Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 10 - Phần 2

Từ đằng xa có tiếng còi báo động hú vang; một vài con chó bắt đầu sủa ầm ĩ. Sau đó họ nghe thấy tiếng ông Bane và cô Plugg hét lên qua lại với nhau từ hai phía đối điện của ngôi nhà. Ông Bane đứng ở cầu thang hậu đang nói gì đó về bộ đàm của mình, hình như nó đã ngừng hoạt động. Cô Plugg hét lại rằng cái của cô cũng bị hỏng.

“Bộ đàm của họ hỏng ư?” Sticky nói. “Ồ không, chuyện này thật bất thường. Có điều gì đó lạ kỳ ở đây.”

Chúng nghiêm nghị nhìn nhau.

“Tôi không nghe được cô!” Ông Bane hét lên, rồi chạy nhanh sang mặt tiền của ngôi nhà.

Ông ta vừa mới chạy qua góc nhà thì Reynie thấy thứ gì đó trên đường. Một đống gì đó to lớn, tối om, tối hơn cả bóng đêm đang di chuyển. Bóng đen đó nhẹ nhàng di chuyển trên đường giống như kiểu một chiếc ô tô, nhưng nó lớn hơn rất nhiều. Mà không giống như một ô tô, nó hoàn toàn yên tĩnh.

“Kate!” Reynie rít lên. “Cậu có-”

“Tớ thấy rồi!” Kate chĩa đèn pin ra bóng tối. Khi đến được làn đường, tia sáng đã khuếch tán khá rộng, nhưng nó đã soi đúng vào một hình dáng quen thuộc.

Sticky thở ra nghe như tiếng rít. Cậu giơ tay ra tìm cánh tay Reynie và thấy cậu ấy cũng đang túm lấy tay mình.

“Không hay rồi,” Kate nói.

Chiếc Salamander chở đầy những Gã Số Mười.

Bọn trẻ chuồn ra khỏi phòng, Reynie vẫn còn nhìn thấy hình ảnh khủng khiếp hằn in trong tâm trí: những gã đàn ông lịch lãm với những chiếc vali đứng trên một chiếc xe bọc thép giống như các doanh nhân đứng trên một con tàu.

“Đi ra cửa chính đi!” Kate nói và nhét vào tay Sticky chiếc đèn pin. “Tớ sẽ thông báo cho bảo vệ của căn phòng đặc biệt!”

Hai cậu bạn còn không kịp tranh luận. Hấp tấp và vấp ngã trong hoảng loạn, họ chiếu đèn pin lung tung lên tường, trần nhà, rồi lại chiếu xuống sàn nhà. Hai cậu vội nhảy cách bậc xuống cầu thang. Từ bên trên họ nghe tiếng Kate hét lên với những bảo vệ của phòng đặc biệt (họ sửng sốt đến mức Kate phải nhắc lại hai lần) và rồi khi hai cậu nhảy qua những bậc thang cuối cùng, họ cảm thấy một cơ thể lao sầm vào họ trong bóng tối - Kate đang trượt xuống theo tay vịn cầu thang. Cô bé cắn bút chiếu sáng trong miệng, cho đến khi hai cậu đến được bậc cuối cùng thì Kate chĩa cái bút vào bàn phím báo động gần cửa chính.

Đèn báo động đã tắt. Các ngón tay của Kate lướt trên các phím, nhưng không thấy âm thanh tít tít quen thuộc. “Hệ thống báo động hỏng rồi,” cô nói, miệng vẫn ngậm chiếc bút chiếu sáng.

Không báo động, không bộ đàm, không điện đóm. Không người giúp đỡ.

Cửa mở toang và cô Plugg xuất hiện. “Có chuyện gì thế? Cô nghe thấy tiếng hét!”

“Những kẻ xấu đang ở trên đường!” Sticky hổn hển. “Những kẻ rất xấu xa!”

Khuôn mặt cô Plugg cứng lại. “Quay trở lại bên trong đi và khóa cửa lại. Chúng ta sẽ...”

Nhưng Kate và hai cậu con trai khiến cô ngạc nhiên khi chúng lao xuống các bậc thang bên ngoài, nơi ông Bane đang đứng với tâm trạng khó chịu. Ông bồn chồn kéo khóa áo khoác lên xuống liên tục và nhìn chằm chằm khắp xung quanh. Cô Plugg quay người và ré lên, “Cô nói là đi vào trong cơ mà! Không an toàn đâu! Ông Bane, lạy Chúa, túm chúng lại đi!”

Ông Bane dừng việc kéo khóa, nhưng ông chỉ chớp mắt nhìn cô Plugg như thể là chẳng hiểu điều gì xảy ra.

“Trong nhà mới không an toàn!” Reynie hét lên. “Đây là một cái bẫy, cô Plugg ạ! Cô cũng nên chạy đi! Không ai ngăn được chúng đâu!”

Mắt cô Plugg mở to khi cô hiểu ra điều Reynie đang nói. Nhưng cô kiên quyết lắc đầu. “Không... không, cô không thể trốn được. Ba cháu chạy đi. Tìm một chỗ trốn. Cô sẽ...”

“Yên lặng!” Kate rít lên, và trong bầu không khí yên lặng đột ngột, họ nghe thấy những tiếng bước chân nặng nề vang lên ở phía hông nhà đang di chuyển ra phía trước. Có một người đàn ông đang chạy ngoài kia.

Trước khi những người khác kịp hiểu họ đang nghe thấy tiếng gì, Kate đã tóm lấy chiếc đèn pin trong tay Sticky và - nheo mắt lại, tính toán cẩn thận - ném nó về phía góc nhà. Chiếc đèn bay gần hai mươi mét trong không khí, lộn hết đầu này đến đầu kia và đáp xuống góc nhà đúng lúc Gã Số Mười đến. Sau tiếng rắc thật to là tiếng la hét inh tai, hắn đánh rơi chiếc vali và loạng choạng lùi về phía sau khuất khỏi tầm nhìn, đưa tay lên ôm đầu.

“Nào, ông Bane!” Cô Plugg hét lên và nhảy qua các bậc thang. “Đi theo tôi!”

Lũ trẻ lao bổ ra phía cổng. Khi Kate mở cửa ra, Reynie ngoái lại nhìn thấy cô Plugg mất hút sau phía hông nhà. Ông Bane nhìn theo cô ấy chằm chằm, tay vẫn cứng đơ trên khóa áo. Reynie nhìn đi chỗ khác, cố không nghĩ chuyện gì sắp xảy ra. Đối mặt với một Gã Số Mười, thậm chí hắn đang bị choáng đi chăng nữa, cô Plugg cũng không có cơ hội.

“Bây giờ bọn mình đi đâu?” Kate nói trong lúc lao ra con đường tối mịt.

“Tầng hầm,” Reynie thở hổn hển rồi chỉ tay về phía ngôi nhà nhỏ phía bên kia đường.

Kate lao đi như tên bắn, cô bé phi qua sân đến chỗ cửa tầng hầm, kéo thanh chắn bằng kim loại và nhấc một cánh cửa lên vừa kịp lúc hai cậu bạn đến nơi. Sticky cúi đầu đi xuống bậc cầu thang tầng hầm tối om trong khi Reynie dừng lại quan sát xem chúng có bị ai theo dõi không. Sân nhà lúc này trống trơn, nhưng trong nhà có tiếng quát tháo và đổ vỡ...

Sau đó Kate xô mạnh cậu vào cánh cửa kim loại và nhảy vào ngay sau cậu rồi kéo cửa xuống. Reynie vấp phải các bậc cầu thang và va vào Sticky ở bậc cuối, hai cậu ngã chổng kềnh ra sàn tầng hầm.

“Đừng rên rỉ nữa,” Kate thì thầm trong lúc hai cậu con trai lồm cồm bò dậy. “Tớ thấy Crawlings và Garrotte đi ra khỏi cửa chính.”

Hai đứa kia lập tức yên lặng. Trước đây chúng đã đối mặt với những Gã Số Mười này nên có thể hình dung ra chúng rất dễ dàng. Gã Garrotte mặt dơi, râu ria lồm xồm, gã Crawlings gầy khẳng khiu, hói đầu, hay liếc mắt dâm dật và khuyết một bên lông mày. Chỉ cần đứng ở đây nghĩ về chúng cũng đủ làm cho hai cậu con trai rùng mình.

Kate chiếu đèn pin về phía cánh cửa kim loại dẫn đến lối đi bí mật. “Tớ không cho là bố Milligan bất cẩn đến mức...”

Dò dẫm tìm đường qua bóng tối, Sticky thử đẩy cánh cửa. “Không,” cậu chán chường nói, “cửa khóa rồi.”

“Vậy thì bọn mình nên hy vọng là chúng không tìm bọn mình.”

Ngay lúc đó giọng Garrotte vang lên từ đằng xa: “Lũ nhóc chạy theo hướng nào rồi? Mày có nhìn thấy không?”

“Ồ, thật là đáng xấu hổ,” Kate thì thầm, với tay ra lấy cái giỏ.

“Ở chỗ nào đó hướng kia,” Crawlings đáp, sau đó là tiếng chân rầm rập trên vỉa hè. Gã Số Mười đang băng qua đường. “Làm việc vào một đêm như thế này thật tuyệt, đúng không? Những ngôi sao đẹp thật, trời lại còn mát mẻ nữa chứ. Cứ như là đầu xuân vậy.”

“Thì đúng là đầu xuân còn gì,” Garrotte cười lớn. “Mày có thể thôi ngủ đông được rồi đấy, chiến hữu ạ.”

Thật thoải mái và tự nhiên, giọng của những Gã Số Mười vang lên mỗi lúc một to và rõ ràng khi chúng bước vào trong sân

Kate lại ngậm đèn pin vào mồm; hai cậu con trai chỉ nhìn thấy mặt cô bé trong ánh sáng mờ mờ. Cô bé đang nheo mắt trước những chiếc khóa gắn thanh kim loại vào gỗ và ước lượng khoảng cách giữa chúng. Sau đó cô nhấc cục nam châm lên và tim Reynie đập loạn xạ khi cậu nhận ra điều Kate đang cố làm.

Với sự tập trung cao độ nhất, Kate đặt cục nam châm tì vào cửa tầng hầm. Sau đó, như một tên trộm đang phá một két sắt, cô bé nhướng hai hàng lông mày, ép tai vào cánh cửa gỗ mỏng manh và trượt cục nam châm lên xuống... Cô bé đã nghe thấy tiếng cô cần. Rất bình tĩnh, thận trọng và chậm rãi, Kate trượt cục nam châm dọc cánh cửa gỗ.

Chúng lại nghe thấy tiếng Crawlings một lần nữa. “Nhìn kìa, Garrotte! Một cái hố ẩn nấp hoàn hảo cho những con thỏ bé nhỏ đang sợ hãi!”

Những bước chân nặng nề và một tiếng cằn nhằn đầy thất vọng. “Gần như là hoàn hảo, bạn hữu ạ. Mày có thấy cái khóa được chốt ở bên ngoài không?”

“À!”

“Tao nghĩ là bọn mình nên quay trở lại và hỗ trợ mấy thằng kia,” Garrotte thở dài nói. “Tuy nhiên ngài vẫn thấy tiếc và sẽ vui lòng hơn nếu có được mấy đứa nhãi đó.”

“Nghĩ tích cực một tí đi, Garrotte! Kế hoạch khác của ngài có thể sẽ thành công. Và biết đâu chúng ta sẽ tìm thấy con nhóc hay nhặng xị trước cả Benedict ấy chứ! Dù sao thì con bé đó mới là mục tiêu lớn nhất...”

Giọng của lũ Số Mười nhỏ dần khi chúng rút đi.

“Vậy là chúng vẫn chưa bắt được con bé,” Sticky thì thầm. “Ít nhất thì đó cũng là một tin.”

“Nhưng chúng đang truy tìm con bé,” Kate nói. “Và không phải là Curtain đã có vài kế hoạch khác để túm chúng ta ư?”

“Đúng vậy,” Reynie nói. “Nhưng các cậu cũng biết lúc này được chuyển lên chiếc Salamander rồi - Máy Thì Thầm và tất cả các máy tính của nó. Vậy thì Curtain còn cần bọn mình làm gì nữa? Ông ta cần trao đổi lấy thứ gì?”

Chúng suy nghĩ về những câu hỏi trên và nhiều câu hỏi không thú vị khác nữa trong vài phút, đôi lúc thì thầm, đôi lúc ngồi yên lặng trong bóng tối. Chúng không dám ngó qua cửa tầng hầm cho đến khi chắc chắn rằng những Gã Số Mười đã đi. Sau một vài tiếng xung đột, không thấy âm thanh nào vang lên từ phía ngôi nhà của ngài Benedict nữa, nhưng chúng biết rằng chiếc Salamander yên lặng đến kỳ quái vẫn đậu trên đường.

“Tớ chưa từng nhìn thấy thứ gì khủng khiếp hơn chiếc xe lăn của lão Curtain, chúng lăn về phía bọn mình mà không gây ra bất kỳ tiếng động nào,” Kate thì thào. “Nhưng chiếc Salamander còn vượt trội hơn tất cả những cái khác. Nó gợi cho tớ nhớ đến một con cá sấu đang lướt đi trong hồ.”

“Rõ ràng ông ta đã cải tiến công nghệ hủy tiếng ồn,” Sticky trầm ngâm. “Và tất nhiên là cả công nghệ phá vỡ tín hiệu nói chung nữa.”

“Công nghệ phá vỡ tín hiệu ư?” Kate hỏi.

“Ồ phải,” Sticky đoán. “Hạ gục hệ thống điện của cả Thành phố Đá là một chuyện - tất nhiên là ông ta sẽ cần các điệp viên ở những vị trí phù hợp, và có lẽ là một hai chương trình máy tính có hại nào đó, nhưng với lão Curtain, nó không thể khó đến mức đó. Tuy nhiên, về việc liên lạc thì sao? Cả việc điện đàm không làm việc nữa? Với việc đó, các cậu cần một số công nghệ cực kỳ phức tạp, những thứ có sức mạnh phi thường.”

“Đó là sở trường của ông ta mà,” Reynie nói. “Năng lượng, các tín hiệu vô hình, các dạng thức sóng...”

“Cả sự tởm lợm nữa,” Kate nói. “Và điên cuồng nữa...”

Kate cứ tiếp tục nói nhưng Reynie chẳng để lọt tai chữ nào, vì đột nhiên cậu đang trải nghiệm điều kỳ lạ nhất. Ngay lập tức cậu bắt đầu cảm thấy sợ hãi tột độ - sợ hơn cả lúc vừa rồi - như thể là trong bóng tối có những hiểm họa mới mà trước đó cậu không hề nhận thức được. Cậu thấy tim mình đập

“Kate,” cậu hít thở và ngắt lời cô bé, “cậu có thể chiếu đèn pin quanh tầng hầm được không?”

Giọng cậu đầy run rẩy và nghiêm trọng, và Kate nhanh chóng chiếu sáng mọi ngóc ngách xung quanh. Tầng hầm trống rỗng.

“Có chuyện gì thế?” Kate hỏi trong lúc tắt đèn để tiết kiệm pin.

“Không có gì,” Reynie nói, trái tim vẫn còn nặng trĩu. “Không có gì, chỉ là - một cảm giác lạ thôi.”

Tuy nhiên, ngay cả khi cậu nói, cảm giác đó vẫn cứ tăng lên, và rồi không biết từ đâu, một chuỗi số và chữ hiện ra trong đầu cậu. 133 N292. Cái gì thế nhỉ? Đây có phải là một ký ức không? Nếu vậy thì về cái gì? Có phải một loại mật mã không? Reynie lắc đầu, cố gắng xua nó đi, nhưng dãy chữ số đó vẫn cứ lơ lửng trong đầu cậu, không hề thay đổi, sáng lung linh như thể được chiếu sáng bằng đèn nê-ông. Từ khi thực hiện những phiên làm việc với Máy Thì Thầm, cậu chưa từng trải qua điều này bao giờ.

Ồ không, Reynie nghĩ, mồ hôi lạnh bắt đầu túa ra. Ồ không, không phải là Máy Thì Thầm.

Cậu cố gắng trấn tĩnh lại và suy nghĩ thật rõ ràng. Chắc chắn không phải là Máy Thì Thầm gây ra chuyện này. Có vẻ như lão Curtain không ngồi trong chiếc Salamander nên không ai có thể làm được chuyện này - dù sao thì đến bây giờ vẫn chưa có ai làm được. Không... không, nó chắc hẳn phải là một ký ức, một điều gì đó rất quan trọng mà cậu từng để ý ở đâu đó. Nhưng ở đâu cơ chứ? Và tại sao nó lại quan trọng đến thế? Reynie bắt đầu bình tĩnh lại một chút để tâm trí tập trung suy nghĩ. Chuỗi chữ số đó lúc này đã khá quen thuộc, nhưng có lẽ chỉ vì nãy giờ cậu đã làm quen với nó mà thôi.

“Reynie?” Sticky gọi. “Cậu vẫn còn cảm giác đó à? Cậu làm tớ sợ đấy.”

Reynie không có cơ hội trả lời, vì mặc dù cả ba đứa không nghe thấy tiếng bước chân đang đến gần, nhưng giọng một người đàn ông đột ngột vang lên trong cùng tầng hầm với

“Đừng tấn công ta khi ta mở cửa đấy nhé, Kate,” giọng nói vang lên, và Reynie nghĩ mình có thể ngất đi vì nhẹ nhõm.

Đó là chú Milligan.