Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 1) - Chương 05 - Phần 2

Lần này thậm chí Constance cũng chẳng phản đối (có lẽ vì cô bé đã ăn no rồi), nên bọn trẻ được dẫn thẳng lên tầng ba, đi xuống một hành lang dài và cuối cùng là vào một căn phòng chất đầy các loại thiết bị. Quả là một đống hỗn độn kinh khủng. Trên chiếc bàn kê sát tường là một chiếc tivi, một chiếc radio, và một máy tính. Chỗ nào cũng la liệt nào dụng cụ, dây nhợ, sách vở, hải đồ, các cần ăng ten, bộ phận máy móc bị tháo rời, và rất nhiều những thứ đầu thừa đuôi thẹo khác. Gần như chẳng còn chỗ nào để đặt chân xuống nữa lúc bọn trẻ đi theo ngài Benedict - và theo sát là Rhonda và Số Hai - vòng qua cái tivi.

“Chú ý lắng nghe nhé,” ngài Benedict nói và bật tivi.

Ngay lập tức Reynie thấy nổi da gà. Cậu bé nhanh chóng nhận ra cảm giác quen thuộc ấy, nhưng trước đó chưa bao giờ Reynie để tâm đến. Lúc đó, tivi đang phát một chương trình tin tức. Chị phóng viên tóc đỏ, đeo hoa tai vàng sáng lấp lánh, đang đứng bên ngoài Nhà Trắng, nơi một đám đông tụ tập, giương khẩu hiệu, biểu ngữ, yêu cầu chính phủ phải làm điểu gì đó cho vấn đề Khẩn cấp.

“Họ đang yêu cầu thay đổi,” người phóng viên thuật lại, cử chỉ của cô mang đến cảm giác nghiêm trọng thực sự “và yêu cầu của họ như đang rơi vào những đôi tai điếc. Tổng thống nhắc đi nhắc lại cam kết là sẽ sớm làm gì đó. Trong khi đó Quốc hội...”

Constance ngáp dài. “Cháu chẳng nghe thấy gì lạ cả.”

Còn những đứa khác nhìn ngài Benedict. Nói như Constance là bất lịch sự, nhưng cô bé nói đúng.

Ngài Benedict gật đầu. “Giờ thì chú ý nhé. Số Hai, khớp Máy thu vào đi.”

Số Hai ngồi vào máy tính, rồi nhanh nhẹn gõ một chuỗi lệnh trên máy. Màn hình tivi bắt đầu nháy khiến những khuôn hình trở nên méo mó. Dù thế, bọn trẻ vẫn có thể nhìn thấy hình ảnh lượn sóng của cô phóng viên, nhưng giọng nói của cô thì nhỏ dần, nhỏ dần, và cuối cùng được thay thế bằng một giọng trẻ con.

“Cái quái gì thế?” Kate nói.

“Nghe tiếp đi,” Số Hai nói.

Đứa trẻ bí ẩn - nghe giọng nói có vẻ là một cô bạn cùng tuổi với Kate - nói với cái giọng đều đều, nặng nhọc và gần như không thể nghe thấy. Đầu tiên, chỉ lõm bõm nghe được vài từ rõ ràng một chút: “Thị trường... quá rảnh rỗi để... ngu muội...” Số Hai lại gõ thêm một số lệnh nữa; những yếu tố gây nhiễu giảm đáng kể, và lời nói của đứa trẻ bí ẩn đã rõ ràng hơn, từ chỗ gần như không nghe thấy giờ đã thành một giọng trầm đều đều.

“NGƯỜI MẤT TÍCH KHÔNG PHẢI LÀ BỊ MẤT TÍCH,

CHỈ LÀ ĐANG BỊ CHIA CÁCH.

KHỐI ÓC VẪN CÒN SUY NGHĨ - VÀNG CŨNG THẾ - NHƯNG ĐƯỢC BẢO VỆ CẨN THẬN...”

Giọng nói lại dần dừng lại. Số Hai khẽ cằn nhằn. Các ngón tay của cô lướt trên bàn phím, và cái giọng thầm thì, trầm và thấp của đứa trẻ bí ẩn lại cất lên.

“TRỒNG CỎ RỒI LẠI CẮT CỎ.

LIÊN TỤC BẬT TV.

ĐÁNH RĂNG VÀ DIỆT CHẾT NHỮNG CON VI TRÙNG.

NHỮNG QUẢ TÁO ĐỘC. NHỮNG CON SÂU ĐỘC.”

Cứ tiếp tục như thế. Giọng nói không vấp, không dừng, nhưng những câu từ gợi trí tò mò vẫn được truyền tải theo một tiến trình kỳ quái, đều đều. Trên màn hình gợn sóng giờ là hình ảnh một phóng viên đưa tin thời tiết với khuôn mặt tươi vui, nhưng giọng nói thì vẫn là giọng của một đứa trẻ.

Ngài Benedict ra hiệu cho Số Hai gõ gõ lên bàn phím máy tính. Giọng đứa bé nhỏ dần. Cô phóng viên dự báo thời tiết đang hứa hẹn bầu trời quang đãng vào buổi chiều.

Ngài Benedict tắt tivi. Bọn trẻ bất ngờ nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình trên màn hình tivi. Đứa nào cũng cau mày. Nhận ra điều này, vẻ mặt cả lũ chuyển sang ngạc nhiên, trước khi biến thành nỗi tò mò mãnh liệt.

“Ngu muội ở đây nghĩa là gì?” Constance hỏi.

Sticky, như vừa bị ai đó chọc vào lưng, lập tức trả lời, “Là làm cho ai đó bối rối hoặc trở nên ngớ ngẩn, khiến họ không thể nhận thức được, hoặc nếu không thì cũng trở nên không rõ ràng.”

Constance có vẻ bực tức.

“Có nghĩa là làm cho mọi thứ rối tung lên,” Reynie nói.

“Cảm ơn về định nghĩa trong từ điển của cháu, Sticky,” ngài Benedict nói, “và Reynie, cảm ơn vì đã đơn giản hóa nó.” Rồi ông khoanh tay và quan sát lũ trẻ. “Giọng nói đó được truyền đi từ tất cả các ti vi, radio và điện thoại di động trên thế giới. Dĩ nhiên nó có nghĩa là, hàng triệu bộ óc tiếp nhận nó. Và mặc dù, ở một phần quan trọng trong não người, những thông điệp này được nghe, được hiểu và được chú ý tới, và ở phần còn lại thì chúng lại không hề được biết đến. Nhưng cái Máy thu ta phát minh ra có khả năng phát hiện và dịch chúng, rất giống với việc Reynie đơn giản hóa định nghĩa của Sticky vài phút trước đây vậy.”

“Nhưng làm sao những người sử dụng những ngôn ngữ khác nhau lại có thể hiểu được giọng nói khi nãy ạ?” Kate hỏi. “Người ở Tây Ban Nha thì sao?”

“Thông điệp được gửi đi ở mọi ngôn ngữ. Ta để ngôn ngữ của Máy thu là tiếng Anh đơn giản là vì đó là ngôn ngữ của tất cả mọi người ở đây.”

“Điều này quả thật đáng sợ,” Sticky nói, căng thẳng quay nhìn phía sau. “Nó giống như là... như là...”

“Giống như có một người lạ thì thầm vào tai mình lúc ngủ?” ngài Benedict gợi ý.

“À vâng, cái đó đáng sợ hơn một chút đấy ạ,” Sticky nói.

Reynie lúc đó đang lắc lắc đầu vẻ rất băn khoăn. “Sao điều này lại xảy ra được ạ? Những thông điệp đó - dù chúng là gì đi nữa - được gửi đi như thế nào?”

“Nói một cách đơn giản,” ngài Benedict bắt đầu, “chúng di chuyển được là nhờ các tác nhân ngoại sinh...”

“Ngài Benedict, nói thế cũng chẳng đơn giản hơn chút nào,” Rhonda ngắt lời và nhìn Constance, lúc này mặt của cô bạn đã lộ rõ vẻ bực bội.

“Thứ lỗi cho ta. Cháu nói đúng. Đơn giản thế này nhé, những thông điệp đó ‘cưỡi trên lưng’ tín hiệu. Tivi, radio, điện thoại di động - tất cả những thiết bị này đều sử dụng những tín hiệu vô hình, và Người Gửi đã tìm ra cách để tận đụng những tín hiệu này. Những thông điệp này chẳng hề khó tính, chúng hài lòng với bất kỳ loại tín hiệu nào. Và Người Gửi cũng tìm ra cách kiểm soát tính kết dính của suy nghĩ.”

“Cái gì ạ?” lũ trẻ đồng thanh.

“Tính kết dính của suy nghĩ. Đó là cách suy nghĩ con người “để ý” tới tín hiệu vào dính chặt lấy chúng - giống như là những mảnh sắt dính lấy cục nam châm ấy. Chúng bị hấp dẫn bởi bất kỳ loại tín hiệu nào, kể cả ý nghĩ khác.”

“Có nghĩa là những thông điệp cũng chỉ là những suy nghĩ?” Kate nói.

“Đúng thế,” ngài Benedict trả lời. “Mặc dù ta sẽ không dùng từ chỉ là. Suy nghĩ có thể “chở” khá nhiều thứ đấy.”

“Nhưng vì sao Người Gửi lại sử dụng trẻ em để truyền thông điệp ạ?” Reynie hỏi.

“Một trò độc ác,” ngài Benedict nói, “nhưng cần thiết. Cháu biết đấy, chỉ suy nghĩ của một đứa trẻ mới có thể được truyền vào não của người khác một cách bí mật như thế. Vì một vài lý do nào đó, mà việc đó không hề bị phát hiện.”

“Không có gì là ngạc nhiên,” Constance tỏ vẻ không bằng lòng. “Chưa có một người lớn nào tin cháu có thể suy nghĩ.”

“Em ấy nói đúng đấy,” Số Hai xen vào bằng một giọng sắc lẹm. “Chẳng ai đoái hoài đến những gì một đứa trẻ nói, những gì chúng nghĩ còn ít được quan tâm hơn nữa.”

Rhonda vỗ vai Số Hai. “Số Hai có chút tự ti khi nhắc đến việc này. Lúc còn bé chị ấy thường hay bị lờ đi mà.”

“Cũng chẳng thay đổi được sự thật!” Số Hai cằn nhằn.

“Bình tĩnh đi,” Rhonda nói. “Em chỉ đùa thôi mà.”

“Rất tiếc, hạ đường huyết rồi,” Số Hai nói và vội vàng lôi ra một thỏi bánh granola[2].

[2] Một loại bánh ngũ cốc quen thuộc trong bữa điểm tâm của người Mỹ.

“Dù ở mức độ nào,” ngài Benedict tiếp tục, “ta vẫn tin là Người Gửi sử đụng những đứa trẻ như một cái máy lọc. Sau khi đi vào não của bọn trẻ, thông điệp gần như hoàn toàn không thể bị phát hiện ra. Trong khi suy nghĩ của người lớn thì ì ạch, vướng víu như một chú voi, thì suy nghĩ của một đứa trẻ lại bò vào não người nhẹ nhàng như một chú mèo rồi tìm chỗ kín đáo để ẩn nấp.”

“Sẽ không ai phát hiện ra ạ?” Sticky hỏi.

“Vài người có thể lờ mờ nhận ra những hoạt động trong não của mình,” ngài Benedict nói, “nhưng họ cũng đoán đó là một thứ cảm giác bất an về một vấn đề nào đó. Có thể họ sẽ nghĩ mình vừa có một sáng kiến, hoặc do uống hơi nhiều cà phê.”

“Cháu chưa bao giờ có cảm giác đó,” Constance nói. “Như là có chuyện đang xảy ra, nhưng cháu không hề biết vậy.”

Những đứa trẻ khác thì lắc đầu, có nghĩa là chúng cũng chưa bao giờ trải qua.

“Đó là vì các cháu coi trọng sự thật,” ngài Benedict nói. “Các cháu...”

Số Hai ngắt ngang lời ngài Benedict. “Thưa ngài, trước khi tiếp tục, sao ngài không ngồi xuống đi ạ? Ngài đứng như thế làm cháu căng thẳng lắm ạ. Có quá nhiều vật cứng ở xung quanh đây. Hãy nhìn chiếc ghế kìa, rồi cái bàn, cái tủ tivi, và những dụng cụ này nữa...” Quay nhìn khắp phòng, Số Hai chỉ cái này, cái kia, gần như chỉ tất tần tật những thứ cô nhìn thấy.

“Được được, Số Hai, ta ngổi đây,” ngài Benedict nói rồi ngồi xếp bằng xuống sàn nhà, ra hiệu cho những người khác ngồi xuống cùng mình. Bọn trẻ đặt bừa mấy cuốn sách, giấy tờ, và máy móc ra chỗ khác để tìm chỗ ngồi. Số Hai hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh.

“Các cháu biết đấy,” ngài Benedict tiếp tục, “mặc dù hầu hết mọi người đều quan tâm đến sự thật, nhưng dưới những tình huống cụ thể, hoặc khi bị thuyết phục - họ có thể bị làm cho sao nhãng. Thế nhưng, có những người tuyệt đối trọng sự thật, trong đó có trẻ em. Não của các cháu đang chống lại những thông điệp bí ẩn đó.”

“Có phải vì thế mà trong bài thi có câu hỏi về tivi và radio không ạ?” Reynie hỏi.

Ngài Benedict gõ gõ lên mũi. “Chính xác. Có thể các cháu thỉnh thoảng muốn xem một chương trình tivi nào đó, hoặc thỉnh thoảng có nghe đài, nhưng nhìn chung các cháu đều không thích hai thứ này. Là bởi vì não của các cháu không muốn bị lừa gạt nên cố gắng tránh tiếp xúc với những thông điệp đó.”

“Cháu vẫn chưa thấy, có gì nguy hiểm,” Constance nói vẻ chán nản. “Tóm lại là mọi người đang liên tục nhận được những suy nghĩ của một đứa trẻ và họ không hề hay biết điều này. Có vẻ chẳng đáng để sợ hãi.”

“Chúng ta chưa đến phần đáng sợ mà,” ngài Benedict trả lời với vẻ mặt nghiêm trọng.

“Ổ,” Constance nói.

“Tuyệt,” Sticky nói

“Có điều gì đó sắp xảy ra,” ngài Benedict nói. “Một điều gì đó khủng khiếp. Những thông điệp đó có liên quan, nhưng đây mới chỉ là bắt đầu. Điều sắp xảy ra sẽ tồi tệ hơn, hơn rất nhiều - một bóng tối ám ảnh kinh hoàng, cũng giống như những đám mây bão kia đang lan rộng ra che khắp cả bầu trời.”

“Gi-ì ạ,” Sticky lắp bắp, “nhưng nó là cái gì kia ạ?”

Ngài Benedict vần vò mái tóc vốn đã rối bù của mình. “Ta e là ta cũng không biết.”

Bọn trẻ nhắm nghiền mắt. Ngài ấy đang đùa sao? Ngài ấy không biết?

“À, ta nhìn thấy vẻ bối rối của các cháu,” ngài Benedict nói. “Đáng ra ta nên nói rõ là ta không biết chính xác.”

Rhonda lên tiếng. “Chúng ta có lý do để phải tin vào cái điều khủng khiếp đang đến kia đấy. Đó chỉ là...”

“Nhưng nếu có lý do để tin,” Constance chen ngang, “thì tại sao mọi người lại chỉ loanh quanh ở đây? Gọi cho chính phủ! Cảnh báo các cơ quan liên quan!”

“Một gợi ý hay đấy, Constance,” ngài Benedict nói (Reynie thấy rõ ràng là ngài ấy rất rộng lượng trước thái độ chẳng hề lịch thiệp của Constance). “Thực ra, ta từng là một cố vấn được tín nhiệm của một số quan chức cấp cao, trong đó có những người đứng đầu các cơ quan chính phủ. Nhưng mọi thứ đã thay đổi. Không chỉ các cơ quan này bị đánh đổ - và một số người tốt bị mất tích - mà có vài người vốn trước đây tin vào những nhận định của ta giờ lại nghi ngờ. Họ bắt đầu nhìn ta giống như một kẻ lập dị thân thiện, và có người còn nghi ngờ ngay chính ta nữa. Bây giờ ta làm mọi thứ trong bí mật.”

“Có phải ngài vừa nói ‘một số người tốt bị mất tích’?” Reynie hỏi mà trong lòng đang cầu mong mình đã nghe nhầm.

“Biến mất,” ngài Benedict nói. “Vài năm trước đây, lần đầu ta để ý thấy một số người có trách nhiệm biến mất, ta đã hỏi về họ. Nhưng những câu hỏi của ta - dù là hỏi ai - mà thật sự thì ta đã hỏi rất nhiều người - đều được đáp lại với một sự thờ ơ lạ lùng. Họ nói bảo những câu hỏi đó hết sức ngớ ngẩn. Bằng cách nào đó, họ đều tin rằng những cán bộ mất tích đó được chọn - được giao một công việc mới béo bở ở những nơi đầy nắng, có thể, hoặc nghỉ hưu sớm - mặc dù chả có bất cứ bằng chứng nào. Dường như chẳng ai thèm quan tâm xem những người đó đã đi đâu. Nhưng ai cũng biết, và vì thế hết lần này đến lần khác họ nói với ta rằng, ai cũng biết những cán bộ đó không mất tích. Không, không, cái cách lý giải đó thật là vô lý.”

Bọn trẻ điếng người. Các cán bộ của chính phủ mất tích và chẳng ai thèm quan tâm? Thậm chí chẳng ai buồn tin nữa cả?

Reynie thấy giọng mình cất lên đầu tiên. “Vậy đó là lý do vì sao ngài biết đến những thông điệp lạ đang tác động đến con người?”

Ngài Benedict gật đầu. “Khá đúng đấy, Reynie. Ít nhất đó cũng là một ví dụ.”

“Đợi một phút,” Kate nói. “Sao ngài biết được những thông điệp có liên quan đến việc này?”

“Vì đoạn ta nghe thấy từ Máy thu,” Reynie nói. “Người mất tích không phải là bị mất tích, chỉ là đang bị chia cách. Cậu không nghĩ là có liên quan à?”

“À đúng rồi nhỉ,” Kate nói, rõ là trước đó cô bé đã quên mất câu này rồi.

Constance có vẻ thất vọng. “Được rồi, vậy là chính quyền đang bị dồn vào tình thế khó khăn bởi những thông điệp bí ẩn kia. Nhưng làm thế nào họ che giấu được sự thật? Sao ngài không đưa cho họ xem cái Máy thu của ngài? Họ sẽ phải tin chứ.”

“Ta e là họ sẽ không tin,” ngài Benedict nói. “Chỉ riêng cái Máy thu là không đủ. Họ sẽ cho rằng những thông điệp đó do chính ta tạo ra, do chính cái Máy thu này phát ra. Ta không còn được coi là một nguồn thông tin tin cậy nữa rồi.”

Reynie bối rối. “Nhưng ngài Benedict, nếu ngài chỉ ra cho họ cách thức hoạt động - ý cháu là giải thích một cách khoa học - thì sao họ có thể không tin được? Và chắc chắn là ngài còn có thể mô tả lại những nguyên lý liên quan nữa mà?”

Ngài Benedict do dự. “Một gợi ý hay đấy, Reynie. Rất... Để ta xem nào. Nói thế nào được nhỉ? Ta không chắc chắn... Ừm...”

Số Hai ngắt ngang. “Điều mà ngài Benedict thấy khó khăn là ngay cả khi ngài làm như thế, cũng không ai tin ngài vì không ai có thể hiểu cả. Đó là điều bất lợi khi bạn là một thiên tài đấy - khi bạn hiểu được một điều không có nghĩa là những người khác cũng thế. Mà ngài Benedict lại quá khiêm tốn, ông chẳng muốn đưa chính mình ra để chứng minh điều đó đâu.”

“Ông ấy đã thử giải thích với một số người,” Rhonda thêm vào. “Nhưng tất cả họ đều nghi ngờ, chỉ có Số Hai và chị cùng một số ít trợ lý khác là những người duy nhất có thể hiểu được.”

Khuôn mặt ngài Benedict ửng đỏ vì bối rối. Ông ho lên một tiếng. “Như thường lệ, các bạn của ta, các cháu đánh giá ta quá cao rồi. Tuy nhiên, bản chất những gì các cháu vừa nói là đúng. Thật khó để tìm được ở các cơ quan công quyền một người chịu lắng nghe.”

“Nói cách khác, so với ngài, họ đều là những kẻ đần độn,” Kate bật cười.

“Đó có lẽ là cách diễn tả bất lịch sự nhất đấy, Kate,” ngài Benedict nói.

Không giống Kate, những đứa trẻ khác chẳng có tâm trạng để mà cười nữa. Những thông điệp bí ẩn đang được gửi đi khắp thế giới, những người tốt thì mất tích, không thể thuyết phục được chính quyền - và thế nào đó trẻ em lại liên quan đến tất cả những chuyện này. Viễn cảnh đó khiến cho thứ cảm giác sợ hãi sâu sắc, không tài nào nắm bắt được dần xâm chiếm suy nghĩ của bọn trẻ.

Constance, phản ứng của cô bé lúc này đã không còn thực sự khó đoán nữa, bực bội. “Được rồi, cháu hiểu rồi. Nhiều người biến mất không để lại dấu vết, và ai đó đang gửi đi những thông điệp bí ẩn, và không ai tin ngài về điều đó. Nhưng không phải chúng ta đang thực sự gặp nguy hiểm, phải không ạ?” (Mặc dù giọng nói của Constance đầy vẻ mỉa mai và tức giận, nhưng rõ ràng, ánh mắt liếc ngang liếc dọc của cô đã hé lộ nỗi sợ hãi.) “Ngài nói chúng ta đều đang gặp nguy hiểm... nhưng đó chỉ là phóng đại lên thôi, phải không ạ?”

“Ta rất tiếc phải nói ra điều đó, Constance,” ngài Benedict nói với vẻ mặt u ám, “nhưng ta không hề phóng đại, dù chỉ là một chút. Chúng ta đang gặp nguy hiểm, ngay cả lúc này.”

Và quả đúng như thế, bỗng nhiên quả chuông ở đầu cầu thang bắt đầu kêu lên, dữ dội.