Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 02 - Phần 1
QUÁI VẬT TRONG TẦNG HẦM
Ngài Benedict tỏ ra rất hứng thú. Điều này chẳng có gì là lạ. Thực tế thì, đôi khi, niềm vui thích của ngài khiến ngài ngủ gật ngay lập tức, bởi một chứng bệnh có tên là chứng ngủ rũ. Những triệu chứng đó hay xảy ra nhất khi ngài bị xúc động mạnh, và đặc biệt là mỗi khi ngài cười sảng khoái. Những trợ lý (đồng thời cũng là con gái nuôi của ngài) làm mọi việc để có thể bảo vệ ngài - ngài khó có thể bước đi hai bước mà không có Rhonda và Số Hai che chắn thật cẩn thận đề phòng ngài sẽ ngủ gật và đổ ngay tại chỗ - và ngài Benedict cũng tự bảo vệ chính mình bằng cách luôn luôn mặc một bộ quần áo len màu xanh lục (ngài khám phá ra tác dụng giảm đau của nó cách đây khá lâu rồi).
Tuy nhiên, ngủ gật bất thình lình là việc không thể tránh khỏi, và vì thế, mái tóc dày bạc trắng của ngài Benedict lúc nào cũng rối bù xù, và khuôn mặt thì lởm chởm râu và xước xát do dao cạo gây ra. (Ngài Benedict thường nói không có gì vui nhộn bằng hình ảnh bản thân mình trong gương, khi đôi mắt màu xanh lục nhạt và chiếc mũi dài gồ lên của ngài - cùng với hàng râu giả trắng bông do bọt cạo tạo ra - hệt như ông già Noel vậy.) Ngài cũng đeo những cặp kính chắc chắn nhất để tránh bị vỡ khi ngã. Nhưng khi nguy cơ xảy ra những cú ngã đã được ngăn chặn thì chẳng có gì lạ khi bắt gặp một ngài Benedict vui vẻ đang cố nhịn cười. Đó là khi ngài ngồi bên bàn ăn với Rhonda và lũ trẻ.
“Mục đích của bài thử thách,” ngài Benedict nói khi hai mép đang giật giật vì nén cười, “các cháu biết đấy, thiên về tư duy hơn là chiến thuật. Trên hết là, nó là một bài thử thách về hậu quả của hành động của người này tác người khác. Bác chắc chắn Sticky có thể kể lại mục đích của thế Tiến thoái lưỡng nan của Tù nhân, còn Rhonda và ta đã nghĩ cách để áp dụng trò chơi đó cho phù hợp với mục đích của chúng ta.” Đến đây ngài Benedict cho phép mình nở một nụ cười tươi rói và nói thêm, “Đúng như điều các cháu đã làm.”
Lũ trẻ, trước đó còn cảm thấy cực kỳ hài lòng khi chứng kiến phản ứng của ngài Benedict trước cách giải quyết của bọn chúng thì giờ bắt đầu cảm thấy băn khoăn. Chúng cảm nhận rằng đã bỏ sót điều gì đó mà đáng lẽ ra chúng không nên bỏ sót - nỗi lo lắng càng tăng lên khi Số Hai xuất hiện, cô lao vào phòng ăn như một cơn lốc. Nước da màu vàng nhạt thường thấy của người phụ nữ trẻ tối đi gần trùng với màu mái tóc xám của cô; và biểu hiện trên khuôn mặt thì đằng đằng sát khí. Nếu lũ trẻ không biết Số Hai từ trước, chắc có lẽ chúng sẽ nghĩ cô ấy sắp tống giam chúng mãi mãi mất.
“Nếu không nghĩ rằng,” cô Số Hai nói và chỉ ngón tay về phía lũ trẻ, “nếu không nghĩ rằng trò bịp bợm của các cháu sẽ ảnh hưởng đến cô Rhonda, các cháu sẽ làm gì? Các cháu giả vờ ra ngoài mà không được bảo vệ ư? Các cháu giả vờ trèo ra ngoài cửa sổ từ tầng ba ư? Các cháu... “ Cô ấy ngừng lại, bực dọc nhìn trừng trừng vào quả táo và nhai nó đầy hung bạo.
Từ chỗ ngồi của mình, Reynie cũng có thể nghe thấy tiếng hàm răng cô nhai nghiến ở đầu bên kia bàn ăn. Cậu ước rằng mình đã ngồi cách xa hơn nữa - tốt nhất là ngồi ở đâu đó từ thời quá khứ xa xôi. Những lời của cô Số Hai dội vào mặt cậu bỏng rát chẳng khác nào một cái tát. Cô ấy nói đúng. Cậu đã quá đắc chí với ý tưởng của mình đến mức quên không cân nhắc xem đó có phải là một việc làm đúng đắn hay không. Rhonda không có vẻ gì là thất vọng, nhưng trong những giây phút đầu tiên đó, chắc chắn chị ấy đã rất lo lắng - thực lòng mà nói, cậu có thể tin chắc điều đó - và nghĩ lại, cậu xấu hổ vò cùng.
“Bọn em xin lỗi ạ,” Kate thốt lên, rõ ràng cô bé cũng cảm thấy y như vậy. “Ôi, Rhonda, bọn em ngu ngốc quá! Lúc đó chuyện có vẻ rất vui, nhưng...”
“Thì đúng là vui thật mà,” Constance xen vào. “Chị hối lỗi không có nghĩa là chuyện đó không vui.”
“Constance nói đúng,” Rhonda nói với nụ cười dễ chịu. “Nhưng chị đánh giá cao lời xin lỗi của em, Kate ạ, và chị có thể thấy khuôn mặt cậu con trai cũng hiện lên sự hối lỗi nữa. Thật đấy, không sao cả đâu.”
“Không sao cả ư?” Số Hai cằn nhằn. “Khi mà mối quan tâm duy nhất của chúng ta là sự an toàn của chúng ư? Khi mỗi suy nghĩ và việc làm của chúng ta...”
“Số Hai,” ngài Benedict nhẹ nhàng nói, “ta đồng ý. Nhưng vì thời gian không còn nhiều, con vui lòng đi lấy bảng phân công nhiệm vụ được chứ? Chúng ta cần phải sắp xếp lại một chút.”
Cô Số Hai quay ngoắt người rồi vùng vằng đi vào bếp. Thậm chí tít từ xa bọn trẻ cũng nghe thấy âm thanh tra tấn khủng khiếp lên quả táo, mỗi miếng cắn chẳng khác nào một cái xẻng thọc xục vào nền đất sỏi. Reynie đoán chắc rằng ngài Benedict đang cho cô ấy cơ hội để bình tĩnh trở lại.
“Kế hoạch đầu tiên của chúng ta,” ngài Benedict nói với lũ trẻ, “là giải thoát các cháu khỏi nhiệm vụ làm bếp tuần sau, do đó phải dồn công việc làm thêm cho các cháu vào tuần này, coi như là kết quả của bài thử thách. Chúng ta muốn tạo ra những thử thách thật, các cháu thấy đấy, để tăng cường hiệu quả ấy mà, nhưng thực sự chúng ta không có dự định biến các cháu thành những nô lệ nấu nướng. Bằng cách này, Rhonda có thể nói sự thật cho các cháu, nếu không muốn nói là tất cả sự thật, và có lẽ là để ngăn không cho Constance nhìn ra trò lừa ở đây. Dù sao thì Constance cũng có thể hiểu ra điều đó, tất nhiên là vậy - ta nghĩ điều đó cũng rất đáng để điều tra. À, rất cảm ơn các cháu,” ngài nói khi cô Số Hai, lúc này đã dịu đi đôi chút, đang quay trở lại với bảng phân công nhiệm vụ.
“Tại sao chúng ta phải thay đổi lịch ạ?” Constance hỏi, khi thấy việc lập bảng phân công nhiệm vụ này thật tẻ nhạt. “Chúng ta không thể giữ nguyên thế được ạ?”
“Hôm nay là ngày làm việc vặt,” Rhonda nói. “Đó là lý do tại sao chúng ta chọn nó cho bài thử thách đặc biệt này. Dù sao thì chúng ta cũng cần phải phân công lại.”
“Cháu đã nghĩ rằng mọi thứ ở đây đang yên ắng một cách bất thường,” Sticky nói. “Ngày làm việc vặt - chà, ra là thế.”
Ngày làm việc vặt ngày mà tất cả những vị khách lớn tuổi của gia đình được rảnh rang đi mua sắm hoặc làm những điều họ yêu thích. Những phi vụ đột ngột đáng mong ước như vậy tràn vào Thành phố Đá khoảng hai hoặc ba tuần một lần, lúc nào cũng vào các ngày khác nhau và không bao giờ được thông báo trước. Người lớn nói rằng đó là vì lý do an ninh, và chắc hẳn là thế rồi, nhưng Reynie nghi ngờ rằng họ cũng rất sung sướng khi tránh được những lời cầu xin và van nài, vì lũ trẻ không bao giờ được phép tự mình đi bất cứ đâu.
Kate nhảy dựng lên. “Không cần phải lo lắng nhiều về bảng phân công đâu, ngài Benedict. Cứ để cháu làm thêm việc cũng được. Chuyện đó sẽ giúp cháu cảm thấy nhẹ nhõm hơn.”
“Cháu cũng thế ạ,” Reynie nói.
“Vâng... cháu cũng thế,” Sticky nói, cố tỏ ra nhẹ nhàng bất chấp cảm giác chán nản đang dâng đầy trong lòng. Dọn bếp với Kate mệt bở hơi tai - cậu phải làm việc như điên mới đuổi kịp được cô bé - và cậu thường tránh khỏi việc đó bất cứ khi nào có thể.
“Cả cháu nữa!” Constance líu lo, và tất cả mọi người quay lại nhìn cô đầy sửng sốt. Thấy vậy, Constance cười phá lên bởi tất nhiên là cô bé chỉ đang đùa vui thôi.
Điều hay ho khi phải làm bếp trong ngày làm việc vặt là số lượng bát đĩa bữa trưa giảm hẳn. Trừ ngài Benedict ra, ngài đã tuyên bố sẽ chịu trách nhiệm về Constance, tất cả những người bảo vệ cho lũ trẻ đều vắng mặt. Không có mặt những người nhà Washington, cô Perumal và mẹ cô, cả cha Kate là chú Milligan nữa, với nhiệm vụ bảo vệ những người bảo vệ khác khi họ làm nhiệm vụ của mình.
Nhưng điều tồi tệ khi làm bếp trong ngày làm việc vặt là sự thiếu vắng đến trống trải bầu không khí tuyệt vời trong nhà, bởi vì người bạn của chúng, Moocho Brazos - một thanh niên khỏe mạnh từng làm trong rạp xiếc, và quan trọng hơn, một đầu bếp tuyệt vời - cũng không phải làm việc vặt trong ngày hôm nay, điều đó có nghĩa là chỉ có súp và sandwich cho bữa trưa, và chẳng có món nướng nào trong lò hết.
“Không biết lúc này họ đang ở đâu nhỉ,” Kate nói trong lúc đưa một chiếc đĩa đã được rửa sạch cho Sticky trong khi chưa kịp lau chiếc trước đó.
“Mong là họ mua quà về cho bọn mình,” Constance nói vọng ra từ chạn bát đĩa, cô bé chỉ giả vờ bận rộn ở đó thôi. “Em còn định đưa cho họ cả bản danh sách cơ.”
“Biết đâu họ còn có những nhiệm vụ khác nữa,” Sticky nói trong lúc đang lau đĩa điên cuồng. “Mẹ tớ phải nói chuyện với ai đó về công việc bà có thể làm ở nhà. Nói đúng hơn là, các cậu biết đấy, ở đây - suốt từ tháng Chín đến giờ bà có được làm việc đâu.” Cậu cau mày với chiếc đĩa trong tay. “Xin lỗi, Kate, việc này với tớ mệt quá.”
Kate vui vẻ rửa lại đĩa trong khi Sticky (mặt bí xị) lại lấy tay áo lau trán. “Đừng lo, Constance!” Cô bé nói to. “Lúc nào họ chẳng mang đồ gì đó về cho tụi mình; phải không nào? Họ biết rằng đó là điều an ủi duy nhất của chúng ta khi bị kẹt ở đây trong khi họ được ra ngoài mà.”
Reynie, đang mang chồng đĩa sạch ra giá bát, chợt dừng lại nói. “Tớ cá rằng họ đã ăn trưa ở Quảng trường Thành phố Đá,” cậu nói với vẻ mặt thèm thuồng. “Có thể họ còn ngửi thấy cả hương vị mặn mòi của biển từ bến cảng ý chứ.”
“Cả mùi cá chết,” Constance nói to. “Và mùi xăng dầu nữa.”
Reynie nhún vai. “Cá chết và xăng dầu cũng tốt chán.”
“Nhắc đến họ tớ mới nhớ,” Kate nói, cười hớn hở, “không biết trông họ thế nào nhỉ?”
Lũ con trai cười rúc rích. Chúng đều biết rằng người lớn bắt buộc phải mặc kiểu cải trang khi ra ngoài. Với một mật vụ như Milligan, việc cải trang là rất bình thường - lũ trẻ đã khá quen với việc nhìn chú ấy biến hóa thành một người lạ - nhưng thật buồn cười khi hình dung ra bà Perumal thân yêu, hay anh Moocho Brazos lực lưỡng, râu ria rậm rạp, cải trang thì trông sẽ thế nào?
Việc sử dụng kỹ thuật hóa trang và các biện pháp an ninh khác đều rất quen thuộc với lũ trẻ, lúc nào chúng cũng tra hỏi về mọi chi tiết của những chuyến đi ra ngoài. Chúng thuộc mọi công việc thường làm, và thay vì tự mình ra ngoài, chúng thường tưởng tượng ra điều đó trong tâm trí.
Đầu tiên chú Milligan sẽ liên lạc với những lính gác riêng của mình - đó là một nhóm những nhân viên đáng tin cậy rải rác quanh địa bàn - để đảm bảo rằng họ không thấy bất kỳ điều gì đáng ngờ trong khu vực. Sau đó ông sẽ chuyển những chiếc hộp các tông và túi rỗng cho những người khác, và nói một từ như thường lệ với nhân viên bảo vệ trong sân về “một kế hoạch về những tài sản khác của ngài Benedict,” ông sẽ hộ tống số hàng đó đến một ngôi nhà nhỏ trên đường. Ngôi nhà này, với sân trước chật hẹp và cổng vòm vừa phải, trông có vẻ sạch sẽ và bảo quản tốt như các ngôi nhà khác, nhưng sự thực là bên trong ngôi nhà rất cũ nát. Ngài Benedict mua nó cách đây đã nhiều năm, không phải để ở mà để làm lá chắn cho cửa vào một đường hầm bí mật.
Chú Milligan sẽ nhấc những cánh cửa dưới tầng hầm ở hông ngôi nhà lên. Những cánh cửa này được làm từ gỗ mỏng, cắm nghiêng xuống đất và được đóng lại bằng một ổ khóa kim loại kiểu trượt đơn giản - loại cửa tầng hầm cho thấy đằng sau nó chẳng có gì ngoài mấy bình hoa quả bụi bặm và giày dép bỏ đi. Tuy nhiên, trong tầng hầm, còn có một cánh cửa khác, cánh này làm bằng kim loại, được khóa bằng một ổ khóa mà chú Milligan nói rằng, không thể phá được và chỉ có duy nhất một chiếc chìa khóa chú đang giữ có thể mở được. Cánh cửa này dẫn đến đường hầm bí mật - một lối đi chật hẹp, ẩm ướt xuyên qua một vài khu nhà và kết thúc bên dưới tòa nhà Thầy Tu, một tòa nhà văn phòng xám xịt và không có gì nổi bật trong thành phố.
Ở tòa nhà Thầy Tu, người lớn sẽ đi theo một cầu thang tối (ông Washington đỡ bà Washington còn Moocho vác chiếc xe lăn giúp bà) đến tận căn phòng chờ, họ mới thở lấy thở để và gỡ bỏ lớp vỏ ngụy trang. Phòng chờ được mở bằng một cánh cửa bí mật dẫn đến văn phòng của ngài Benedict, và bên trong bức tường của căn phòng đó có những lỗ bé tí cho phép Milligan đảm bảo rằng văn phòng hoàn toàn không có người (Ông không muốn họ bất thình lình va phải một người gác cửa sẽ kinh ngạc nhìn họ.) Cuối cùng, khi đã chắc chắn lối đi không có người, Milligan sẽ dẫn mọi người qua văn phòng, đi xuống cầu thang công cộng ít được sử dụng của tòa nhà Thầy Tu, rồi sau chót, họ đi ra khỏi tòa nhà bằng cửa chính.
Thật khó để tưởng tượng chính xác cảm giác của họ khi bước ra trung tâm mua sắm ở giữa khu thương mại Thành phố Đá. Có lẽ họ sẽ cười toe toét trước viễn cảnh của một ngày do. Hoặc có lẽ họ sẽ cảm thấy nỗi nhớ nhà da diết, nhớ lại những ngày họ chưa biết đến lão Curtain. Nhưng cũng có thể họ sẽ bận rộn với việc liếc ngang liếc dọc và hy vọng không bị ai chú ý. Chắc hẳn họ sẽ thấy rất khác lạ trong lớp hóa trang của mình.
“Các cậu có bao giờ lo lắng cho họ không?” Sticky thì thầm sau một chút lưỡng lự, khiến cả Reynie và Kate cùng nhìn cậu chằm chằm. Họ có thể nghe thấy tiếng Constance khua khoắng quanh chạn bát.
“Có đôi lúc,” Reynie thừa nhận. “Nhưng tớ tự nhắc nhở mình rằng chính quyền rất cảnh giác, và chưa có báo cáo nào về những hoạt động gần Thành phố Đá...”
“Và bố Milligan có thể nhận dạng được một Gã Số Mười cách đó cả dặm,” Kate bổ sung. “Và bố còn có thể làm hơn thế, nếu có chuyện đó xảy ra.”
Lũ con trai gật đầu, mặc dù trong lần đụng độ gần đây nhất với những gã tay chân của lão Curtain gần đây nhất, chú đã phải trị thương mất mấy tuần. Tuy nhiên hoàn cảnh lúc đó lại khác - lũ trẻ biết vì chính chúng đã ở đó - và chúng cũng tin tưởng vào bố của Kate như chính cô bé vậy.
“Cậu nói đúng,” Sticky nói. “Nếu có một đội bảo vệ thì họ sẽ an toàn thôi.”
“Đúng, họ sẽ ổn mà,” Reynie nói. “Tớ chắc chắn là họ sẽ ổn.”
“Tất nhiên là thế rồi,” Kate nói.
Tuy nhiên chúng nói mà không thực sự tin tưởng cho lắm, vì mặc dù người lớn đã đảm bảo rất an toàn, song câu hỏi vẫn còn để ngỏ là: Đích xác thì độ an toàn là bao nhiêu?
Kate kéo vòi nước vào bồn, và trong sự tĩnh lặng đầy bồn chồn, lũ trẻ nhìn theo dòng nước sủi bọt từ vòi nước tuôn ra.
Constance hiện ra từ chạn bát với một túi bánh quy bơ đã ăn hết một nửa, hai má phồng lên như má con sóc chuột. “Mọi người đang nhìn gì thế?” C nói đầy ngạc nhiên.
“Không có gì,” ngay lập tức những người còn lại đồng thanh, nhưng Constance lại cau có. Việc luôn được mọi người cố gắng bảo vệ làm cô bé tức điên. Tuy nhiên, họ không thể làm gì khác được, và lý do của họ cũng hoàn toàn hợp lý: Constance lúc nào cũng khó tính, nên khi đang lo âu một điều gì, cô bé trở nên cực kỳ khó chịu.
“Chúng ta ra ngoài đi,” Reynie nói và quay đi trước khi Constance kịp nhìn thấy mặt. “Chúng ta vẫn còn một ít thời gian trước khi giờ học chiều bắt đầu.”