Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 13 - Phần 1

Chương 13: Cỏ đêm

Thông thường, cách tốt nhất để né tránh những câu hỏi đòi lời giải đáp là tự mình hỏi lại họ, và Reynie nhanh chóng thực hiện điều đó. “Chúng cháu hy vọng cô có thể nói cho chúng cháu biết nhiều hơn,” cậu nói với Sophie. “Chính xác chuyện gì đang xảy ra thế ạ?”

“Nhưng cô nghĩ các cháu nói không biết gì cả mà,” Sophie đáp, trông có vẻ bối rối.

“Chúng cháu nghe nói có rắc rối. Chúng cháu muốn biết đó là vấn đề gì thôi ạ.”

“Cô không chắc mình muốn thảo luận về chuyện này,” Sophie nói, bây giờ cảnh giác hơn. “Cô thấy không thoải mái.”

“Làm ơn đi cô,” Kate nói. “Làm ơn giúp chúng cháu.”

Sophie dò xét nhìn cô bé. “Giúp các cháu ư? Cô không thấy làm sao...” Cô ta thở dài và luồn tay lơ đãng vuốt tóc. “Được rồi. Các cháu không đọc báo à? Tuần trước có nhiều người muốn xem tài liệu này. Một vài người... những người đàn ông mặc vét, xách một cái túi xách nhỏ. Tiếng Anh các cháu gọi nó là gì nhỉ? Túi ngắn à?”

“Cặp tài liệu,” Sticky gợi ý rõ ràng.

“Phải rồi. Cặp tài liệu. Những người đàn ông này làm gì đó với nhân viên bảo vệ. Ông ấy bây giờ vẫn còn phải ở bệnh viện. Vài nhân viên bảo tàng tới giúp ông ấy. Họ bây giờ cũng đang ở bệnh viện. Mọi người đều ở đó ngoại trừ ba chúng tôi là không bị thương nhiều lắm. Dù bây giờ tất cả chúng tôi đều thấy sợ. Đã có một nhân viên bảo vệ mới, nhưng ông ấy cũng sợ.”

“Những người đàn ông đó đã đánh cắp các tài liệu này ạ?” Reynie hỏi, lo sợ trước câu trả lời của cô.

“Không, bởi vì bọn chúng là những tên ngốc,” Sophie chua chát nói. “Bọn chúng đòi xem các văn bản đó, và khi cô không trả lời nhanh - chúng rất đáng sợ, cháu hiểu không - chúng làm cô bị đau nên cô không thức dậy. Từ đó là gì nhỉ? Bất tỉnh à? Chúng làm cô bất tỉnh, khi cô mở mắt ra thì chúng vẫn đang cố tìm các tài liệu này. Chúng không hiểu cách sắp xếp của thư viện, cháu biết đấy. Chúng giận dữ và làm đảo lộn hết cả. Nhưng ngoài đường có tiếng còi hụ. Cảnh sát đang đến, nên mấy gã đó quyết định phải rời đi. Cô quát mắng khi chúng rời đi: ‘Đây là thư viện công cộng miễn phí! Tất cả những gì các người phải làm là yêu cầu thôi!’”

Sophie rùng mình. “Những gã đàn ông đó, chúng... chúng làm cô bị sốc,” cô làm mấy động tác bằng tay, như thể biểu diễn có thứ gì đó bay ra từ cổ tay cô, “bằng những tia điện nhỏ.” Sophie nhanh chóng che mắt. Chứng tỏ cô đang cố không khóc.

Constance bước đến gần bàn và lặng lẽ nói, “Cháu biết cảm giác đó như thế nào, cô Sophie ạ.” Những đứa còn lại nhìn cô bé vẻ kinh ngạc. Chúng đã nhất trí là không để lộ ra bất cứ thông tin gì về bản thân. Reynie đặc biệt kiên quyết nhấn mạnh rằng chúng không được tin tưởng ai và không tiết lộ gì cả. Bây giờ Constance lại thừa nhận thẳng thừng rằng chúng đã từng chạm trán những Gã Số Mười, và do đó chắc chắn phải có dính líu đến vụ việc không hay ho này. Sẽ là một phép màu nếu chúng không bị cảnh sát bắt giữ trong vòng một giờ nữa.

Sophie hạ tay xuống bán khoăn nhìn Constance, cô bé nói, “Những cái đồng hồ đeo tay đó và những tia điện. Cháu biết nó có cảm giác thế nào. Chúng cũng đã làm cháu bị sốc.”

Sophie nhìn Constance chằm chằm không nói gì. Rôi cô ta với qua bàn - phải với hết sải tay - nhẹ nhàng đặt bàn tay lên má cô nhóc nhỏ xíu. Constance, cô nhóc vốn thường xuyên nổi quạu dù chỉ bị vỗ nhẹ lên tay, lại không rụt lại hay thậm chí ngập ngừng nao núng. Cô bé đáp lại ánh nhìn đăm đăm thông cảm của Sophie với một vẻ mặt biết ơn và thông cảm từ cả hai phía.

“Cô rất tiếc,” Sophie nói. “Các bé, lại đây và ngồi xuống bàn đi nào. Cô không hiểu lý do thật sự của các cháu, nhưng cô sẽ mang cho các cháu xem những tài liệu đó.”

***

Cả bọn chọn một cái bàn đối diện ở cuối phòng, cách xa bàn của cô thủ thư, để chúng có thể thấp giọng nói chuyện mà không bị nghe lỏm. Sophie xuất hiện ra từ căn phòng phía sau mang theo một cuốn nhật ký và một chồng văn bản mỏng trong một cái phong bì bảo vệ. Cô đặt cuốn nhật ký lên bàn và cẩn thận lấy các văn bản ra khỏi phong bì. Trang trên cùng phủ đầy chữ viết tay, và không ngạc nhiên khi nó được viết bằng tiếng Hà Lan.

“Chúng ta có thể nói chuyện sau, nếu các cháu muốn,” Sophie nói. “Như là về thứ này...” Cô đặt một ngón tay lên tập tài liệu. “Cô phải đề nghị các cháu cẩn thận và giữ mọi thứ trong tầm mắt ở trên bàn, nơi cô có thể trông thấy nó từ bàn của mình. Giờ đó là quy định đấy, để bảo vệ các tư liệu. Cô hy vọng các cháu hiểu. Cái đó không có nghĩa là cô không tin tưởng các cháu.”

Lũ trẻ cam đoan với Sophie là chúng đã hiểu cả. Cô bèn quay lại bàn làm việc của mình, từ đó lũ trẻ có thể thấy cô đang hít thở chầm chậm để lấy lại bình tĩnh, thậm chí cả khi cô đưa mắt quan sát chúng ngang qua căn phòng với vẻ đầy trách nhiệm.

Cuốn nhật ký, là một quyển sổ cũ kỹ, méo mó, được làm từ chất liệu rẻ tiền, các trang được giữ lại với nhau bằng một cái gáy sách đang trong tinh trạng hư hỏng nặng. Các tư liệu kia cũng cũ kỹ ngang ngửa thế, tất cả đều ố vàng theo thời gian, một số trang giấy còn rã cả ra như vỏ củ hành tây. Sticky run rẩy kéo đống tài liệu lại gần mình. Những đứa còn lại quan sát với sự tập trung cao độ. Sticky một lần nữa dùng miếng vải lau đi lau lại cặp mắt kính, rồi hồi hộp cẩn thận, mở cuốn nhật ký ra.

Thật là một việc kỳ lạ khi quan sát Sticky đọc. Hai mắt cậu dường như không hề chuyển động, vì chúng như hấp thu vào những khoảng chữ viết lớn trong cùng một lúc. Cậu nhìn chằm chằm vào một trang giấy trong khoảng một hai nhịp thở, rồi lật giở nó. Nhìn chằm chằm, thở, rồi lại lật. Cứ như thế cuối cùng cậu ta đọc hết cuốn nhật ký chỉ trong vài phút và những tài liệu khác trong vài phút nữa. Nhưng Sticky ghi nhớ các thông tin với một tốc độ nhanh hơn cả việc cậu hiểu nó, một khi đã hiểu thỉnh thoảng cậu lại có khó khăn trong việc tóm tắt nó. Cậu có thể sẽ cần ít thời gian để sắp xếp trật tự các ý nghĩ của mình.

Chúng cần phải nhẫn nại, Reynie tự nhắc mình, bất chấp cảm giác những Gã Số Mười có thể xộc vào cửa bất cứ lúc nào. Cả bọn không được gây áp lực quá nhiều cho Sticky. Khi bị xáo động, Sticky có thể trở nên rất kích động và bối rối. Cậu ít bị ảnh hưởng xúc động trong tình huống như thế vào những ngày này, nhưng khả năng đó vẫn tồn tại. Nó là nguồn gốc lâu dài của sự ngượng ngùng ở cậu.

Dù vậy, ngay cả khi đang chìm đắm suy ngẫm thế này, Reynie vẫn nhận thấy một sự thay đổi phảng phất thoáng qua trong thái độ của Sticky. Ban đầu nó rất khó xác định. Sticky đánh dấu một điểm trong cuốn nhật ký bằng ngón tay cậu, rồi kiểm tra các trang tài liệu kia. “Những bức thư,” cậu ta nói, thoáng ngước lên liếc nhìn mọi người. Cậu nghiên cứu lá thư trên cùng với một vẻ rất nghiêm túc, sau đó đặt nó qua một bên và quay lại với cuốn nhật ký, lần đầu tiên điều chỉnh cặp kính của cậu bằng một cử chỉ gần như lơ đãng, vẻ học giả. Gần như thẫn thờ, nhưng không hoàn toàn. Giờ Reynie đã hiểu: Sticky đang cảm thấy tầm quan trọng của cậu ấy.

Reynie thấy rõ Sticky đang vật lộn với cái tôi của mình hơn bao giờ hết kể từ khi chúng gặp lại nhau ở trang trại nhà Kate, và Reynie sẵn sàng tha thứ cho những cơn hứng khởi phù phiếm của cậu bạn mình. Cánh con trai đã thông suốt cùng nhau rất nhiều rồi, và Reynie nghĩ mình hiểu lòng Sticky cũng như bất cứ ai - và biết rằng thực ra tấm lòng ấy cao quý và dũng cảm hơn hầu hết những người khác. Sticky là một đứa trẻ bất kham và sợ hãi, nhưng cậu luôn luôn làm việc đúng đắn đến cuối cùng, cho dù hoảng sợ thế nào đi nữa. Theo quan điểm của Reynie, điều này khiến cho Sticky trở thành một trong những người dũng cảm nhất mà cậu biết. Nếu có đôi khi cậu ta hành động như một con công đực vênh vang, thì điều đó cũng không phải là một trọng tội gì ghê gớm lắm, dù thế nào nói chung Sticky có thể trông chờ Kate và Constance nhổ hết lông mà.

Sticky nhanh chóng hoàn thành việc đọc tài liệu. Cậu mím môi và tháo cặp kính ra, bằng chứng cho thấy đang đắm chìm vào suy tư. Mắt nhìn đăm đăm vào khoảng không vô định, cậu lau cặp kính, đeo lại nó và hít vào một hơi thật sâu trầm tư xoa xoa cằm đúng y cái cách Reynie thường làm. Reynie đột nhiên cảm thấy bực phát cáu - quá mức không thể tha thứ được - nhưng cậu vẫn giữ mồm giữ miệng, quyết tâm không kéo Sticky khỏi việc suy nghĩ cho mạch lạc.

Tuy nhiên, Constance đã leo xuống khỏi ghế (hai cánh tay của cô nhóc quá ngắn từ chỗ ngồi không với sang Sticky được), bước qua tới cạnh cậu ta, vỗ đồm độp lên bàn tay cậu với tất cả sức lực có thể. Cô bé đánh vào cái tay Sticky đang dùng để xoa cằm, cơn đau từ cú vỗ của cô nhóc đồng thời với phản ứng giật mình là nguyên nhân khiến Sticky giật nảy tay lên, hất tuột cả cặp kính mắt. Kate nhoài người ra, trong chớp mắt đã bắt được nó - tay kia cô tóm lấy Constance đang chồm ra sau chuẩn bị đập một cú khác.

“Nghiêm chỉnh lại đi!” Constance rít lên khi Sticky chớp mắt nhìn cô bé cảnh giác với đôi mắt mờ mờ không rõ.

“Hãy thôi tìm kiếm vinh quang đi và kể cho chúng em câu chuyện đó ngay đi!”

Mặt Sticky chuyển sang sưng sỉa. “Anh đang cố nghĩ xem phải giải thích nó bằng tiếng Anh như thế nào,” cậu nói, nhận lấy cặp kính mắt từ Kate. “Em không thể đánh người ta như thế khi mình không được thỏa mãn, Constance ạ.”

“Coi chừng em đấy!” Constance quát, cố gắng thoát khỏi cái nắm tay của Kate.

“Constance,” Reynie lên giọng. Cậu hất đầu về phía bàn làm việc của cô thủ thư, nơi Sophie đã đứng dậy khỏi ghế và đang chăm chú nhìn lũ trẻ lo lắng. Cậu vẫy vẫy Sophie. “Ổn cả. Xin lỗi cô. Chúng cháu ổn cả mà.” Và khi Sophie với vẻ bán tín bán nghi, lại ngồi xuống, cậu thì thào nói. “Cả hai muốn đánh nhau thì để sau. Ngay bây giờ chúng ta phải giải quyết xong chuyện này đã, được chứ?”

Sticky và Constance trừng mắt nhìn nhau, nhưng cuối cùng cũng gật đầu, và Constance leo trở lại ghế ngồi của mình. Sau khi Sticky mất một lúc để lấy lại bình tĩnh (nhưng chỉ một chốc lúc này, và không có bất cứ lời tâng bốc nào), cậu kể cho cả bọn những gì đã biết: cuốn nhật ký của mẹ ngài Benedict, Anki Benedict, còn những lá thư kia là từ chị gái của bà ở Mỹ - dì của ngài Benedict - và từ một nhà bác học đồng sự, một người bạn thân của bố mẹ ông tên là Han de Reizeger.

“Cái tớ đọc được lý giải được rất nhiều điều,” Sticky nói. “Có điều, gia đình Benedict không mong đợi sinh đôi. Anki vài lần ám chỉ đến “đứa bé” sắp đến - một đứa bé, không phải hai đứa - và nếu là con trai họ sẽ đặt lên là Nicholas.” Sticky chỉ vào cái tên trong cuốn nhật ký. “Hiển nhiên, người dì sau đó đã thay đổi cách phát âm nó.”

“Rõ ràng rồi,” Constance nói bằng giọng chế giễu.

Sticky co rúm lại nhưng không đáp lời. “Không có ghi chép nào nữa sau cuộc sinh nở,” cậu nói, “Điều đó giải thích tại sao viện bảo tàng không biết về một đứa trẻ song sinh. Chỉ có ngài Benedict được liên lạc về các giấy tờ này, dù hiển nhiên lão Curtain cũng đã phát hiện ra chúng.” (Cậu cứng người, chờ đợi một nhận xét chế giễu khác, nhưng lần này Constance kiềm chế được.) “Những Gã Số Mười đó có lẽ không chạm được tay vào cuốn nhật ký này, nhưng bằng cách nào đó lão Curtain biết được thứ ngài Benedict tìm thấy trong đó, đó là bố mẹ họ có thể đã tìm ra một phương thức chữa chứng ngủ rũ...”

“Thật sao?” Reynie và Kate cùng đồng thanh thốt lên.

“Nó có thể,” Sticky nói, “nhưng không chắc chắn. Đó là một loài thực vật hiếm...”

“Một loài thực vật hiếm có!” Kate thốt lên.

“Ý anh muốn nói giống như ‘thực vật hiếm’ mà lão Curtain nhắc đến trong thư của ông ta ấy hả?” Constance hỏi.

Sticky mím chặt đôi môi. Thật khó giải thích điều gì khi cứ luôn bị chen ngang, nhưng Sticky cảm thấy cậu không thể nói vậy mà không bị kết tội là kiêu ngạo, tự cao tự đại.

Reynie đến cứu nguy cho cậu. “Xin lỗi, chúng mình để cậu nói nốt đã, đúng không? Tiếp đi, Sticky.” Đám con gái tiếp tục tập trung cao độ.

“OK,” Sticky đáp. “Chúng mình quay trở lại một chút nhé. Thực tế bố mẹ ngài Benedict cũng bị mắc chứng ngủ rũ. Không chỉ một người trong bọn họ, mà cả hai người.” Sticky lật giở lướt cuốn nhật ký. “Anki viết ở đây rằng bất chấp cảm giác bị nguyền rủa, bà và chồng bà cảm thấy được ban phước, bởi vì họ cùng chia sẻ với nhau tình trạng này - và cả sự hứng thú khoa học nữa - điều đó dẫn dắt họ gặp gỡ nhau.”

“Bà có nói đôi chút việc họ làm việc cùng nhau ăn ý như thế nào, người này luôn đánh thức cho người kia, vì hiếm khi họ cùng ngủ gục một lúc. Và tớ phải nói, cả hai người bọn họ đều xuất sắc đến kinh ngạc. Họ đang lên kế hoạch cho vài dự án nghiên cứu ấn tượng - tất cả những gì họ thiếu là tiền để bắt đầu - và họ đã xuất bản một số bài viết về chứng ngủ rũ. Nhưng những bài viết này không liên quan gì tới loài thực vật hiếm. Loài thực vật này không bước vào bức tranh toàn cảnh này cho tới gần cuối cuốn nhật ký - gần cuối đời họ, tớ cho là thế - khi họ nhận được lá thư này.”

Cẩn thận đưa ra cho cả bọn, Sticky đặt sang bên cạnh ba trang giấy từ tập thư ra (những lá cuối cùng, Reynie để ý thấy thế, có một khoảng hình chữ nhật bị khoét xuyên qua chính giữa). “Lá thư này là từ một người bạn khoa học gia của họ, Han de Reizeger. Ông ấy nói với họ rằng đã tìm ra những mẫu vật sống của translucidus somniferum - còn được biết đến như là cỏ đêm - trước đây được tin là đã tuyệt chủng.”

Sticky ngập ngừng. “Tớ... tớ có thể nói cho các cậu biết một chút về loài thực vật đó, nếu các cậu quan tâm. Ý tớ là tớ đã đọc về nó trước đây.”

“Dĩ nhiên bọn tớ quan tâm chứ, cậu ngốc thật đấy!” Kate vừa nói vừa cười. “Cậu đang đùa à? Loài thực vật đó là chìa khóa cho toàn bộ vụ việc này mà!”

“Ừ, chỉ là đôi khi...” Sticky nhún vai. “Được rồi. E hèm. Cỏ đêm xuất hiện trong một vài văn tịch cổ xưa, nhưng chỉ rất ít thôi. Nó được cho là có sức mạnh vô cùng - ngửi thoáng qua hương vị của nó cũng có thể khiến người ta chìm vào giấc ngủ - và nó thường được cho là một thứ trong truyền thuyết. Có một câu chuyện cổ của Norse về một bữa tiệc của cướp biển người Viking tràn vào một ngôi làng vào một buổi chiều đầy sương mù, và phát hiện ra mọi cư dân ở đó đều đang say ngủ. Không phải ngủ trên giường của họ, cũng không phải trên mặt đất mà là dựa vào tường, ngủ gục trên bàn làm việc - ở khắp mọi nơi.”

“Những người Viking mất nhuệ khí đến nỗi không dám chạm vào bất cứ thứ gì. Bọn họ đi xuyên qua làng, quan sát tất cả những người đang ngủ. Ở phía tít xa bên kia ngôi làng, bọn họ tìm thấy một cậu bé đang nằm cạnh một cái bếp lò đang âm ỉ cháy, tay nắm chặt một mảnh vụn nhỏ xíu của cỏ đêm. Rõ ràng cậu bé đó đã ném một ít vào bếp than, và khói của nó tỏa ra đã khiến mọi người trong ngôi làng ngủ hết, thậm chí dù nó chắc chắn chỉ là một làn khói nhẹ nhất thoáng qua. Các cậu có thể tưởng tượng nổi không?”

“Khói thiêng!” Kate nói, liếc mắt nhìn quanh xem những người khác có hưởng ứng câu đùa nho nhỏ của mình không. Dù vậy, bọn họ chẳng đáp lại, cô đành phải thừa nhận nó không đáng lặp lại, vậy nên chỉ nói thêm. “Đó là một loài thực vật đầy sức mạnh.”

“Quyền năng nhưng mong manh,” Sticky nói. “Cỏ đêm chỉ sinh trưởng trong những điều kiện nhất định và nếu nó bị di chuyển khỏi vùng đất đó, nó sẽ tan rã phân hủy ngay lập tức. Tớ biết được điều này từ cuốn nhật ký. Gia đình Benedict đã tìm thấy vài mẫu vật một năm trước - Anki không nói là ở đâu - và mang nó trở về phòng thí nghiệm của họ để nghiên cứu. Nó nhanh chóng hóa thành bụi, nhưng sau khi họ đã cảm thấy khá tin tưởng nó có thể chữa trị chứng ngủ rũ, hoặc ít nhất cũng loại trừ đi các triệu chứng xấu nhất. Loài cỏ đêm này chỉ cần trộn lẫn với mấy hóa chất khác - những chất hóa học thông thường mà bất cứ khoa học gia nào cũng dễ dàng thu được.”

“Và họ biết nơi có thể tìm thấy nó nhiều hơn,” Reynie nói. “Nhưng họ chưa bao giờ tạo ra được phương thuốc đó. Vậy có gì không ổn à?”

“Không may là họ đã gặp một cú sốc thất vọng,” Sticky nói. “Họ trở lại tìm kiếm một mẫu vật khác, thì phát hiện ra cái cây thứ hai này không phải cỏ đêm - nó chỉ là một sự bắt chước tài tình. Nó trông giống hệt cỏ đêm và sống đúng trong các điều kiện giống hệt như thế, nhưng hầu hết các thành phần hóa học quan trọng của nó thì lại khác. Nói cách khác, nó vô dụng. Thực ra còn tệ hơn cả vô dụng, bởi vì nó cứng rắn hơn và hung tính hơn, điều đó lý giải vì sao cỏ đêm quá hiếm hoi - nếu nó có còn tồn tại chút nào, thì giờ họ cũng đã vô tình hủy hoại mất mẫu vật duy nhất biết được. Họ tin loài thực vật giả mạo này - Anki gọi nó là ‘cỏ-phá-hoại’ trong nhật ký - đã xâm lấn môi trường sinh sống của cỏ đêm, trong quá trình đó giết chết tất cả cỏ đêm. Gia đình Benedict quay trở lại lùng sục nơi họ đã tìm thấy cỏ đêm lần trước, nhưng thật không may. Chẳng có gì ngoài cỏ-phá-hoại.”

“Vậy làm sao họ có thể chắc chắn là người bạn của họ - cái ông Han ấy - đã tìm được cỏ đêm thật?” Constance hỏi.

“Vợ chồng Benedict đã cho ông ta xem nghiên cứu của họ,” Sticky nói. “Nên Han biết phải tìm gì. Ông ta dùng kính hiển vi để nghiên cứu các loài thực vật ngay ở nơi tìm thấy chúng. Ông ta đã nghĩ tất cả chúng đều là cỏ-phá-hoại, và một số đúng là thế, nhưng hầu hết còn lại là cỏ đêm. Thực tế là rất nhiều, rất nhiều cỏ đêm.”