luôn luôn có dao nhíp để xử lý các loại khóa. Anh dùng lưỡi dao mở khóa rồi mở túi xách.
Khi anh đang lục tìm trong túi xách, thì người tiếp viên nhỏ, Davy, đi qua.
Anh ta mang khay đồ uống từ bếp lên phòng ăn. Harry nhìn anh ta, nhoẻn miệng cười. Davy nhìn cái túi xách. Harry nín thở và vẫn giữ nụ cười trên môi.
Người tiếp viên đi tiếp vào phòng ăn.
Rõ ràng anh ta nghĩ cái túi xách là của Harry.
Anh thở phào nhẹ nhõm. Anh là bậc thầy trong nghệ thuật làm chủ mình, nhưng lần này, anh đã sợ kinh khủng.
Hành lý của ông Oxenford cũng chỉ là những thứ đồ dùng cho đàn ông như hành lý của bà vợ thôi: bộ dao cạo râu, nước hoa xức tóc, bộ áo pyjama có sọc, chăn nỉ, và cuốn tiểu sử của Napoléon. Harry đóng túi xách lại, để khóa vào chỗ cũ. Thế nào ông Oxenford cũng phát hiện ra khóa bị bẻ, và chắc ông ta sẽ tự hỏi phải chăng có chuyện gì đã xảy ra. Thế nào ông cũng xem có mất mát gì không, và khi thấy không mất gì, mọi vật còn nguyên, chắc ông ta sẽ nghĩ là ổ khóa bị hỏng thôi.
Harry để túi xách vào chỗ cũ.
Anh thoát nạn, nhưng không thấy bộ trang sức Delhi ở đâu hết.
Rất ít có khả năng đồ nữ trang để trong hành lý của hai người con của bà, nhưng anh vẫn đánh liều quyết lục tìm hành lý của họ cho kỳ được.
Ngài Oxenford là người khôn lanh, cho nên nếu ông ta muốn cất giấu đồ nữ trang của vợ vào túi xách hành lý của các con, thì chắc có lẽ ông ta sẽ chọn cái của Percy mà cất, vì thế nào cậu ta cũng thích thú khi được đóng vai trò âm mưu này, chứ Margaret là người thường chống lại bố, không đời nào ông ta cất vào túi xách của cô.
Harry lấy cái túi du lịch của Percy để lên ghế, ngay cái chỗ mới rồi anh để túi xách của ông Oxenford, với hy vọng là nếu người tiếp viên đi qua, anh ta sẽ tưởng Harry đang lục tìm đồ của mình ở cái túi xách hồi nãy.
Đồ đạc của Percy rất có ngăn nắp, Harry nghĩ chắc là có người giúp việc sắp xếp cho cậu ta nên mới gọn gàng như thế. Không có cậu bé nào mười lăm tuổi mà lại xếp áo quần Pyjama rồi gói vào trong giấy bóng như thế này. Cái túi nhỏ đựng cái bàn chải đánh răng còn mới như ống kem đánh răng chưa khui. Trong túi xách anh thấy có bộ cờ chơi dọc đường, một chồng nhỏ hình hoạt họa và một gói bánh bích qui sô cô la - đã được nhét vào túi xách Harry nghĩ, do một chị đầu bếp hay một chị hầu phòng có lòng tất. Harry nhìn cái bàn đã được xếp gọn, lục tìm trong tập hình hoạt họa, rồi mở gói bánh ra, nhưng anh không tìm thấy đồ nữ trang đâu hết.
Khi anh để cái túi xách vào chỗ cũ lại, một hành khách đi ngang về phía phòng vệ sinh. Harry không nhìn đến người khách.
Anh không tin được chuyện phu nhân Oxenford để bộ trang sức ở lại nước Anh, nơi mà chỉ trong vòng vài tuần nữa thời là sẽ bị kẻ thù chiếm đóng. Chỉ còn hai nơi nữa thôi, một là trong va li của Margaret, hai là trong hành lý ký gởi. Khó mà vào tìm trong kho hành lý ký gởi. Có thể nào vào kho hành lý ký gởi khi máy bay đang bay được không? Hay là anh ta phải tính đến trường hợp đi theo gia đình Oxenford đến tận khách sạn họ ở, tại New York...
Ông Cơ trưởng và ông Membury chắc sẽ thắc mắc tại sao anh đi lấy máy ảnh lâu như thế này.
Anh lấy cái túi xách của Margaret. Cái xách như một món quà tặng vào dịp sinh nhật. Đó là một cái va li nhỏ có các góc tròn trịa, bằng da màu kem mềm mại, dây kéo bằng da xinh xinh. Mở ra, anh ngửi thấy mùi nước hoa Tosca. Anh thấy chiếc áo sơ mi ngủ bằng vải hoa, anh cố hình dung ra cơ thể của cô trong cải áo này. Chắc thân hình cô ta xinh lắm. Đồ lót chỉ bằng vải trắng giản dị thôi.
Anh phân vân không biết cô ta còn trinh không. Anh tìm thấy một tấm ảnh đóng khung, trên ảnh là một chàng trai khoảng hai mươi tuổi, khá đẹp trai, tóc nâu dài, cặp mắt đen, mặc cái áo chùng và đội mũ không vành tốt nghiệp đại học. Có lẽ đây là anh chàng chết ở Tây Ban Nha? Cô ta đã ngủ với anh ta chưa? Cô ta đọc tiểu thuyết D.H. Lawrence. Mình cam đoan mẹ cô ta không biết, Harry nhủ thầm.
Một chồng nhỏ khăn tay có thêu hai chữ “M.O” Khăn thơm mùi nước hoa Tosca.
Nhưng vẫn không có đồ nữ trang.
Harry định lấy một cái khăn tay có tẩm nước hoa để làm kỷ niệm. Ngay khi anh lấy cái khăn thì Davy xuất hiện, anh ta bưng cái khay và chồng đĩa xúp.
Anh ta nhìn Harry rồi dừng lại, cau mày. Dĩ nhiên cái xách của Margaret khác xa cái túi xách của Oxenford.
Rõ ràng Harry không thể là chủ nhân cả hai cái va li; như vậy chắc chắn anh đang lục hành lý xách tay của người khác.
Davy nhìn anh một lát, lộ vẻ khinh bỉ, nhưng đồng thời cũng lo sợ không dám tố cáo hành khách. Cho nên anh ta ấp úng hỏi:
– Thưa ông, đấy là túi xách của ông à?
Harry chìa cái khăn nhỏ cho anh tiếp viên thấy rồi nói:
– Tôi hỷ mũi trong này được không? - Anh đóng va li lại và để vào chỗ cũ.
Davy vẫn có vẻ buồn. Harry giải thích:
– Cô ấy nhờ tôi đến lấy khăn cho cô. Cho nên mới có chuyện hiểu lầm giữa chúng ta.
Vẻ mặt của Davy thay đổi, anh ta có vẻ lúng túng.
– Xin ông tha lỗi, tôi mong ông hiểu...
– Tôi rất sung sướng khi thấy anh để mắt canh chừng đồ đạc cho hành khách. Anh làm việc thế là rất tốt - Anh vỗ nhẹ lên vai Davy. Bây giờ anh phải đem cái khăn chết tiệt này đến cho Margaret mới được, để chứng minh cho anh tiếp viên thấy đây là chuyện thực.
Anh đi vào phòng ăn.
Cô đang ngồi ở bàn ăn với bố mẹ và em trai. Anh vung cái khăn về phía cô và nói:
– Cô đánh rơi cái này.
Cô ngạc nhiên, đáp lại:
– Thật ư? Cảm ơn.
– Xin cô thông cảm, - anh nói rồi vội vã bỏ di.
Liệu Davy có cả gan đến hỏi Margaret để kiểm chứng có thật cô đã nhờ anh đi lấy khăn sạch không? Chắc anh ta không dám đâu.
Harry đã đi qua buồng của mình, đi qua buồng bếp, Davy đang chồng các đĩa dơ lên nhau, rồi anh leo lên chiếc cầu thang xoắn ốc. Làm sao đến được kho hành lý nhỉ? Anh không biết kho này nằm ở đâu, không để ý người ta chất hàng lên chỗ nào. Nhưng anh phải tìm ra cách để biết kho hành lý ở chỗ nào mới được.
Ông Cơ trưởng Baker đang giảng giải cho Clive Membury biết làm sao máy bay bay lên được trên biển khi không có điểm mốc để xác định vị trí:
– Hầu hết thời gian bay trên biển, chúng tôi nằm ngoài tầm của sóng truyền tin, cho nên chúng tôi chỉ nhờ vào sao để định hướng... khi nào chúng tôi thấy sao.
Membury ngước mắt nhìn Harry.
– Không có máy ảnh à? - Ông ta hỏi, giọng gay gắt.
Đúng ông ta là cảnh sát rồi, Harry nhủ thầm.
Anh đáp:
– Tôi đã quên mua phim. Thật ngốc phải không?
– Anh nhìn quanh. - Làm sao ở đây mà ông nhìn thấy sao được. – Ồ, người hoa tiêu vừa ra ngoài rồi, - Ông Cơ trưởng máy bay nói, vẻ thản nhiên. Rồi ông cười – Tôi nói đùa đấy thôi. Có đài quan sát chứ, để tôi dẫn các ông đi xem.
Ông ta mở cánh cửa ở cuối phòng này, rồi bước qua ngưỡng cửa. Harry đi theo ông ta, anh bước ra một lối đi hẹp. Ông Cơ trưởng đưa tay chỉ:
– Đấy là vòm quan sát. - Harry nhìn, không muốn quan tâm, anh chỉ nghĩ đến đồ nữ trang của bà Oxenford thôi. Trên nóc máy bay có một khung cửa kính, bên cạnh đấy có móc cái thang xếp. Khi nào thấy mây tan, người hoa tiêu mang kính định vị leo lên đấy. Hành lý của khách cũng chất ở đấy.
Bỗng Harry chú ý đến ông ta. Anh hỏi:
– Hành lý chất trên nóc máy bay à?
– Đương nhiên phải chất ở đây.
– Đâu nào, chúng được chất ở đâu?
Ông Cơ trưởng chỉ hai cánh cửa nằm hai bên lối đi nhỏ. Chất trong kho.
Harry không tin được mình may mắn đến thế.
– Vậy tất cả va li đều trên ấy, sau hai cánh cửa ấy?
– Đúng thế, thưa ông.
Harry mở thử một cánh cửa. Cửa không khóa. Anh nhìn vào trong phòng. Va li và rương hòm của khách đều được sắp xếp rất ngăn nắp, được buộc cứng vào các thanh chằng bằng dây dai để khi máy bay bay, chúng khỏi lúc lắc.
Bộ trang sức Delhi nằm đâu đó trong ấy, Harry Marks đã bắt đầu hình dung ra được cuộc sống xa hoa sung túc.
Clive Membury ngoái nhìn Harry, ông khẽ nói:
– Kỳ diệu nhỉ.
– Phải, rất kỳ diệu, - Harry đáp.