Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 08 - Phần 2

Khi bọn trẻ đánh chén những hộp bánh, chúng cảm thấy có thêm động lực. Nếu ngài Benedict từng gọi về từ Lisbon thì chúng đã đi đúng hướng, và với sự giúp đỡ của thuyền trưởng, mấy đứa có thể mường tượng ra nơi tiếp theo sẽ đến trước khi đặt chân lên bến cảng. Đây quả là hy vọng lớn cho việc tìm thấy những người bạn của chúng trong hai ngày còn lại sau khi đến Lisbon.

Căn phòng lắc lư một lần nữa. Sự chao đảo không mãnh liệt như lần đầu, tuy nhiên Reynie lại trải qua một cảm giác tròng trành khó chịu, như thể những cơn sóng biển đã tìm được đường đi vào dạ dày cậu vậy. Từ bỏ cái bánh bạc hà đang gặm dở - việc ăn bỗng nhiên lại trở thành một ý tồi tệ - Reynie bắt đầu dọn cái bàn gập nhỏ sắp bị lật nghiêng. Kate chuyển những hộp bánh xuống sàn, vừa nhai vui vẻ vừa quyết định chọn cái tiếp theo. Cô bé dường như không bị ảnh hưởng bởi chuyển động của cabin.

“Vậy thì chúng ta sẽ nói chuyện về hành động của Constance chứ nhỉ?” Sticky lên tiếng (người cảm thấy vui khi Reynie buồn rầu từ bỏ những chiếc bánh). “Các cậu thấy đấy, bằng cách nào con bé biết Thuyền trưởng Noland ở ngoài trước khi ông ấy gõ cửa?”

Đôi mắt Constance long lên “Reynie nói đúng. Em đã mơ thấy. Quên chuyện đó đi.”

“Cứ cho rằng em mơ thấy đi,” Sticky tiếp “nhưng em đã báo trước việc có người đang đến.”

“Tớ nghĩ nó hẳn là sự trùng hợp ngẫu nhiên,” Kate nói, đứng lên giúp dọn bàn. Reynie gặp vấn đề về giữ thăng bằng và hai cẳng chân cậu cứ đập mạnh vào cái rương. “Cậu không nói gì sao, Reynie?”

Reynie ngã uỵch xuống sàn. Cậu cảm thấy choáng váng trong vài giây. “Tớ không chắc,” cậu thừa nhận, “Việc như thế từng xảy ra trước đây phải không, Constance?”

Constance nhún vai. “Có thể. Em không biết.”

“Điều đó nghĩa là gì?” Sticky bực tức.

Constance nghiêm mặt với cậu. “Nó có nghĩa là điều đó đã xảy ra trước đây, nhưng làm sao em biết có phải là trùng hợp ngẫu nhiên hay không? Không như một vài người, em không ngẫu nhiên nghĩ mình biết mọi thứ.”

Sticky bị chọc tức vì câu nói đó, cậu chà đi chà lại sạch bóng tấm vải của mình và không hề đáp trả.

“Tại sao em không kể cho bọn anh điều em biết?” Reynie hỏi nhẹ nhàng. “Ngài Benedict nói gì về... về món quà này của em?”

Constance nhìn chằm chằm vào đôi giày của mình, hiển nhiên đang nghĩ làm thế nào - hoặc không phải trả lời cậu, và sau vài phút Kate dường như sẵn sàng nhắc nhở cô bé về việc đó. Reynie đã nhận thấy sự rối loạn trong cảm xúc của Constance, liền cảnh báo Kate bằng một cái lắc đầu tế nhị. Cậu khá chắc rằng Constance không hề hay biết, nhưng ngay khi cậu vừa lắc đầu, cô bé liền nhìn cậu với một biểu hiện biết ơn. Điều này khiến Reynie băn khoăn, liệu cô bé có đọc được ý nghĩ của cậu. Sao chuyện đó có thể xảy ra? Giống như cô bé đã phát triển một khả năng trực giác hơn, giống ngài Benedict (và như chính Reynie, về vấn đề này). Nhưng sẽ ra sao nếu...

“Ngài Benedict không nói nhiều về nó,” Constance đáp, “ngoại trừ việc em có thể làm những bảng biểu và cặp tài liệu, nó có thể lý giải mọi việc hoặc... hoặc không.”

“Em nói ‘những bảng biểu và cặp tài liệu’ nghĩa là sao?” Sticky hỏi, cố gắng không quá khắt khe vào lúc này.

“Nó giống như... như...” Constance lắp bắp. “Em không đủ giỏi để giải thích mọi điều.”

“Ngài Benedict đã giải thích thế nào với em?” Reynie nói.

Contance nghĩ về điều đó. “Được rồi, ngài ấy đã nói rằng nó giống như khi nhìn vào một từ quen thuộc, người ta không đánh vần từng chữ. Mặc dù với những từ dài vẫn thế, vậy - một từ dài thực sự là sao, Sticky?”

“Epidemiological,” Sticky đáp.

“Vâng, nó giống như khi Sticky nhìn thấy từ đó trên giấy. Anh ấy biết rõ về nó nên không cần nhắc đến từng chữ cái một. Phải không, Sticky? Anh nhận ra nó bởi hình mẫu ở những chữ cái của nó. Em có thể làm như vậy, chỉ là với cặp tài liệu phức tạp hơn.”

“Giống như thế nào?” Kate hỏi.

Constance trở nên lúng túng. Cô bé bắt đầu cạy lớp sơn móng tay, và với âm lượng chỉ đủ nghe, cô bé nói: “Như là thời tiết, và, chị biết đấy, cặp tài liệu như thế.”

Reynie rướn đôi lông mày “Thời tiết?”

Constance lầm bầm rằng mình cảm thấy không được khỏe. Điều đó là sự thật (không chỉ mình cô bé, cả Reynie và Sticky cũng đang ôm bụng), nhưng những người khác sẽ không chịu trì hoãn, nên cuối cùng cô bé giải thích, “Em có thể dự báo trước thời tiết, hình như thế. Em cũng không nhận thấy mình có thể cho đến khi ngài Benedict chỉ ra điều đó. Ông bắt đầu hỏi em mỗi sáng liệu hôm đó có mưa không và em làm điều mà em cho là một lời đoán trước vớ vẩn - chỉ có điều mọi điều em đoán đều trở thành hiện thực.”

“Sao lại có thể?” Sticky hỏi.

Constance nhún vai. “Ngài Benedict nói tâm trí của mọi người thông báo những điều đó mọi lúc mặc dù họ không hề nhận ra. Những dấu hiệu, mùi, nhiệt độ thay đổi - tất cả mọi loại thành phần. Chúng ta thông báo nó mà không hề có ý thức nghĩ về điều đó. Ngài ấy còn nói chúng ta không chú ý tới nhưng não của chúng ta vẫn thu nhận và xử lý nó cùng lúc, và những... những sự quan sát này, hoặc bất cứ cách gì anh chị gọi về chúng, tạo nên một kiểu mẫu. Nên nếu anh chị giỏi với các kiểu mẫu, đó là cách mà ngài Benedict nói về em, anh chị có thể đôi lúc dự báo trước nhiều điều.”

“Bởi vì em nhận ra các kiểu mẫu,” Reynie nói “Anh hiểu rồi.”

“Nhưng anh không thấy điều đó giải thích chuyện đã xảy ra?” Sticky lên tiếng. “Loại kiểu mẫu nào có thể dự đoán trước thuyền trưởng sẽ gõ cửa?”

“Có thể tâm trí của Constance nhận ra âm thanh tiếng bước chân trên hành lang,” Reynie đáp, “hãy thuyết phục bản thân rằng những âm thanh riêng biệt vẫn luôn hòa trộn với những tiếng ồn lạ lẫm của con tàu. Phần lớn những âm thanh của con tàu phải theo cùng khuôn mẫu. Nó có thể đơn giản thế thôi.”

Sticky vẫn băn khoăn điều đó. “Suy rộng hơn, sự nhận ra những kiểu mẫu một cách vô thức,” cậu thì thầm. “Được rồi, tớ chịu thôi.”

“Nhưng cô bé có thể là một thầy đồng?” Kate hỏi. “Ngài Benedict có đề cập đến khả năng này không, Constance?”

Constance đã cảm thấy rất mệt mỏi, gắt lên, “Chị biết là có thể mà, Kate. Đừng hỏi những câu ngớ ngẩn nữa.”

Cô bé khoanh tay và nhắm mắt lại, phần vì cô bé khá say sóng, phần vì không thích bị hỏi - đặc biệt về những vấn đề riêng tư.

Trường hợp thầy đồng sẽ là một số phận tồi tệ để đương đầu, Reynie nghĩ, đặc biệt với những người còn quá bé như Constance. Viễn cảnh dường như hết sức phiền hà với cô bé. Nhưng Reynie đã không nói gì, vào lúc này cậu cảm thấy cực kì bị quấy rầy bởi cảm giác dạ dày chứa đầy thạch đang lắc lư.

Dù thế nào, Kate đành bất đắc dĩ cho phép vấn đề lắng xuống, “Chị sẽ dừng hỏi khi em bắt đầu trả lời, Constance. Ngài Benedict có bao giờ nói gì về việc em là thầy đồng hay không?”

Constance rên rỉ. “Nếu em kể, chị có thể dừng việc nói chuyện này không?”

“Đó là một trao đổi.” Kate nói.

Bọn con trai không nói gì cả. Cả hai đều khá buồn nôn và đang cố gắng giữ yên mình. Thật không may, mỗi phút trôi qua, cabin dường như rung lắc dữ dội hơn như thể chính căn phòng này là một cái võng đang đung đưa. Cái rương nhỏ của thuyền trưởng trượt về sau rồi ra đằng trước, đầu tiên đập vào cánh cửa sau đó là bức tường đối diện. Kate lấy cuộn dây của mình ra và buộc cái rương vào giường ngủ.

“Ngài Benedict đã nói điều này giống như em là một thầy đồng mặc dù em không phải,” Constance đáp, rồi nằm xuống. “Biểu hiện của mọi người và giọng nói của họ và, chị biết đấy, mọi điều về hành vi của họ - tất cả chúng tạo nên các kiểu mẫu, và tâm trí em dễ dàng nhận ra chúng. Nên đôi lúc em biết những điều chị không mong đợi. Như lúc này đây, trong trường hợp này. Em có thể nói chị đang chuẩn bị hỏi em một dẫn chứng.”

Kate mở to mắt. “Sao em biết?”

“Em không ngạc nhiên,” Constance đáp, “Có thể là điều gì đó trong mắt chị, có thể nó là việc chị luôn làm khi em cố gắng giải thích mọi thứ. Điểm quan trọng là con người cũng có kiểu mẫu. Nên mới có ví dụ ngớ ngẩn của chị.”

“Này, điều đó khá hay ho đấy!” Kate nói, không hề nhận thấy Constance không nghĩ nó thú vị tẹo nào. “Tất nhiên, nó không hoàn toàn bác bỏ khả năng em có thể đọc được suy nghĩ.”

“Vâng, đúng vậy,” Constance đáp, trở người. “Và đừng tranh cãi với em. Em buộc phải trả lời. Em cảm thấy càng mệt hơn.”

Lúc ấy Reynie và Sticky đang thở hổn hển gấp gáp và khao khát sự ổn định của đất liền. Dù thế nào, Kate vẫn cảm thấy khỏe, và khi cô ấy ngẫm nghĩ những điều Constance vừa nói, cô ấy chộp lấy những cái bánh khác trong hộp thiếc và bắt đầu đi tới đi lui trong cabin. Điều đó yêu cầu sự khéo léo lớn ở khả năng giữ thăng bằng, khi căn phòng không còn nhiều chỗ để đi lại và sàn phòng lại không chịu đứng yên. Cô ấy nói luôn mồm về toàn bộ câu chuyện, nhưng những cậu bé đã mất khả năng tập trung rồi.

Reynie cố gắng không nhìn cô ấy. Cậu nhắm hai mắt lại nhưng càng khiến cậu khó chịu hơn. “Kate, cậu có thể dừng đi vòng tròn không? Nó làm mọi thứ tệ hơn đấy.”

Kate dừng lại. “Làm điều gì tệ hơn? Ôi, cậu trông không được khỏe đâu Reynie! Và cả cậu nữa, Sticky! Tất cả các cậu đều buồn nôn ư?”

“Cậu nên là một bác sĩ,” Sticky rên rỉ.

Trước khi cả ba người ốm đó kịp rên rỉ nhiều hơn, cả cabin nghe như tiếng ao ếch, và Kate nhìn thấy hoàn cảnh của những bạn mình ngày càng tồi tệ, cô bé bắt đầu học đường nhanh nhất đến tất cả phòng tắm của con thuyền. (Đó là lý do tốt để trốn khỏi những tiếng thút thít và rền rĩ.) Khi nó xảy ra, con đường Kate học được chứng tỏ rất hữu dụng với những người bạn của cô. Nhưng họ đã quá mệt để cám ơn.