Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 1) - Chương 03 - Phần 1

Chương 3: Ô vuông và mũi tên

Quả đúng như Reynie đã nghĩ trước đó, căn phòng nằm trên tầng bảy của tòa nhà. Chẳng có bảng hiệu trên cánh cửa. Nhưng, sau khi lòng vòng khắp một lượt qua các dãy hành lang vắng, soi kỹ tất cả các bảng hiệu trên cửa các căn phòng khác (nào là 7-A, 7-C, 7-D, và 7-E), cả ba quay lại với căn phòng duy nhất chẳng có chữ gì trên cửa. Kate đánh liều gõ cửa. Ngập ngừng một thoáng, cô bạn tiếp tục gõ và còn có vẻ gõ to hơn. Phải qua vài lần như thế mới có phản hồi - nhưng không phải từ phía bên kia cánh cửa mà là từ ngay phía sau lũ trẻ.

“Gõ thế là đủ rồi đấy”, một giọng trầm vang lên gần sát bên tai.

Trước mặt lũ trẻ bây giờ là một người đàn ông cao lớn, đội chiếc mũ bạc phếch; chiếc áo khoác bạc phếch; cái quần bạc phếch, và cả đôi ủng dưới chân cũng bạc phếch. Gò má hồng hào của ông bị che khuất trong bộ râu quai nón lởm chởm, trong khi mái tóc (từ những gì có thể nhìn thấy phía dưới chiếc mũ) thì lại có màu vàng nhạt. Nếu chẳng có đôi mắt tinh nhanh màu xanh nước biển kia, người ta có thể sẽ nghĩ đấy là một con bù nhìn vừa mới thoát khỏi cái cọc chôn chân ở ngoài đồng. Và trên hết là cái nét buồn thảm trên gương mặt đang nhìn chúng. Lũ trẻ ngay lập tức nhận ra cái nét buồn thảm ấy.

Reynie bị ám ảnh đến mức, thay vì chào hỏi cho phải phép, lại hỏi, “Ngài ổn chứ ạ?”

“Ta e là không. Nhưng không quan trọng. Các cháu đã sẵn sàng cho vòng thi tiếp theo chưa?”

“Nhưng mà chúng ta chưa biết gì về nhau ạ!” Kate nói và chìa tay ra.

“Tên cháu là Kate Wetherall, bạn bè gọi cháu là…,” cô bé liếc sang hai cậu bạn đang nhìn mình với ánh mắt ngờ vực.

“À, bạn bè gọi cháu là Kate ạ.”

Người đàn ông miễn cưỡng bắt tay Kate. Nhưng mà, thậm chí cả cái bắt tay cũng ỉu xìu, ông ấy chẳng buồn bỏ sức ra xiết tay Kate. Đến lượt hai cậu bé tự giới thiệu về mình và người đàn ông lại hờ hững bắt tay chúng. “Thế là biết nhau rồi nhé. Bây giờ...,” ông nói.

“Nhưng ngài vẫn chưa cho chúng cháu biết tên,” Kate bướng bỉnh.

Người đàn ông thở dài, đăm chiêu suy nghĩ. Cuối cùng, ông quyết định, “Gọi ta là Milligan.”

“Đấy là tên hay họ của ngài ạ?”

“Milligan thôi. Không hỏi thêm gì nữa đâu nhé. Bắt đầu nhé. Nào, ai là George?”

Kate cau mày giận dữ. Cô bé đang dần dần mất kiên nhẫn rồi.

“Ngài chẳng nghe bọn cháu nói gì cả. Bọn cháu là Sticky, Reynie và Kate!”

Sticky hắng giọng, “Ừm, à, thực ra tên tớ là George. Sticky là biệt danh thôi.”

“Có nghĩa tên cậu là George Washington? Cái tên của tổng thống? Của người đã khai sinh ra đất nước chúng ta á?” Kate hỏi.

“Cũng chẳng phi thường đến mức ấy đâu,” Sticky tự vệ. “Cậu đừng trêu chọc tớ thế nữa.”

“Thoải mái đi,” Kate nói. “Tớ chẳng chọc ghẹo gì đâu nhé.” Rõ ràng là Sticky có vẻ khá nhạy cảm với tên gọi của mình.

Ngài Milligan nói, “Dù là Sticky hay George thì cháu cũng sẽ là người đầu tiên. Đóng cánh cửa kia lại ngay sau khi bước qua nó nhé.”

Sticky mở to mắt, “Cháu phải vào trong kia một mình ạ?”

“Đúng rồi, chỉ là một bài thi thôi mà. Hai bạn này cũng sẽ vào trong đó ngay thôi.”

“May mắn nhé Sticky,” Reynie vỗ vỗ lên vai cậu bạn của mình, động viên. “Tớ chắc bạn sẽ làm tốt.”

“Vào đi, Sticky,” Kate nói.

Sticky tháo kính ra, lau lau hai mắt kính, rồi đeo lại lên mắt. Xem xét một chút, cậu bé lại lặp lại quy trình này một lần nữa. Có vẻ như có đốm trên mắt kính mà mãi chẳng lau sạch.

“Đừng chần chừ nữa, Sticky,” Milligan giục. “Không có gì làm cháu đau đâu.”

Cuối cùng Sticky gật đầu, đeo kính, cất cái khăn lau và bước qua cánh cửa. Milligan lập tức đóng cánh cửa lại, rồi bỏ đi mà chẳng nói từ nào.

“Cậu thấy sao?” Kate nói. “Ngài ấy thậm chí cũng chẳng hướng dẫn chúng ta phải làm gì, hay bài kiểm tra sẽ kéo dài trong bao lâu, chẳng nói gì cả.”

“Ngạc nhiên thật đấy,” Reynie trả lời.

Vừa lúc đó, Milligan quay trở lại và thông báo đã đến lượt Reynie. Không một chút thông tin nào về những gì đã xảy ra với Sticky.

“Hẹn gặp cậu ở phía bên kia cánh cửa nhé,” Kate nói. “Dù là ở bất cứ đâu.”

Reynie hít một hơi thật dài rồi đi vào căn phòng, cùng lúc cánh cửa phía sau đã được đóng lại. Cậu thấy mỗi mình mình trong căn phòng trống. Trên bức tường đối diện, phía trên cánh cửa đóng kín, có dòng chữ:

VƯỢT QUA CĂN PHÒNG NÀY, KHÔNG ĐƯỢC GIẪM CHÂN LÊN BẤT CỨ Ô VUÔNG MÀU XANH HOẶC ĐEN NÀO.

Reynie nhìn xuống. Trên nền xi măng ngay sau cánh cửa, chính là chỗ cậu đang đứng, có một vòng tròn lớn màu đỏ. Phía bên kia căn phòng, cạnh cánh cửa đóng kín đối diện, là một vòng tròn đỏ khác. Khoảng sàn nhà giữa hai vòng tròn này giống như một bàn cờ khổng lồ với các ô chữ nhật màu xanh, đen và vàng xen kẽ nhau. Reynie tính toán. Có quá nhiều ô màu xanh và đen so với số lượng ít ỏi các ô màu vàng. Cậu nhanh chóng nhận ra, vượt qua căn phòng này mà không đặt chân lên bất cứ ô xanh hoặc đen nào là điều không thể. Các ô màu vàng ở cách xa nhau đến mức, theo Reynie, thậm chí một chú kangaroo cũng khó có thể nhảy được từ ô này sang ô kia. Reynie ngẩng lên xem xét lại dòng chữ. Sau một thoáng suy nghĩ, cậu mỉm cười lắc đầu rồi tự tin rảo bước qua bàn cờ, đi qua vòng tròn đỏ phía bên kia và bước qua cánh cửa.

Sticky và Milligan khi đó đang đợi Reynie ở phía xa. Cả hai đã bí mật theo dõi Reynie qua các lỗ hổng nhỏ xíu trên tường. Sticky bối rối tỏ vẻ muốn hỏi Reynie điều gì đó, nhưng Milligan đã ra hiệu cho cậu yên lặng. “Các cháu có thể xem, nhưng phải trật tự.”

Xong xuôi, Milligan đi ra ngoài để thông báo với Kate là đã đến lượt cô bé.

Vài giây sau, Kate ngập ngừng bước vào phòng 7-B. Đọc dòng chữ xong, Kate quan sát sàn nhà, tính toán xem liệu mình có thể nhảy từ ô màu vàng này sang ô màu vàng khác được không. Cuối cùng, cô bé lắc đầu từ bỏ ý nghĩ này. Tiếp đó, cô bé ước chừng khoảng cách giữa hai cánh cửa, trước khi lôi ra một đoạn dây từ trong chiếc giỏ cô mang theo, tạo một cái thòng lọng ở đầu dây, rồi với một động tác thành thục, quăng chính xác cái thòng lọng vào cái núm trên cánh cửa phía bên kia căn phòng. Buộc đầu dây còn lại vào núm cửa phía sau, Kate kéo căng sợi dây, cẩn thận thắt nút rồi leo lên. “Giờ mà có cái mái chèo nhỉ.” Kate vừa bước trên sợi dây vừa nói với chính mình, “Mình sẽ cầm nó ở đằng trước để giữ thăng bằng.”

Đúng là một mái chèo có thể đã có ích, vì khi đi được một nửa quãng đường, Kate loạng choạng suýt ngã (hai cậu bạn thì thót tim chờ đợi). Nhưng chỉ sau vài giây vung tay liên hồi, cô nhanh chóng lấy lại được thăng bằng. Cẩn thận đi thêm vài bước nữa, Kate nhảy phốc xuống vòng tròn đỏ phía bên kia căn phòng.

“Oao!” Sticky thì thầm. “Cậu ấy làm được rồi!”

Nhưng trước khi Kate kịp nhập hội với hai cậu bạn của mình, Milligan xuất hiện và dắt cô bé quay lại điểm xuất phát. Cô bé sẽ phải làm lại mà không được sử dụng sợi dây, còn Milligan thì hứa sẽ trả lại sợi dây cho cô bé sau khi vòng thi đã kết thúc.

“Chẳng công bằng gì cả,” Sticky thì thầm. “Có ai nói trước với cậu ấy là không được dùng dây đâu.”

Ngay lúc đó, Kate đã bắt đầu lôi mấy thứ đồ đựng trong cái giỏ ra và nhét tất cả vào túi khiến mấy cái túi của cô bé phồng lên trông rất buồn cười. Xong xuôi, Kate tháo quai giỏ rồi quấn nó quanh người. Đá cái giỏ đổ nghiêng trên sàn, cô bạn nhảy lên thành và bắt đầu lấy chân lăn cái giỏ tiến về phía trước. Kate lúc đó trông giống như một chú gấu trong rạp xiếc đang cố gắng giữ thăng bằng trên một quả bóng vậy. Loay hoay một lúc, lăn bên này, bên kia một hồi, cuối cùng cô bạn cũng đến được cái vòng tròn đỏ phía bên kia.

Reynie và Sticky kinh hãi nhìn nhau. Cô bạn này rốt cuộc là người như thế nào?

Nhưng lúc Kate đang lúi húi móc lại cái quai giỏ và bỏ lại mấy thứ vào trong giỏ, Milligan bước tới, lại một lần nữa dắt Kate quay trở lại vòng tròn đỏ xuất phát. Kate còn phải miễn cưỡng nộp lại cho Milligan cái giỏ và cả đống dụng cụ trong đó. Tuy nhiên, cô bạn lấy lại tinh thần rất nhanh. Trước cả khi Milligan kịp đóng cánh cửa, Kate đã nhún vai, vặn các đốt ngón tay, rồi chống cả hai bàn tay xuống sàn xi măng, rồi nhấc bổng cả người và chân lên cao. Bằng cách này, cô nhanh chóng vượt qua căn phòng mà chẳng phải đặt một bước chân nào xuống nền nhà.

“Đừng lo,” Milligan nói khi Kate đẩy tay mở cánh cửa. Trả lại cho Kate đầy đủ những thứ trước đó đã thu của cô bé, Milligan tiếp, “Cháu đã qua.”

“Tớ vẫn không hiểu,” vừa đi theo Milligan xuống một cầu thang tối om, Sticky vừa thắc mắc với Reynie, “là sao cậu lại qua được nhỉ. Dĩ nhiên là tớ vui lắm với kết quả này, nhưng tớ vẫn không tự lý giải được. Tớ bò với tay và đầu gối, nên rõ ràng là bàn chân của tớ không chạm vào bất cứ ô màu đen hoặc màu xanh nào. Còn Kate, bạn ấy đã phải dùng đến cả những màn nhào lộn. Trong khi cậu chỉ ung dung đi qua căn phòng, mà rõ là chân cậu có bước vào cả những ô tối màu.”

Lúc đó, mọi người đã bước xuống đến những bậc cầu thang cuối cùng, trước khi đi vào một đường hầm ẩm ướt, tối tăm trong ánh đèn yếu ớt. Vài chú rết cuộn tròn ngay giữa lối đi, và tai lũ trẻ thì nghe tiếng động từ những con vật đang lẩn khuất đâu đó trong bóng tối. Bằng con đường tối tăm này, Milligan đang đưa lũ trẻ đến với “địa điểm của vòng thi cuối cùng,” Reynie cảm tưởng như có lẫn cả những thanh âm của sự đe dọa trong câu nói của Sticky.

“Chỉ việc bước qua thôi á?” Kate hỏi. “Reynie, quái nào mà cậu vẫn qua nhỉ?”

“À, lại là một câu đố mẹo nữa đấy mà. Vì chẳng có ô vuông nào ở trên sàn nhà cả - tất cả đều là hình chữ nhật. Các cạnh của chúng có dài bằng nhau đâu.”

“Ơ đúng rồi,” Kate reo lên.

Sticky thì vỗ vỗ vào trán. “Vậy là cái quần của tớ bị bẩn một cách vô ích rồi. Tớ đã bò lê trên sàn như một đứa trẻ. Tớ thật ngớ ngẩn! Chẳng tin được là họ vẫn để tớ lọt vào vòng thi tiếp theo này.”

“Cậu đâu có ngốc,” Reynie nói. “Cậu đang ở đây, chẳng phải thế sao?”

“Nhưng đây là đâu nhỉ?” Kate xen vào. “Ngài Milligan, ta đang ở đâu thế ạ?”

Chẳng dừng bước, cũng chẳng buồn quay đầu lại, Milligan chỉ trả lời ngắn gọn, “Hiện tại ta đang ở phía dưới Đường Số Năm”.

“Cháu đoán là chúng ta không thể đi ở phía trên kia được, phải không ạ?” Sticky hỏi. “Ở trên đó có ánh nắng, chẳng ẩm ướt giống dưới này, và lại không hề có cái mùi khó chịu giống mùi cá ươn nữa.”

“Và trên đó không có những thứ đáng sợ cứ chực rơi vào đầu chúng ta,” Reynie thêm vào khi đang co rúm vì sợ hãi, cố phủi con bọ cánh cứng cứ cố tìm cách chui vào dưới cổ áo cậu.

“Nắng ở ngay phía trước kia rồi,” ngài Milligan đáp. Quả đúng như thế. Lúc này, lũ trẻ đang cùng đi lên dãy cầu thang dẫn vào một căn hầm trống, ngay ngoài cửa hầm là dãy phố yên ắng với những cây du [1] và những ngôi nhà cổ ở hai bên đường. Phải mất một lúc mắt lũ trẻ mới quen được với ánh nắng chói chang bên ngoài đường hầm.

[1] Vì trong sách không đề cập đến nên mình đành tra trên google.

Lợi dụng lúc đó, Milligan biến mất.

Cả ba nhớ rõ ràng là chúng đã đi ngay sau Milligan lúc ra khỏi hầm. Nhưng hiện gi, trong khi Milligan cao to, lưng thẳng, đội chiếc mũ cũ mèm, cái áo sờn vải, thì trước mắt chúng lại là một người đàn ông nhỏ thó, lưng còng, bụng phệ, đeo kính râm và đội mũ lưỡi trai màu vàng nhạt.

“Ông là ai?” Kate gào lên, gập người phòng thủ. “Ngài Milligan đâu rồi?”

“Ta đây,” người đàn ông trả lời vẻ mệt mỏi, kéo thấp kính xuống để lộ ra đôi mắt buồn màu xanh nước biển. “Ta đang hóa trang thôi.”

Lũ trẻ tỉ mẩn xem xét người đàn ông lạ. Quả đúng là Milligan. Bằng cách nào đó mà lũ trẻ không nắm bắt được, Milligan đã nhét chiếc mũ và cái áo khoác xuống dưới cái áo sơ mi đang mặc để tạo ra cái bụng phệ, lôi ở đâu đó ra cái kính râm và mũ lưỡi trai (cụ thể là từ đâu thì cả ba đều không tài nào đoán ra được); rồi cố tình rụt vai lại, cúi người về phía trước để trông thấp hơn. Quả là một sự thay đổi rất đáng nể.

“Ngài có phải là một ảo thuật gia không vậy?” Sticky hỏi.

“Chẳng là ai cả,” Milligan trả lời ngắn gọn. Rồi ông chỉ về phía ngôi nhà ba tầng bên kia đường, ngôi nhà với những bậc thang đá dẫn lên cửa trước. “Bây giờ thì ngồi đợi ở những bậc thang kia nhé, Rhonda sẽ ra đón các cháu ngay thôi.”

“Rhonda Kazembe sao?” Reynie hỏi. “Là bạn gái tóc xanh đấy ạ?”

Nhưng, ngay từ lúc Reynie còn chưa kết thúc câu hỏi của mình, cánh cửa căn hầm đã đóng sầm lại, và lần này thì Milligan biến mất thật sự.

“Các cậu có nghĩ là chúng ta sẽ được gặp một người nào đó bình thường vào ngày hôm nay không?” Kate hỏi.

“Tớ bắt đầu thấy nghi ngờ về điều đó rồi,” Reynie trả lời.

Rồi cả lũ băng qua đường, qua chiếc cổng dẫn vào ngôi nhà Milligan chỉ. Đó là một ngôi nhà cổ kính với các bức tường xây bằng đá xám, những khung cửa sổ to và rất cao, và mái nhà lợp ván đỏ đang rực lên dưới ánh nắng chiều như những mảng than hồng. Hoa hồng giăng kín các bức tường rào, và sừng sững ngay gần ngôi nhà là một cây du khổng lồ mà có lẽ nó còn nhiều tuổi hơn chính ngôi nhà nữa. Ở đó, những chiếc lá xanh đã bắt đầu ngả vàng, những sắc vàng đầu tiên của mùa thu. Bên dưới là khoảng sân nhỏ mọc đầy những cây tường vi, và mấy bậc thang đá, nơi lũ trẻ đang ngồi. Ngay cả mấy bậc thang này cũng bị tường vi bao phủ mất quá nửa. Một địa điểm tuyệt vời để nghỉ ngơi đấy chứ! Và thế là cả lũ ngồi bệt xuống những bậc thang dưới tán du, cảm nhận sự thanh thản sau một ngày mệt nhoài với thử thách.

Lúc này, Reynie mới hỏi, “Sticky này, tớ muốn biết thêm về bố mẹ cậu. Họ có biết...”

“Bọn mình đã nói về chuyện này rồi, cậu nhớ chứ?” Sticky ngắt lời rồi quay sang Kate, giải thích. “Cái cô Áo Vàng đó cứ vòng vo mãi khi Reynie và tớ nói cần gọi điện thoại. Reynie sợ cô giáo của cậu ấy lo lắng, và tớ cũng thế, tớ không muốn bố mẹ tớ lo lắng. Hóa ra là trước đấy cô ấy có gọi cho họ thật, nhưng cô ấy cứ kỳ cục sao ấy. Cậu có gặp phải chuyện này không?”

Đây không phải là điều Reynie định hỏi. Cái cậu muốn biết là bố mẹ Sticky có biết việc cậu ấy đã phải mất nửa buổi tối mới tìm ra Tòa nhà Thầy tu không. Vì một lí do nào đó, Sticky đã cố tình lảng tránh ánh mắt tò mò của Reynie.

“Tớ chẳng có ai để gọi điện cả,” Kate nhún vai. “Mẹ mất khi tớ còn bé xíu, bố bỏ đi khi tớ mới có hai tuổi.”

Giọng Sticky trùng xuống, “Tớ rất tiếc...”

“Không phải lo lắng thế đâu,” Kate dịu dàng. “Tớ thậm chí còn chẳng nhớ gì về họ nữa kia.” Trầm ngầm một lúc, Kate nói tiếp, “Thật ra, tớ vẫn còn nhớ một kỷ niệm vê bố.”

“Thế là cậu có nhiều hơn tớ rồi đấy,” Reynie nhận xét. “Kỷ niệm đấy là gì thế Kate?”

“À, hồi ấy, gần nhà tớ có một cái bể nước của nhà máy, và có lần bố đưa tớ đến đó bơi. Lúc đó tớ mới có hai tuổi thôi, nhưng đã là một tay bơi cự phách rồi. Hôm ấy nước hồ mát lạnh, thời tiết thì ấm áp, và tớ cảm thấy thật tuyệt vời. Tớ cười nói, té nước, đùa nghịch cho đến lúc mệt lả. Rồi bố tớ - giờ tớ chẳng tưởng tượng ra nổi khuôn mặt bố nữa rồi, dù tớ vẫn nhớ lắm cảm giác lúc đôi tay khỏe khoắn của ông nhấc bổng tớ ra khỏi hồ nước - điệu tớ lên vai để về nhà. Tớ đã hỏi bố là mình có được bơi ở đó lần nữa không, ông trả lời ‘Có chứ, con mèo Katie bé bỏng của bố’ Tớ nhớ lắm, bố gọi tớ là ‘Con mèo Katie’.”

“Và cậu đã không quay lại đó, đúng không?” Sticky hỏi, cậu bé đang càng lúc càng thấy xúc động trước câu chuyện của Kate.

“Điều tiếp theo tớ còn nhớ được là tớ đang ở trong trại trẻ mồ côi.”

Reynie lắc đầu. “Kate này, thật lạ nhé. Bố cậu có vẻ, ừm, ông ấy có vẻ…”

“Là một người tốt?” Kate hoàn chỉnh ý của Reynie. “Tớ biết chứ, và tớ cũng hay suy nghĩ về điều này lắm. Và tớ đoán là mọi người không phải lúc nào cũng đúng với dáng vẻ bên ngoài của họ. Hoặc là bố tớ đã thay đổi. Chắc là chẳng bao giờ tớ tìm được câu trả lời cả.”

“Tệ thật,” Sticky thì thầm mà chẳng buồn quan tâm xem hai người bạn của mình có nghe thấy không.

“Mà cũng chẳng sao”, Kate bỗng hào hứng. “Chuyện qua lâu rồi. Dù thế nào, tớ cũng đang có một cuộc sống tốt. Rạp xiếc cũng được lắm chứ.”

Reynie tròn mắt ngạc nhiên quay sang Sticky, nhưng Sticky có vẻ quá phiền muộn đến mức chẳng nghe thấy Kate nói gì. Reynie quay lại nhìn Kate. “Có phải cậu vừa nhắc đến rạp xiếc?”

“Đúng thế”, Kate vừa cười vừa trả lời. “Lúc bảy tuổi tớ đã trốn khỏi trại trẻ để chạy theo một gánh xiếc. Người ta đưa tớ quay lại trại trẻ, rồi tớ lại bỏ trốn, và cứ tiếp tục như thế thêm vài lần nữa. Cuối cùng, họ cũng phải đồng ý để tớ ở lại với gánh xiếc, để tớ khỏi gây thêm rắc rối nữa. Và tớ sống như thế trong suốt mấy năm qua đấy. Cuộc sống ở rạp xiếc cực kỳ thú vị, nhưng tớ nghĩ mình đã sẵn sàng cho một điều gì đó mới lạ. Cho nên, khi đọc được mẩu tin về kỳ thi này, tớ chào tạm biệt bạn bè và giờ thì tớ đang ở đây.”

Sửng sốt với những gì Kate kể, Reynie nói: “Thú vị đấy. Và nó - ý tớ là cuộc sống ở rạp xiếc ấy có giúp cậu được nhiều không? Có bao giờ cậu thấy nhớ bố mẹ mình không?”

Reynie vốn luôn tò mò về cảm giác của những đứa trẻ mồ côi khác. Cậu chẳng biết chút gì về bố mẹ cả, vì thế nên cũng chẳng có cảm giác nhớ nhung cụ thể nào. Nhưng, vào những ngày mưa, hay khi bị bạn bè châm chọc, hay những đêm khuya giật mình tỉnh giấc sau một cơn ác mộng, lúc thấy cần một cái ôm, hay một câu chuyện để dỗ đành giấc ngủ. Reynie không hẳn là nhớ bố mẹ mình, nhưng cậu đã mong có họ ở bên cạnh.

Còn Kate, rõ ràng cô bé chẳng có cảm giác đó. “Nhớ gì kia?”, cô bé nói mà chẳng gợn chút buồn. “Tớ đã nói rồi đấy, tớ chẳng có một chút ký ức nào về mẹ. Còn bố, ai cần đến một ông bố sẵn sàng bỏ mặc đứa con gái bé bỏng một mình? Tớ thà dành thời gian ấy cho những con voi và những chú hề còn hơn.” Kate nhíu mày. “Sticky, cậu sao đấy?”

Suốt câu chuyện, vẻ mặt của Sticky càng lúc càng buồn thảm, đôi mắt mỗi lúc lại buồn bã hơn, đến mức giờ khuôn mặt của cậu ấy hoàn toàn giống cái dáng vẻ buồn thảm của ngài Milligan khổ sở.

Reynie đặt tay lên vai Sticky, “Này, cậu không sao đấy chứ?”

“À... ừ.” Sticky lấp lửng. “Chỉ là, các cậu biết đấy, tớ thấy thương Kate. Thật kinh khủng khi phải chịu cái cảm giác chẳng ai cần đến mình.”

Kate cười (Reynie nhận thấy có chút gì đó không thoải mái trong nụ cười này) và nói, “Cậu không nghe tớ nói, phải không anh bạn thân? Tớ nói rồi mà, tớ đang có một quãng thời gian thú vị!” Rồi Kate tiếp tục thiết đãi hai cậu bạn những câu chuyện xung quanh cuộc sống ở rạp xiếc - nào là treo mình trên xà đu, rồi nhảy qua vòng lửa - cho đến khi Sticky đã dần vui trở lại, và chủ đề về những ông bố bà mẹ không còn xuất hiện trong câu chuyện của chúng nữa.