Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 02 - phần 2
Lũ trẻ rất thích được ở ngoài trời, nhưng để ra được đó là cả một vấn đề. Đầu tiên chúng phải xin phép người lớn, người này phải kiểm tra cùng với một người khác để xác nhận tín hiệu báo động; bởi vì tín hiệu được thay đổi gần như hàng ngày và tất cả các cửa chính và cửa sổ ở tầng dưới đã được chằng dây cẩn thận. (Mê cung dưới tầng một của ngài Benedict đã được sửa chữa thành căn hộ cho nhà Washington và nhà Perumal, và hệ thống báo động - với tín hiệu báo thẳng đến trụ sở cảnh sát và lính gác của chú Milligan - cũng hỗ trợ rất lớn cho việc phòng thủ). Sau đó chúng phải chờ trong khi người lớn hội ý với lính gác bên ngoài, và mãi đến lúc đó chúng mới được tận hưởng một chút khí trời.
Lũ trẻ thường thích chơi ở sân lớn, ở đó có nhiều chỗ chạy nhảy hơn, và nhất là khi Kate muốn chơi trò nhào lộn. Tuy nhiên khi ông Bane ở đó thì lại khác. Ông Bane là một nhân viên bảo vệ khó chịu, cộc cằn với mái tóc màu hoa râm. Dường như ông ta tin rằng trẻ con nên được nhốt trong hộp cho đến khi chúng thực sự trở thành người lớn. Khi ông Bane ở sân sau thì lũ trẻ ra chơi ở sân trước.
Hôm nay lại đúng là ngày ông Bane nghỉ việc, và ngay sau khi lũ trẻ chật vật với đống quần áo, mũ nón xong xuôi, Reynie cũng giúp Constance đeo găng tay xong (cô bé suýt khóc khi phải nhét các ngón tay đúng vào vị trí), cả lũ liền chạy ào ra khỏi cửa sau. Chúng gặp ngay cô Plugg, một nữ bảo vệ khỏe mạnh và to cao đang đi quanh trên thảm cỏ phủ đầy sương giá để giữ ấm.
“Chào các cháu,” cô Plugg gật đầu nói khi bọn trẻ bước xuống bậc cầu thang. Đầu cô to tướng và vuông vắn lạ thường, trông giống một khối gạch thì đúng hơn, và khi cô gật đầu, Reynie luôn có cảm giác lo lắng là nó đang chuẩn bị rời ra khỏi hai vai cô.
“Kate. Reynie. Constance. Ừm... Tacky? Cô xin lỗi, cô quên tên cháu mất rồi. Sticky ạ.”
“Đúng rồi!” Cô Plugg nói rồi đập các ngón tay vào nhau. “Chào cháu, Sticky. Cô hứa sẽ không quên nữa đâu.” Nhường lại sân chơi cho lũ trẻ, cô đứng vào vị trí canh gác trên đầu cầu thang, và không may làm sao, ở chỗ đó, Sticky có thể nghe thấy tiếng cô lẩm bẩm một mình “Sticky... Sticky... ừm. Tay lúc nào cũng táy máy cặp kính... nghịch vớ vẩn! OK, hay nghịch vớ vẩn. Tốt rồi. Mình đã nhớ.”
Bụng Sticky sôi lên như biểu tình phản đối khi bước ra khỏi bậc cầu thang. Cậu đã quá quen với việc ở bên các bạn, vậy nên giờ đây cậu cảm thấy chao đảo - và xấu hổ ghê gớm - khi nghe lỏm được người khác nói về mình. Hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh và nhìn theo làn khói cho đến khi nó tan loãng trong làn không khí lạnh, Sticky đưa ra một quyết định đột ngột và bí mật.
Trong khi đó, Kate chuẩn bị đặt cái giỏ xuống, nhưng Reynie đã kịp tóm lấy cánh tay cô. “Đừng chơi nhào lộn vội,” cậu thì thào, và nhìn về phía Sticky và Constance, cậu nói, “Bọn mình đi dạo một chút đi.”
Ánh nhìn của cậu không để sót một ai. Sticky và Constance lén lút ngoái lại nhìn còn đôi mắt Kate nheo lại khi cô bé buộc chiếc giỏ vào quanh hông và mở nắp phụ để thò tay vào giỏ dễ hơn. Cả lũ bước theo Reynie khi cậu đi vòng quanh sân.
Không ai nói gì. Một âm thanh duy nhất là tiếng bước chân lạo xạo của chúng khi dẫm lên lớp cỏ đã đóng băng. Khoảng sân được bao quanh bởi một bờ dậu có gai, bên dưới là một hàng rào kim loại cao nhọn đầu. Ở cuối sân, Reynie đứng nhón chân để ngó qua hàng rào, và nhìn thấy một con đường nhỏ bên trên. Rõ ràng có điều gì đó đã làm cậu hoảng sợ.
“Đoán thử đi!” Cậu thì thầm. “Ông Bane cũng không có mặt ở đây trong ngày nghỉ việc cuối cùng. Cậu nhớ chứ? Đầu tiên bọn mình quanh quẩn ở sân trong, sau đó bọn mình quay lại đây chơi bóng rổ còn gì.”
Constance nhún vai. “Vậy thì đã sao? Ông Bane có bao giờ ở đây trong ngày nghỉ việc đâu.”
Kate thở hổn hển không tin. “Em không thấy ngạc nhiên khi nói điều đó à?”
“Em chưa bao giờ nghĩ về chuyện đó cả!” Constance cao giọng nói. “Thậm chí em còn chưa bao giờ... “
“Suỵt!” Reynie nói và liếc mắt e sợ nhìn cô Plugg. “Được rồi, Constance. Mỗi người chúng ta đều có hàng tỉ thứ để lo. Nhưng nếu như điều em nói là đúng...”
“Đúng là thế đấy,” Sticky nói, tay đã kịp lần tìm chiếc khăn lau kính. Cậu khoanh tay lại trước ngực và nói. “Đúng ra tớ đã phải để ý chuyện đó. Ông Bane lúc nào cũng nghỉ vào một thời gian nhất định.”
“Đúng như em vừa nói!” Constance hớn hở nói. “Nhưng chuyện là thế nào cơ?”
“Chuyện không thể là do trùng hợp ngẫu nhiên được,” Reynie nói. “Bảo vệ làm việc theo một lịch trình xoay vòng, với những ngày nghỉ khác nhau trong tuần. Khó có chuyện ngày làm việc vặt nào cũng trùng với ngày nghỉ việc của ông Bane.”
“Đúng là rất khó,” Sticky nói và tính toán các con số trong đầu. “Thật ra là...”
“Ý của các cậu,” Kate xen vào trước khi Sticky kịp sa đà vào phần giải thích về tỉ lệ toán học, “là có chuyện gì đó đang xảy ra. Cậu nghĩ sao, Reynie? Có phải ngài Benedict không tin ông Bane không? Ngài không muốn ông ta phát hiện ra ngày làm việc vặt ư?”
“Ngày này cũng đâu có được tiết lộ cho những người canh gác ngôi nhà,” Sticky chỉ ra. “Tại sao lại phải cẩn thận hơn với ông Bane?”
“Có thể là vì ông Bane có tật thóc mách hơn người khác,” Constance góp ý.
“Biết đâu đấy,” Reynie nói. “Nhưng bọn mình cũng nên cân nhắc đến khả năng là ông Bane biết điều đó. Giả như ông ta biết được rằng ngày làm việc vặt sẽ rơi vào hôm nào, rồi ông ta xếp lịch để được nghỉ vào đúng hôm đó thì sao?”
“Làm thế nào mà ông ta phát hiện ra được?” Constance hỏi. “Và tại sao ông ta lại làm thế?”
Reynie lắc đầu. “Anh không biết. Nhưng anh có một linh cảm không hay chút nào.”
Điều này làm cho lũ trẻ cảm thấy cực kỳ khó chịu, chúng đứng yên lặng không nói gì suốt một lúc lâu, cố hình dung xem ông Bane có ý đồ gì không. Chúng chưa bao giờ có cảm tình với ông ta, nhưng cho đến bây giờ chưa có ai từng nghi ngờ rằng ông ta phản bội, hầu hết là vì chúng cho rằng ngài Benedict rất biết nhìn người, ngài sẽ không để một kẻ không đáng tin canh gác ngôi nhà đâu.
“Các cậu biết không?” Kate nói, khuôn mặt bừng sáng. “Nếu chúng ta để ý đến điều này thì chắc chắn là ngài Benedict cũng đã để ý. Biết đâu bác ấy là người đứng sau chỉ đạo thì sao? Vậy thì tí nữa bọn mình thử hỏi bác ấy xem, đừng đứng đây lo nghĩ linh tinh nữa. Bọn mình đang lãng phí thời gian tự do của mình đấy!”
Những người còn lại không được vô tư như Kate, nhưng cô bé nói đúng. Vậy nên lũ trẻ đồng ý không bàn luận đến chủ đề đó nữa, và sau một hồi, bọn chúng cũng bắt đầu gạt bỏ hết nỗi lo sợ của mình. Chúng còn có thể giả vờ tỏ ra nhiệt tình khi Kate huýt sáo gọi con Madge từ mái hiên xuống và giục chúng vuốt lông con chim.
Madge (tên đầy đủ là Nữ Hoàng) là một chú chim thông minh, nó rất quyến luyến Kate và khôn hơn rất nhiều so với các con chim ưng khác. Bọn con trai đã chỉ ra - theo cách nhẹ nhàng nhất có thể - rằng cái mỏ khoằm đầy dữ tợn và vẻ bề ngoài đầy lạnh lùng, nguy hiểm của loài chim ăn thịt đó khiến cho người ta không dám vuốt ve, song họ có thể tránh gặp nguy hiểm nếu giữ một khoảng cách vừa phải với nó. Nhưng vì sợ Kate bị tổn thương trước suy nghĩ đó và không muốn bị bỏ lại một mình nên bọn con trai cũng cố gắng tỏ ra thân thiện với Madge và Constance.
Ngày hôm nay ba đứa trẻ đã thành công trong việc chạm thử vào lông con chim và giả vờ khen ngợi nó trước khi đi xuống bậc cầu thang, sau đó tâm trạng chúng tốt hơn rõ rệt v trước đó nỗi sợ bị móng vuốt của con chim cào đã choán hết tâm trí chúng. Và khi nhìn Kate và Madge tập dượt những bài trình diễn, tinh thần chúng phấn chấn trở lại - những bài tập đó lúc nào cũng hấp dẫn kinh khủng.
Kate sẽ thổi còi, tạo ra những chuỗi âm thanh với những nốt cao độ khác nhau, và tùy thuộc vào đó mà con Madge hoặc là đậu lên cổ tay Kate (giờ đã được bảo vệ bằng một chiếc găng tay da thật dày) hoặc là bay vòng quanh sân, “đi săn” những mẩu thịt mà Kate lấy ra từ một cái túi được giấu kín trong giỏ và tung vào không khí. Madge sẽ lao xuống những miếng mồi ngon đó với tốc độ và sự chuẩn xác đến kinh ngạc khiến những khán giả nhí của nó chỉ biết nín thở và vỗ tay ầm ĩ (và thỉnh thoảng, cô Plugg không làm ngơ được cũng tham gia cùng). Rồi Kate sẽ tươi cười rạng rỡ, cúi chào cực kỳ điệu nghệ và cố làm ra vẻ “chuyện cũng bình thường thôi.”
Khi vầng mặt trời lấp ló sau một đám mây, Reynie, Constance cùng với đám bạn đang ngồi trên bậc cầu thang nói chuyện vui vẻ, Reynie bất chợt cảm thấy choáng váng trước suy nghĩ rằng khoảng thời gian bị giam cầm bí mật này của chúng, dù chúng có kêu ca oán thán thế nào đi chăng nữa, cũng rất có thể là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời lũ trẻ. Bởi vì ai có thể nói trước được rằng điều gì sẽ xảy ra khi tất cả những chuyện này kết thúc? Liệu gia đình chúng có quay trở lại nếp sống bình thường như trước được hay không?
Reynie lại bắt đầu cảm thấy cơn nhói đau quen thuộc. Ngay lập tức cậu nhận ra đó là nỗi cô đơn - một nỗi cô đơn được đoán trước - và đây không phải là lần đầu tiên cậu ai oán trước trí tưởng tượng quá ư phong phú của mình. Đã hàng trăm lần cậu cảm thấy nhói đau như vậy khi hình dung ra cảnh không được ăn sáng cùng các bạn - không có Kate líu lo đầy hăng hái vào bữa sáng, không có Sticky sửa cặp kính của mình và dịch thứ gì đó từ tiếng Pháp, không có Constance cố tranh món gì đó trên đĩa của cậu. Cậu dễ dàng hình dung ra bản thân mình sẽ bị bao quanh bởi những người lạ mặt và phải cố gắng kết bạn ở một nơi nào đó.
“Cậu sao thế?” Sticky huých nhẹ và hỏi. “Cậu đang lo lắng về chuyện gì đó phải không?”
Reynie nhận ra mình đang nhìn lơ đãng vào khoảng không vô định. Cậu lắc đầu. “Không, chỉ là... mơ mộng một chút thôi. Tớ không sao đâu, cảm ơn cậu.” Và cậu mỉm cười để chứng minh điều đó, thầm cười nhạo chính bản thân mình vì đã quá ủ ê. Không phải cậu đang ở đó với bạn bè mình đấy sao? Lo lắng thì được cái gì cơ chứ? Đng lúc này, Sticky cũng đang ngồi trên bậc cầu thang và kể lại một nghiên cứu từng đọc về “những hiệu quả tiềm năng của việc mơ mộng đối với đời sống tinh thần.” Phía dưới sân, Constance đang cố gắng buộc lại dây giày, hai tay vẫn đeo găng kín mít, còn Kate vẫn đang xoay tròn trên sân, hai tay giang rộng và ngước mắt dõi theo những con chim ưng yêu quý trên bầu trời.
Reynie tự chụp một bức ảnh trong đầu, và lưu nó lại.
Lặng yên quan sát trên đầu cầu thang, cô Plugg, giống như Reynie, cũng có chung những cảm xúc hỗn độn rất phức tạp. Cô vừa bị ấn tượng, vừa bị thu hút, lại vừa hết sức lo lắng. Trong hai tháng đảm nhiệm công việc này, cô chưa bao giờ có dịp làm việc ở sân sau mà có Kate chơi đùa với Madge như thế. Như tất cả các bảo vệ khác, cô cũng để ý thấy một con chim ưng làm tổ tít trên mái hiên, và biết rằng nó ít hay nhiều cũng “thuộc về” một trong số những đứa trẻ, nhưng cô không hề biết gì về khả năng của con chim - hay của cô bé - cũng như tình bạn khăng khít gắn bó giữa chúng. Và giờ đây, từ bậc thang cuối cùng, cô có thể nghe thấy cậu bé đeo kính (tên cậu bé là gì nhỉ? À phải rồi, hay nghịch vớ vẩn) - Sticky nói như một học giả về nghiên cứu nào đó cậu đã từng đọc, và cô quan sát thấy người bạn Reynie đang lắng nghe với sự chăm chú và hiểu biết thực sự trong lúc buộc lại dây giày cho cô bé con gàn dở.
Khung cảnh đáng yêu đến mức cô Plugg cảm thấy khó lòng phân tâm được - và chuyện này làm cô thực sự buồn phiền, vì cô Plugg là một bảo vệ mẫn cán, và nhiệm vụ của cô, theo như cô hiểu, là canh chừng người lạ mặt (đặc biệt là những người đàn ông ăn mặc chỉn chu, mang theo vali) và có bất kì động thái đáng ngờ nào. Nhiệm vụ của cô không phải là trố mắt nhìn một cô bé tóc đuôi gà đang huấn luyện chú chim săn mồi, cũng không phải nghe lén cuộc nói chuyện thông minh của hai cậu bé - tất cả những việc này hoàn toàn rất khác thường, nhưng chẳng có hành động nào là đáng ngờ cả.
Cô Plugg đã quen với những việc bất thường rồi. Ngôi nhà này là một ngôi nhà bất thường; công việc này cũng bất thường nốt. Có điều là cô gần như không được nghe bất cứ điều gì về những người trong ngôi nhà hết. Công việc và quá khứ của họ là một bí mật với cô, cũng như với hầu hết - nếu không phải là tất cả - những người bảo vệ khác. Theo như cấp trên của cô nói, nhiệm vụ của một bảo vệ không phải là đặt câu hỏi. Hỏi han chỉ thêm mất thời gian, bởi vì hầu hết các câu trả lời đều đã được phân cấp rõ ràng, và vì thế chúng không được phép đưa ra. Cô Plugg và những bảo vệ khác đã được nhắc nhở rằng những người s trong ngôi nhà này rất quan trọng bởi họ có liên quan trực tiếp đến thứ gì đó dưới tầng hầm.
Và theo như những gì mà các bảo vệ biết, thứ nằm dưới tầng hầm là một ngân hàng những máy tính lớn. Những chiếc máy tính hoạt động liên tục suốt ngày đêm, từ tuần này sang tuần khác để thực hiện nhiệm vụ bí mật của mình song gần như không phát ra tiếng động nào. Những nhiệm vụ được cho là bất tận, nhanh chóng và cực kỳ phức tạp, dù hầu hết các bảo vệ đều không biết đó là việc gì. Những chiếc máy tính đó nằm trong số những cỗ máy khác thường, mạnh mẽ và phức tạp nhất từng được phát minh và nói một cách khác, bảo vệ chúng là một phần nhiệm vụ trong công việc khác thường của cô Plugg.
Tầng hầm cất giấu những chiếc máy tính bất khả xâm phạm được điều chỉnh nhiệt độ thường xuyên, ngoại trừ một cầu thang bí mật được lắp đặt bên trong ngôi nhà. Đôi khi, các bảo vệ viện cớ để xuống tầng hầm thật nhanh, nhưng họ phải tuân theo những mệnh lệnh vô cùng hà khắc để không bao giờ có điều kiện chạm tới (hoặc thậm chí là nhìn thấy những chiếc máy tính ở khoảng cách quá gần). Những mệnh lệnh này là cực kỳ cần thiết. Nếu như có một con quái vật khổng lồ đang nằm ngủ dưới tầng hầm chỉ được thắp sáng lờ mờ, hay một sinh vật khỏe mạnh và thông minh hơn bất cứ một bảo vệ nào, thì không có thứ gì trên đời này có thể xúi giục họ liều đánh thức nó dậy, và bản năng của họ về những chiếc máy tính kia cũng y như vậy. Người duy nhất từng chạm vào những chiếc máy đó là ngài Benedict, người mà theo cảm nhận của cô Plugg giống như một người huấn luyện sư tử tốt bụng nhưng hơi ngớ ngẩn đang bước vào cái lồng khủng khiếp.
Các bảo vệ không biết cỗ máy đó trông như thế nào, hay nó làm công việc gì, nhưng không ít người hình dung nó như một thứ gì đó khổng lồ, nghều ngoào và hung tợn, với cặp mắt sáng quắc, vô số thiết bị kêu ù ù và tiếng gào rú chói tai chẳng khác nào âm thanh rền rĩ vang lên khi một chiếc cưa máy cắt thanh kim loại. Thậm chí, họ còn phỏng đoán rằng vẻ bề ngoài của nó còn man rợ và khủng khiếp hơn thế nhiều, có khi còn không thể hình dung ra nổi sự thực kinh hoàng của cỗ máy xa lạ đó. Họ chỉ biết rằng những chiếc máy tính này là đầu não của nó (và vì một số lý do khó hiểu nào đó, chúng phải được bảo vệ và giữ gìn), và trong căn phòng bị khóa chặt được canh gác trên tầng ba, ẩn giấu sau màn hình trang trí có một chiếc ghế bí mật - được cho là có mối liên hệ nào đó với cỗ máy khủng khiếp ấy.
Ít ra thì, đó là những điều mà các bảo vệ nghĩ là họ biết
Sự thật là bản thân chiếc ghế đã là một cỗ máy rồi. Trí tưởng tượng của những người bảo vệ đã đi chệch hướng - âu cũng là một nhầm lẫn có lý, bởi vì trí tưởng tượng của họ cũng chẳng có ích gì trong công việc của họ hết. Chiếc ghế đơn giản là ngự trị ở đó, yên tĩnh và lặng lẽ, đằng sau bức bình phong trong căn phòng ấm áp. Chẳng có gì đặc biệt cả. Cũng chẳng dọa nạt ai cả. Với chiếc mũ bảo hiểm bí mật màu đỏ gắn với phần tựa lưng, trông chiếc ghế giống một cái máy sấy tóc đời cũ - một đồ đạc kỳ cục trong nhà nhưng chắc hẳn là một thứ vô hại.
Đó chính là Máy Thì Thầm.
Và vào thời điểm này, dưới bàn tay của ngài Benedict, Máy Thì Thầm hoàn toàn vô hại.
Thực ra, dưới sự chăm nom của ngài Benedict, Máy Thì Thầm đã được cải tiến để có vẻ vô hại nhất có thể.
Thật không may, bất chấp những cố gắng và dự định của ngài Benedict, Máy Thì Thầm chẳng bao lâu nữa sẽ nhanh chóng vượt quá tầm kiểm soát. Khi điều đó xảy ra, số phận của biết bao con người sẽ bị kéo theo nó một lần nữa, chẳng khác nào lá cây cuốn theo dòng nước lũ. Và điều đầu tiên bị ảnh hưởng - đồng thời là một trong số những điều quan trọng nhất - là bốn đứa trẻ đang tận hưởng không khí trong lành dưới cặp mắt canh chừng của cô Plugg.