Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 11 - Phần 1
BẪY, MANH MỐI VÀ NHỮNG CHUYỆN CÓ THỂ XẢY RA
Lũ trẻ bò từ tầng hầm lên một vùng bóng tối nhấp nháy ánh đèn màu xanh. Một viên cảnh sát trẻ măng đứng bên cạnh chiếc xe tuần trên vỉa hè đang cố gắng sử dụng chiếc điện đài nhưng vô ích. Khi điện mất, chú Milligan nói, chú đã đưa quân hàm cho viên cảnh sát này và trưng dụng chiếc xe. Chú biết mình phải quay trở về ngôi nhà n
gay lập tức, nhưng chú đang ở đầu kia của Thành phố Đá - tận khu Quarryside - và vì đèn giao thông không hoạt động nên đường phố loạn hết cả lên. Thậm chí sử dụng xe cảnh sát với đèn nháy xanh và còi hụ (không nói đến vỉa hè và sân trước), chú cũng phải mất đến hai mươi phút.
“Tất nhiên là ta đã tắt còi khi đến gần,” chú Milligan nói, “nhưng sự cẩn trọng đó cũng không cần thiết - bọn chúng đã đi rồi. Ta chỉ cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy chúng chưa đưa các con đi cùng. Cảnh sát Williams, đây là những đứa trẻ mà tôi đã nói.”
Viên cảnh sát trẻ run rẩy bỏ bộ đàm xuống. Anh ta cười gượng gạo với lũ trẻ, chúng không thể không để ý đến khuôn mặt xanh xao khác thường của anh ta. “Rất vui... rất vui khi các cháu… ừm...”
Chú Milligan vỗ vai anh ta.
“Cậu nên ngồi xuống, anh bạn ạ. Cậu sắp xỉu đến nơi rồi.”
Viên cảnh sát cảm ơn bằng cách ngồi sụp xuống chiếc xe tuần của mình, và chú Milligan dẫn bọn trẻ qua cửa chính rồi nói. “Ta e là việc lái xe của mình không phù hợp với anh ta cho lắm. Hoặc có lẽ là việc ta mô tả những Gã Số Mười, ta nghĩ anh ta nên biết về chúng, vì chúng có thể ở đây khi đến nơi.”
Khi chú Milligan dẫn chúng đi quanh hông nhà, chú xâu chuỗi các sự việc mà mình biết được trong vài phút vừa rồi. “Chiếc đèn pin của con có những mảnh vỡ, Kate ạ,” chú nói và chiếu đèn của mình xuống cỏ, “và chỗ lún trên đất kia chính là nơi chiếc vali của gã đó rơi xuống, và ở chỗ này” - chú chiếu ánh sáng vào chỗ cỏ bị giày xéo - “là nơi cô Plugg đã vật lộn với gã đó ít nhất là một phút. Các con biết đấy, ở trường cô ấy từng là một đô vật mà, rất nổi tiếng đấy. Rõ ràng là cô ấy đã cảm nhận được hắn đang cố với lấy chiếc vali - các con có thể thấy hắn vẫn cố để với lấy nó, nhưng cô Plugg cứ kéo hắn về phía sau.”
Lũ trẻ - những người không chứng kiến vụ việc - chỉ biết gật đầu. Chú Milligan dẫn chúng ra đằng sau ngôi nhà. “Cuối cùng hắn đập chiếc vali vào mũi cô ấy khiến cô bất tỉnh ngay tại chỗ. Nhưng cô ấy sẽ ổn thôi - cô ấy khỏe chẳng kém gì chúng đâu. Cô ấy tỉnh dậy khi ta đến đây và cứ khăng khăng đòi hỗ trợ mặc dù vẫn còn đang chếnh choáng và đau đầu khủng khiếp. Ta đưa cô ấy vào bên trong để tìm các bảo vệ cửa căn phòng bí mật. Thật không may, họ sẽ được đưa đi sớm thôi, với nhãn chống sốc và khăn tay. Nếu có sự can thiệp của các vali, ta sẽ phải sơ cứu trước.”
“Bố vẫn chưa vào trong ạ?” Kate hỏi.
Chú Milligan nhướng một bên mày. “Bố vừa mới đến, Kate ạ. Có lẽ con sẽ ngạc nhiên khi biết rằng các con là ưu tiên hàng đầu của bố.”
Họ đi vào sân sau, nơi vết bánh xe sâu hoắm của chiếc Salamander chạy thẳng đến chân cầu thang. Ở bên kia sân, hàng rào sắt bị sập nằm bẹp trên hàng rào uốn cong nhăn nhúm, các thanh chĩa ra của nó chọc thẳng qua những khe hở của hàng rào, vẫn còn đang rung rung và đong đưa. Lũ trẻ cảm thấy bối rối trước một sinh vật bị đè ngã ngửa ra đất bởi một sức nặng khủng khiếp, và khi chúng kể cho chú Milligan về những điều mình chứng kiến, âm thanh sột soạt và những chuyển động nảy lên của cọc rào trong đêm vẫn làm chúng nhảy dựng lên và nhìn chăm chú.
“Công nghệ triệt tiếng ồn cho chiếc Salamander ư?” Chú Milligan nhíu mày bối rối. “Ta không thích phải nói ra điều này, nhưng đó là một sáng tạo tuyệt vời. Trong bóng tối, không có ánh sáng hay tiếng động - nó thật hoàn hảo cho một cuộc đánh úp hay trốn chạy trên sông.
“Trên sông ấy ạ?” Kate hỏi.
“Salamander vừa đi được trên cạn vừa đi được dưới nước, và con sông Thành phố Đá chỉ cách đây vài dãy nhà. Chỉ có các con hẻm và các lô đất nằm giữa chúng và lối thoát thôi. Và một hai hàng rào an ninh gì đó, nhưng các con biết Salamander không phải là thứ biết sợ các hàng rào.”
Một cửa sổ mở ra phía trên đầu họ, và cô Plugg gọi vọng xuống báo rằng các bảo vệ đều ổn cả - chỉ bị mệt rã rời vì các nhãn chống sốc thôi - nhưng cô vẫn chưa thấy ông Bane đâu.
“Thật là ngạc nhiên,” Sticky lầm bầm.
“Còn việc này nữa,” cô Plugg nói thêm bằng giọng lo lắng sâu sắc. “Ồ, tôi khó có thể...” Khuôn mặt của người phụ nữ tội nghiệp, bị đóng khung bởi ô cửa sổ, trông vuông vức chẳng khác nào chính ô cửa sổ đó. “Chiếc ghế đã bị phá hủy! Chiếc ghế đặc biệt trong phòng bí mật ấy! Tôi rất tiếc, anh Milligan ạ. Chúng tôi thật vô dụng...” Cô nói rồi tránh ô cửa sổ, không muốn nghe những lời an ủi hay tha thứ từ Milligan.
Chú Milligan bối rối quay lại nhìn lũ trẻ.
“Phá hủy ư? Chúng đã phá hủy Máy Thì Thầm ư?”
Lũ trẻ cũng bối rối chẳng kém gì. Chúng nghĩ rằng Máy Thì Thầm đã bị đánh cắp - rằng thậm chí ngay bây giờ, chiếc Salamander, cùng Máy Thì Thầm và các máy tính của nó, đã xuống sông để đến cảng Thành phố Đá, nếu không thì cũng đi về phía thượng nguồn đến một điểm nào đó để chuyển đến lão Curtain.
“Cháu muốn tin vào điều đó,” Reynie lắc đầu nói. “Cháu thực sự muốn - nhưng cháu không tin.”
“Đi cùng ta nào,” chú Milligan nói, rồi cả lũ theo chú vào nhà, đi cầu thang bí mật xuống tầng hầm, nơi ánh đèn pin của chú chiếu sáng một đống hỗn độn, tối tăm và tơi tả gồm những chiếc máy tính đã bị chảy ra một n
Kate huýt sáo đầy kinh ngạc. “Chúng đốt máy tính ư? Làm thế ích gì! Tại sao ông ta không mang chúng đi nhỉ?”
“Ông ta mang đi rồi,” Reynie nói.
“Nhưng những máy tính này...”
“Đây không phải là máy tính của Máy Thì Thầm. Nếu phải thì bọn mình đã ho như điên rồi.”
“Đúng vậy!” Kate rên rỉ và khịt mũi. “Không có khói!”
“Vậy đây là một cái bẫy,” Sticky nói. “Nhưng tại sao Curtain lại làm thế?”
Chú Milligan càu nhàu. “Để khiến chính quyền tin rằng Máy Thì Thầm không còn tồn tại nữa, nên nó sẽ không gây ra mối đe dọa nào nữa.”
“Không ạ, cháu biết điều đó rồi,” Sticky nói. “Ý cháu là, tại sao Curtain lại làm việc xấu xa đó? Nếu chúng ta có thể khẳng định rằng những chiếc máy tính đó chưa bị phá hủy thì tất cả mọi người đều có thể.”
Reynie lầm bầm và đưa tay lên đầu. “Ai là người duy nhất thường sử dụng Máy Thì Thầm? Ai là người duy nhất sắp mất quyền kiểm soát đối với nó?”
“Ngài Benedict,” Sticky thì thầm như thể không muốn ai nghe thấy.
Reynie bắt đầu đi lại nhưng không có không gian nên cậu ngồi phịch xuống chân cầu thang. “Vậy là cả vụ này đã được dàn xếp từ đầu rồi,” cậu tức tối nói. “Người duy nhất có thể đảm bảo rằng những chiếc máy tính này không thuộc bộ máy của ngài Benedict, nhưng ngài ấy sẽ bị nghi ngờ vì tội phá hoại chúng - để trả thù, tớ cho là vậy, trừ khi họ nghĩ ra được lý do nào đó lố lăng hơn. Họ sẽ không tin bất kỳ điều gì ngài ấy nói đâu. Sự thật sẽ biến mất cùng Máy Thì Thầm.”
“Nhưng những Gã Số Mười thì sao?” Kate
Chú Milligan lắc đầu. “Những kẻ côn đồ có mối thù truyền kiếp với ngài Benedict và ta. Chúng không nhất thiết phải là những tên trộm. Đó là điều người ta sẽ nói. Họ nói rằng ngài Benedict đã chộp lấy cơ hội này để làm lý do, như một sự che đậy cho hành động ngài đã làm. Có thể họ còn nghĩ ra rằng chính ngài đã dàn xếp vụ này.” Chú quỳ xuống và tập hợp bọn trẻ lại gần. “Nghe này, đây là cách để biến vụ này trở nên phức tạp hơn, và ta cần các con làm đúng những điều ta dặn. Các con có làm được không?” Chú cười và nói thêm, “Một lần này thôi?”
Chúng gật đầu. Chú Milligan bặm môi và nhìn chúng ngờ vực.
“Chúng con làm được,” Kate quả quyết.
“Cảm ơn các con,” chú Milligan nói. “Được rồi. Ngài Benedict và những người khác sẽ quay trở lại bất cứ lúc nào, người của ta sẽ tập hợp thành một đội, và chắc chắn là ngài Gaines và đội của ông ta cũng sẽ đến nữa. Cả nơi này sẽ vô cùng hỗn độn, với những đôi tai nghe ngóng ở khắp nơi, và các con không được nói bất cứ điều gì - không nói gì hết - trừ khi các con hoàn toàn chắc chắn rằng các con ở một mình với người của chúng ta.”
“Chúng con không bị thẩm vấn ạ?” Reynie hỏi.
“Các con có thể nói ta yêu cầu các con không được nói với ai. Điều đó sẽ ngăn họ lại lúc này,” chú Milligan nói. Khi chú nói, họ nghe thấy tiếng cửa xe đóng sầm lại và những giọng nói quen thuộc vang lên đầy kích động trong sân, và hai còi hụ vang lên từ xa đã bắt đầu hú to hơn. “Các con cần phải đi ngay. Sẽ không có ai trợ giúp đâu. Quân của ta và ta phải tìm ra dấu vết chiếc Salamander nếu chúng ta có thể, nên ta không thể ở lại cùng các con được. Trong thời gian đó, những Gã Số Mười vẫn đang đi lảng vảng tìm Constance, và có thể con bé sẽ dẫn chúng về thẳng đây. Và ta không thể để toàn bộ quân ở lại để bảo vệ các con tuyệt đối được.”
“Đưa chúng con đi cùng có nguy hiểm không bố?” Kate hỏi, cô bé thích được đối mặt trực tiếp hơn là trốn đi đâu đó mà không hề hay biết chuyện gì đang xảy ra.
“Tất cả mọi chuyện bây giờ đều mạo hiểm cả, bố e là vậy, nhưng việc nhất là chuyển các con đi, càng sớm càng tốt.”
“Còn bố mẹ con thì sao ạ?” Sticky bắt đầu.
“Họ sẽ đồng ý với ta. Dù sao thì ta cũng sẽ chuyển họ đi nữa. Nhưng điều chúng ta muốn trước nhất là các con tránh được nguy hiểm. Trong thời gian đó, Kate, đây là chìa khóa mở cánh cửa an toàn trong tầng hầm - nếu chúng ta bị nguy hiểm một lần nữa, các con sẽ có chỗ trú ẩn an toàn hơn.”
Chú Milligan phải hét lên câu cuối, vì tiếng còi hú đã vang lên ngay bên ngoài. Và tiếng om sòm chúng gây ra còn kéo dài một lúc lâu nữa, điều này biến những cuộc gặp gỡ trên sân của người lớn và trẻ con đầy tiếng hét ầm ĩ và các cử chỉ điệu bộ. Chỉ có bà Perumal - người gặp vấn đề về tai - là có vẻ không bị ảnh hưởng bởi những tiếng om sòm; bà đứng yên lặng xoa đầu Reynie, trong khi tất cả những người khác bịt tai lại và vò tóc. Cảnh sát và đặc vụ khoa chân múa tay ở khắp nơi; cư dân trong khu vực đổ ra đường ngó nghiêng; và ở tít trên cao chú chim Madge khích động bay lượn vòng quanh, giấc mơ đi săn chim bồ câu của nó bị cắt đứt ngang chừng một cách thô bạo.
Sau đó, đột nhiên, tất cả các còi xe cảnh sát tắt phụt và tiếng gầm rú của ngài Gaines vang vọng khắp hiện trường: “Vậy lúc đó ngài ở đâu, Benedict? Ngài nói cho tôi xem!”
Tiếng quát tháo vang lên từ sân sau - nơi ngài Benedict đã tập hợp lại cùng một số người khác để kiểm tra hiện trường. Câu trả lời của ngài bé quá không nghe thấy được và tiếng ồn ào, huyên náo ở sân trong lại nổi lên, tuy lần này có cường độ thấp hơn. Nhà Washington, nhà Perumal, và cả Moocho Brazos nữa - những người không tìm được Constance - đang tấn công bọn trẻ dồn dập bằng những câu hỏi và sự lo lắng về những điều đã xảy ra. Nhưng lũ trẻ, theo sự chỉ đạo của chú Milligan, né tránh các câu hỏi để trả lời sau, vì trên sân vẫn còn rất đông các đặc vụ, cảnh sát và những bảo vệ đang bị sốc.
Rhonda xuất hiện ở cửa trước với một chiếc đèn lồng. “Nào mọi người, nhanh lên,” cô nói và vẫy tay ra hiệu các gia đình vào trong. “Chúng ta phải sắp xếp một số chuyện.”
Cuộc thảo luận diễn ra bên ánh đèn lồng trong phòng giải lao, cách xa những đôi tai thám thính. Rhonda nói, trong vòng một tiếng nữa, một chiếc xe chống đạn sẽ đến và đư ngài Benedict cùng lũ trẻ đến đồn cảnh sát. Những người lái xe là người có thể tin cậy được; họ là những lính gác hàng đầu, được chính chú Milligan tuyển chọn. Một khi lũ trẻ đã được đưa đến nơi an toàn, các lính gác đó sẽ quay trở lại đón người lớn.”
“Tại sao lại là sở cảnh sát?” Cô Perumal hỏi.
“Dù sao thì ngài Benedict cũng phải đến đó,” Rhonda nói. “Chuyện đó đã được giải thích rõ ràng với chúng ta rồi. Chống cự chỉ tốn thêm thời gian thôi, và chúng ta không thể bỏ phí một giây nào hết. Chúng ta cũng không thể dùng nhiều hơn hai lái xe hay tin tưởng được bất cứ ai ngoài lính của chú Milligan cả. Sở cảnh sát khá an toàn và không xa lắm. Thậm chí nếu có tắc đường thì tất cả mọi người chúng ta cũng sẽ ở đó trong một vài tiếng nữa.”
“Thế còn Constance thì sao ạ?” Reynie hỏi.
Rhonda xoa xoa hai bên thái dương. “Con bé không ở nơi mà chúng ta hy vọng sẽ tìm thấy. Số Hai và chị sẽ ở đây để phòng con bé quay về, và Milligan sẽ tổ chức một cuộc tìm kiếm mới sau khi chú xác định được phải tìm Salamander ở đâu. Chú ấy sợ việc đó không thể thực hiện được - việc qua sông ấy - nhưng phải cố gắng thử. Nếu có bất kỳ cơ hội nào…”
Đến đây Rhonda tự ngăn mình lại, nhưng Reynie nhận ra rõ ràng cô đang khá tuyệt vọng. Tuy vậy, cô vẫn cố nặn ra một nụ cười khi chĩa đèn pin và bảo mọi người đóng gói đồ đạc để đi qua đêm. “Chỉ mang những gì thật cần thiết thôi,” cô nói trong lúc đi nhanh ra ngoài, “và gặp nhau tại đây trong vòng một tiếng nữa.”
Lũ trẻ khăng khăng nói rằng chúng muốn lên lầu để nói chuyện riêng với nhau. Trong lúc leo lên cầu thang tối om để đi vào bóng tối đen như mực bên trên, chúng thì thầm về giọng nói sợ hãi của Rhonda. Hóa ra đây không phải là cách tốt nhất để tăng thêm lòng dũng cảm, và trước khi chúng đi được nửa cầu thang, Reynie và Sticky đã muốn quay trở lại. Thậm chí Kate cũng có cảm giác nhột nhột đằng sau gáy, như thể cô bé đang bị theo dõi vậy. Kate chiếu đèn vào một số góc tối trống rỗng, sau đó cau mày đi tiếp trong lúc hai cậu con trai túm chặt lấy ngực và thở hổn hển.
“Tớ có cảm giác không thoải mái,” Kate nói khi chúng đã lên đến đầu cầu thang bọn mình nên đi cùng nhau khi thu dọn đồ đạc.”
“Nếu cậu muốn,” Reynie nói trong lúc quệt lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi vào áo sơ mi, và Sticky phát ra âm thanh yếu ớt nghe như tiếng thì thầm tán thành.
“Nhưng trước hết hãy xem qua phòng bí mật cái đã,” Kate nói rồi lao đi trước khi hai cậu kịp trả lời. Hai cậu liền vội vã đi theo ánh đèn lắc lư của Kate.
Trái với dự đoán của bọn trẻ, tiền sảnh vẫn nguyên vẹn, không có dấu vết ẩu đả, nhưng kỳ lạ là cửa phòng không ai canh giữ và bị mở toang. Điều tra nhanh cho thấy Gã Số Mười đã chiếu tia laser vào hai ổ khóa của cánh cửa. Chỉ cần vặn nắm đấm và đẩy mạnh một cái là xong. Và trong phòng, bên trên màn hình trang trí bị lật nhào có một chồng thiết bị trông có vẻ như trước đây chúng thuộc về Máy Thì Thầm.
“Nếu bọn mình không biết rõ từ trước,” Kate thì thầm trong lúc chiếu đèn pin lên đống hỗn độn đó, thì tớ sẽ nghĩ đó chính là Máy Thì Thầm.”
Sticky thở dài. “Cậu không ước đó chính là nó à? Lúc đó cả cơn ác mộng này sẽ kết thúc thay vì bắt đầu đấy.”
Từ “ác mộng” gợi cho Reynie nhớ đến Constance, ở đâu đó trong thành phố, chắc chắn lúc này cô bé đang nhìn chằm chằm vào bóng tối như thể cô vừa thức dậy từ những giấc mơ khủng khiếp.
“Các cậu có nghĩ con bé vẫn còn bối rối không?” Kate hỏi, rõ ràng là đang nghĩ y như Reynie.
“Có lẽ vậy,” Reynie nói. “Hoặc có lẽ con bé đã hết cảm giác đó rồi và đang ước giá như mình không tỉnh táo trở lại.”
“Không biết liệu con bé có biết rằng Gã Số Mười đang đi tìm nó không,” Sticky nói.
“Tớ không chịu nổi khi nghĩ đến điều đó,” Reynie nói và lắc đầu. “Ra khỏi đây thôi.”
Trong yên lặng buồn bã, bọn trẻ tìm đường ra sảnh chính nơi có các phòng ngủ. Chúng đến phòng con trai trước. Kate xoay nắm đấm cửa và lùi lại khi nghe thấy giọng một người trong phòng rên rỉ, “Cái gì thế? Ai vậy?”
“Đó là ông Bane,” Reynie tức tối nói, và sau khi nhận thấy cậu nói đúng, Kate mở toang cửa ra và chiếu đèn pin vào.