Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 18 - Phần 2

Suốt một khoảng thời gian, những dãy núi dường như chẳng hề nhích lại gần chút nào, càng về sau họ lại như nhích từng centimet thay vì từng mét, nhưng cuối cùng họ cũng chạy được tới những dãy núi. Lối vào hầm nằm ở tận cùng dãy núi giữa, và họ không gặp khó khăn gì để tìm thấy nó. Dưới ánh trăng một cái miệng tròn đen ngòm mở ra có thể thấy rõ ngay từ khoảng cách xa - nó trông giống một cái hang chuột dưới chân một chiếc chạn khổng lồ - và Milligan dẫn chúng thẳng tới đó. Cuối cùng họ cũng đến được gần (nhưng chưa quá gần), ông ra lệnh cho chúng ở yên đó trong khi mình đi lục soát trước. Lũ trẻ thụp xuống mặt đất đá - ngoại trừ Constance, mọi người đều đang thở hổn hển. Trong phút chốc, Milligan biến mất vào bóng tối đường hầm, bước chân ông không tạo ra một tiếng động nào.

“Đường quang,” ông nói khi trở lại. “Đường hầm hẹp, nên chúng ta sẽ phải đi theo hàng một. Đây, Constance, chú sẽ bế cháu, còn cháu có thể cầm đèn chiếu cho chú.”

“Nhưng cháu không muốn cầm...”

“Không sao. Chú sẽ cầm.”

Milligan dẫn đầu cùng với Constance trên lưng và những đứa khác theo sát phía sau. Các vách tường và sàn đá của đường hầm đều ẩm ướt và gồ ghề, nó quả là rất hẹp. Nhìn bề ngoài nó có vẻ được tạo thành bởi một mạch nước ngầm cổ xưa, mặc dù nhiều chỗ rõ ràng đã được mở rộng hơn bằng đục và búa. Reynie hình dung những người dân làng coi đây là đường di chuyển nhanh nhất để đến phần phía đông của hòn đảo. Những dãy núi này không phải quá lớn - thực tế, đối với núi thì chúng tương đối nhỏ - nhưng vẫn sẽ mất nhiều giờ để vượt qua nó hoặc đi vòng qua. Nhưng mặt khác, đường hầm xuyên thẳng qua sẽ nhanh hơn và ít đường đất hơn, và sau hai mươi phút Reynie đi theo Milligan đã ra đến không gian bên ngoài.

Họ xuất hiện gần chân ngọn núi, đủ dốc cao để có một tầm nhìn tuyệt vời tới một nửa phía tây hòn đảo - hay cảnh mặt trăng nhú lên qua dãy núi. Tuy nhiên, ngay cả trong bóng tối, họ vẫn có thể nhìn ra được cánh rừng ngay dưới con dốc và ngôi làng bị bỏ hoang phía tay phải dọc bìa rừng - hai dãy nhà đổ nát xiêu vẹo chạy dọc hai bên con đường mòn rộng rãi. Ngôi làng gợi Reynie nhớ đến các thị trấn ở biên giới mà cậu đã nhìn thấy ở phương Tây cũ, hoặc ít nhất là các con đường chính của các thị trấn đó, vì nó không có lề đường hoặc các công trình kiến trúc nhưng là một con đường dài, thẳng tắp và đột ngột kết thúc như lúc nó bắt đầu. Milligan rà soát các tòa nhà và khu vực xung quanh bằng ống nhòm. Ông lắng nghe cẩn thận. Rồi sau đó ông dẫn lũ trẻ xuống dốc đi vào làng.

Milligan không cần nhắc nhở chúng ở cạnh nhau. Kiến trúc cũ kỹ, mục nát của ngôi làng mang dáng vẻ hiu quạnh và buồn bã vào ban ngày, nhưng khi đêm đến chúng như những bóng ma vậy. Một số lượng lớn các nhà nghiêng nghiêng về phía đông, bị xô đẩy thô bạo như vẫn thế bởi những cơn gió tây hàng thập kỷ nay, và ba, bốn ngôi nhà mái đã bị bão tốc đi. Những mái nhà này đều nằm về hướng đông của các tòa nhà trước đó - những đống xà nhà mủn ra và những tấm ván lợp bằng gỗ mục nát.

Milligan và lũ trẻ đi xuống con đường mòn, nhìn trái nhìn phải nhưng cũng chú ý bước chân mình, vì con đường này - dù có thể từng có thời là đường lộ - bây giờ đã bị lún xuống và gập ghềnh, rất khó đi. Trong im lặng họ đi qua hết tòa nhà này đến tòa nhà khác, tất cả đều có những ô cửa sổ và khung cửa tối đen.

Đi đến khoảng nửa đường, họ tới chỗ cái giếng làng. Giống như vài ngôi nhà, mái giếng đã bị thổi bay trong một cơn bão - nó nằm lộn xộn trong một chảng cỏ dại, cách xa những cây cột trụ cằn cỗi được dùng để chống đỡ nó - và cái tời quay gỉ sét từng được treo trên miệng giếng đã bị rơi chỏng chơ sang một bên, vẫn còn thòng theo cái giỏ gỗ có đáy đã mục rỗng ra từ lâu bị bỏ rơi ở đó.

“Thật là xấu hổ,” Kate lẩm bẩm, vì rõ ràng nó từng là một chiếc giỏ tuyệt vời.

Milligan gọi một tiếng, cả nhóm liền tụ lại gần cái giếng để thảo luận sẽ làm gì tiếp theo. Không có dấu hiệu nào, không có ám hiệu chỉ dẫn ở bất cứ đâu, con người đã đi qua nơi này từ nhiều năm trước. Nếu ông Benedict để lại nhu yếu phẩm như lời nhắn đã hứa thì ông cũng không để lại bất cứ điều gì rõ ràng về địa điểm cả.

“Chỉ có một nửa các tòa nhà ở đây cho thấy không có động tĩnh gì,” Milligan nhận xét. “Số còn lại đều trong tình trạng đổ nát. Ngài Benedict phải biết Rhonda và ta sẽ không bao giờ để các con mạo hiểm đi vào những nơi nguy hiểm như thế, vậy nên chúng ta có thể loại chúng ra.”

“Vẫn sẽ còn lại rất nhiều nhà,” Reynie nói. “Chuyện này có thể mất thời gian.”

“Có thể những món đồ đó không ở trong một tòa nhà nào,” Kate nói, nghiêng người trên bức tường đá của cái giếng. Cô bé chiếu đèn soi xuống khoảng tối đen. Phía dưới chừng ba mươi mét cô bé thấy có thứ gì đó làm méo hình ảnh của mình, phản chiếu ánh đèn ngược trở lên. “Không, chỉ toàn nước. Ít nhất chúng ta cũng sẽ không chết khát nếu không thể tìm thấy các nhu yếu phẩm. Tớ không biết các cậu thế nào chứ chạy băng qua vùng đồng bằng kia làm tớ khát khô đây này.”

“Bị mất nước,” Sticky nói, giọng cậu có gì đó ồm ồm.

Reynie gật đầu. “Khô nẻ.”

Milligan lấy một cái chai bẹt từ trong áo khoác ra và ném cho Kate. “Ba ngụm mỗi đứa,” ông nói. Trong khi lũ trẻ chia nhau nước uống, họ tiếp tục bàn luận về cách tốt nhất để giải quyết, nhưng không ai có thể nghĩ ra được phương pháp nào hiệu quả mà đơn giản hơn là kiểm tra từng tòa nhà còn vững chắc cho tới khi bọn họ gặp vận may. “Ta e là phải làm thế,” Milligan nói, thu lại cái chai bẹt. “Chúng ta hãy đi ngược trở lại và bắt đầu từ phía đông. Chúng ta sẽ tiến hành một vòng xem sao.”

Tòa nhà đầu tiên Milligan nghĩ rằng đủ an toàn để đi vào là một ngôi nhà, bọn họ di chuyển thận trọng qua các căn phòng tối om của nó, tìm kiếm các manh mối. Xem xét từ số lượng những chiếc giường lạc mốt, họa tiết vặn thừng trên gác xép, nơi này từng là nhà của một gia đình lớn. Bây giờ nó là nhà của dơi và nhện, sàn nhà bằng gỗ bị phủ bụi dày đã hàng thập kỷ. Một cảm giác đau đớn dâng lên, bọn trẻ thấy ngài Benedict và Số Hai đã từng ở đây - những dấu chân của họ trên lớp bụi dày ở khắp nơi trong ngôi nhà nhưng họ có vẻ chỉ đi vòng quanh xem xét vì ngôi nhà rõ ràng trống trơn.

Họ tìm kiếm thêm hai ngôi nhà trống nữa trước khi bước vào một tòa nhà khác được xây bằng đá và vữa hồ gần trung tâm ngôi làng. Tòa nhà này, bề ngoài có vẻ giống một nhà kho hoặc kho thóc (một kho thóc lớn hơn cả cái ở trang trại của Milligan), gồm một căn phòng đơn lớn, không có cửa sổ và xà nhà khá cao. Điều khiến cho nó không bình thường là số lượng những thanh trụ gỗ dày, vươn lên từ sàn cho tới trần nhà, tạo ra một ấn tượng rất kỳ lạ về một cánh rừng bị vây kín trong những bức tường. Các cây trụ, nằm cách đều nhau khắp căn phòng, được đóng đầy những đinh móc lớn hẳn là từng được dùng để treo đồ. Trên sàn nhà bụi bặm, dấu chân của ngài Benedict và Số Hai đi lang thang quanh những cây cột từ bức tường này tới bức tường kia.

Kate chiếu đèn soi xung quanh. “Tớ không hiểu. Những cái móc này tất cả đều có cùng độ cao - tầm bảy mươi phân và mét rưỡi - nhưng để treo cái gì thấp thế chứ? Các cậu phải cúi khòng lưng xuống để lấy những thứ đó ra khỏi móc.”

“Có thể dân làng rất lùn,” Sticky nói.

Kate khịt mũi. “Một ngôi làng của người lùn ư?”

“Cửa ra vào và cửa sổ đều có kích thước bình thường,” Reynie nói. Cậu quỳ xuống để xem xét cặp móc treo kia, cả hai đều có nút thắt còn sót lại của dây thừng. “Tớ không nghĩ những người lùn sống ở đây.”

“Tớ chưa bao giờ nói bất cứ điều gì về người lùn cả,” Sticky bực mình nói.

“Dù thế nào đi nữa,” Kate nói, “nó vẫn là một nơi kỳ quái.”

“Nó cực kỳ cứng cáp,” Milligan nói, chiếu đèn lên những thanh xà, rồi lên cánh cửa bằng gỗ nặng nề với những chốt và bản lề bằng sắt. “Là tòa nhà vững chãi nhất trong ngôi làng này. Mái nhà sẽ vẫn chắc cho dù tường có đổ xuống.”

Reynie đứng đó. “Cháu nghĩ đây là một nơi tránh bão. Đó là lý do vì sao nó không có cửa sổ và quá vững chắc. Có đủ cột chống và móc để mắc hàng tá võng. Nếu một cơn bão tồi tệ thổi đến - hiển nhiên là có những cơn bão khủng khiếp ở vùng này rồi - mọi người trong làng vẫn có thể ngủ ngon lành.”

“Một nơi ẩn tránh của cộng đồng. Điều đó quả có ý nghĩa,” Sticky nói, cố gắng nghe cho có vẻ tán thành, dù thực sự cậu ta thấy thất vọng vì bản thân không nghĩ ra được.

Trái với tò mò, nơi ẩn tránh này đều trống không, cả nhóm lại tiếp tục di chuyển. Tòa nhà tiếp theo họ tìm kiếm là một ngôi nhà khác, cũng không có dấu hiệu nào của bạn bè họ ngoại trừ những dấu chân trên cát. Căn nhà sau đó còn không có cả dấu chân, Sticky liếc nhìn sàn nhà một cái liền nói, “Chúng ta đừng phí thời gian ở đây nữa. Họ không vào ngôi nhà này đâu.” Rồi cậu ta quay ra.

Reynie tóm lấy cánh tay cậu bạn. “Thực ra, Sticky ạ, tớ khá chắc đây là nơi cần tìm đấy.” Cậu chỉ vào cái sàn gỗ sạch bong. “Có thể họ đã đến đây và đã quét dọn nó.”

***

Kate phát hiện ra nhu yếu phẩm trong một căn phòng xép trên lầu, cùng với một cây chổi tạm thời mà ngài Benedict và Số Hai đã cải biến ra từ một cây gậy và một mớ cành cây nhỏ. Ngôi nhà hiển nhiên đã từng thuộc về một người làng phát đạt giàu có nhất, không thì cũng là một thợ mộc lành nghề và nhiệt tình nhất, vì nó có hai tầng được xây rất tốt, mỗi tầng lại có mấy phòng có cánh cửa ra vào và cửa chớp còn nằm ngay ngắn ở trên khung. Ngài Benedict và Số Hai chắc hẳn đã nghĩ đây là nơi hoàn hảo cho cả nhóm làm nhà ở và là đại bản doanh tạm thời.

Căn phòng xép đó nằm ở cuối một hành lang ngắn, Kate đứng trước cánh cửa mở hé của nó, soi đèn chiếu lên các giá đồ. Cô bé tìm thấy các nhu yếu phẩm và gọi những người khác, họ còn đang tìm kiếm quanh phòng ngủ và giờ đang chạy tới.

Một cái chặn cửa ngăn cánh cửa phòng xép mở rộng hẳn, nên phải va chạm, chen chúc đáng kể, Reynie và Constance mới đến được bên Kate túm tụm nhìn vào. Milligan thì đơn giản chỉ đứng sau và nhìn qua đầu chúng là được, trong khi Sticky tụt đằng sau, quá ngượng ngùng không dám chen lên tìm chỗ. (Cậu chàng tự thấy mình thật ngu ngốc đối với chuyện mấy dấu chân kia, cậu nghĩ thế nên dù không ai trêu chọc - thậm chí cả Constance cũng không - nhưng cậu vẫn cảm thấy xấu hổ khủng khiếp.)

“Họ hẳn đã phải làm vài chuyến mới mang được số hàng này vào đây,” Kate nói trong khi nhìn tất cả số nhu yếu phẩm. Căn phòng xép này khá nông, chỉ hơn một bức tường kê giá sách một chút, nhưng những giá này cất một lượng nước dự trữ, đồ ăn đóng hộp, quả hạch, quả khô, sữa bột đáng kể, và - quan trọng nhất - bánh quy giòn graham, những thanh chocolate, kẹo xốp để nướng trên lửa. (Nhìn thấy nó khiến lũ trẻ chảy nước miếng, chúng đã không được ăn gì hàng giờ đồng hồ rồi.) Thêm vào đống đồ dự trữ này còn có hai chiếc đèn xách tay chạy pin và đủ túi ngủ thêm một số chăn thừa cho mọi người nữa.

Có khả năng manh mối kế tiếp sẽ được giấu trong số đồ này, nên sau khi đã uống no nước và ăn vội vàng nhồm nhoàm ít thức ăn, họ bật đèn xách và bắt đầu đi xem qua những thứ còn lại trong phòng xép. Đó là một nhiệm vụ khó chịu vì cánh cửa phòng xép không mở rộng ra được, khiến Kate thật khó chuyền các món đồ ra mà không bị đụng khuỷu tay. Khi cô bé đã bị va đụng đến lần thứ ba, cô đề nghị họ tháo bỏ cánh cửa khỏi bản lề để làm việc dễ hơn.

“Quên cái bản lề đi,” Reynie nói.

“Anh ấy tìm thấy nó rồi!” Constance reo lên, cô bé vẫn đang quan sát nét mặt cậu.

“Thấy gì cơ?” Milligan hỏi. Ông không thấy Reynie nhúc nhích một phân nào ngoại trừ liếc mắt nhìn các khung cửa xung quanh.

Reynie ngừng lại, chớp chớp mắt - cậu vẫn không thể quen với năng lực tri giác của Constance - rồi lắc đầu và quỳ xuống cạnh cái chặn cửa. “Đây là cái chắn cửa được đặt một cách vụng về nhất trong lịch sử, mọi người không nghĩ thế sao? Chưa nói đến nó là cái duy nhất trong ngồi nhà này. Nó làm tớ nhớ đến cái bàn trong phòng khách sạn - và tớ nghĩ nó có ý nghĩa nào đấy - Đây, Kate, giúp tớ cạy nó lên với.”

Kate mở con dao quân dụng Thụy Sĩ của mình và cạy cái chặn cửa lỏng ra. Hóa ra nó là một miếng gỗ rỗng với một lời nhắn kẹp bên trong có ghi:

Nếu các cháu tìm đến chỗ chúng ta sớm,

Tìm bên dưới mặt trăng sinh đôi của thị trấn.

“Một câu đố khác,” Sticky nhíu mày nhăn mặt nói. “Tớ đang hy vọng có một tấm bản đồ.”

“Có lẽ manh mối tiếp theo là một tấm bản đồ,” Kate nói. Cô bé đọc manh mối lần nữa. Hoặc có lẽ có một lối đi bí mật bên dưới mặt trăng sinh đôi này.”

“Hoặc một dấu vết bắt đầu từ địa điểm đó,” Reynie gợi ý.

“Cho dù là gì đi nữa,”Constance nói, “chúng ta cũng khẩn trương lên, đi tìm nó đi. Cái mặt trăng sinh đôi này là gì thế?”

Tất cả cùng nhìn sang Sticky, cậu ta nhún vai vẻ lấy làm tiếc. “Tớ chưa bao giờ nghe nói đến thứ như thế.”

“Ngài Benedict có anh em sinh đôi,” Reynie nói. “Có lẽ ông ấy muốn ám chỉ bản thân như là ‘cặp sinh đôi của thị trấn’. Nhưng thế thì mặt trăng đó sẽ là gì?”

Không ai biết.

“Nó có lẽ trực tiếp hơn thế,” Milligan nói. “Có thể một trong số các tòa nhà này từng là quán rượu hoặc nhà trọ. Mặt Trăng Sinh Đôi nghe có vẻ giống tên một nơi như thế. Chúng ta nên xem xét chung quanh để tìm một biển hiệu cũ, một tấm biển khắc trên cửa, hoặc biểu tượng nào đó như thế.” Ông bắt đầu hướng xuống cầu thang, nhưng nửa đường lại dừng lại và ngẩng đầu.

Lũ trẻ di chuyển theo sau ông, nhưng Milligan ném cho chúng một ánh mắt cảnh cáo và đưa một ngón tay lên môi. Nếu biểu hiện của ông không làm chúng đông cứng lại tại chỗ thì âm thanh hỗn loạn chúng nghe thấy lúc này cũng làm được điều đó. Tiếng những bước chân lớn dần, rồi dừng lại. Có ai đó đang ở trước cửa nhà. Milligan lấy ra khẩu súng gây mê.

Đột nhiên Constance thở gấp. “Chú Milligan, đừng! Đó là...”

Ngay khi cô bé kêu lên thì cánh cửa mở bật ra, một bóng người bổ nhào vào tiền sảnh, chỉ nhờ lời cảnh cáo của Constance và phản ứng nhanh của Milligan mới tránh cho kẻ xâm nhập kia một mũi tên vào vai.

“... Số Hai!” Constance nói nốt.

Kate chiếu đèn rọi xuống cầu thang, và quả thật đó là Số Hai đang ngước lên nhìn bọn họ từ chỗ cô bị ngã nhào đang chống hai tay hai chân nhỏm lên. Cô nheo mắt vì ánh đèn chiếu với đôi mắt thất thần, hoang dã.

“Constance à?” cô nói, vì Constance là người gọi tên cô. “Có phải tôi - tôi đã đến nhà rồi không? Và ở đây tôi...” Số Hai cười yếu ớt. “Ở đây tôi đã nghĩ... Ôi, Constance, tạ ơn Chúa! Tôi đang mơ mình vẫn còn ở trên hòn đảo kinh khủng đó!”