Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 14
NHỮNG MẬT MÃ CÓ THỂ GIẢI ĐƯỢC VÀ NHỮNG MANH MỐI CÓ THỂ TÌM RA
Lần này, mặc dù rất hoảng loạn nhưng Reynie vẫn nhớ để lại lời nhắn. Bằng vài lời nhanh gọn, cậu giải thích mọi chuyện với ngài Benedict và kẹp tờ giấy đó vào cùng tờ giấy của lão Curtain, rồi chạy ra khỏi cửa thư viện - ở đó cậu phải cố gắng lắm mới giải thích được với nhân viên bảo vệ đang sửng sốt nhìn cậu. Cậu bắt buộc phải tin người đàn ông đó vì không còn lựa chọn nào khác, và cậu chỉ nhờ rất đơn giản: Nếu có ai đến tìm lũ trẻ, ông làm ơn vui lòng đưa cho họ tờ giấy này và nói rằng sự việc rất khẩn cấp. Sau đó, đúng như Kate vừa mới làm cách đây vài phút, Reynie lao đi trước khi người đàn ô
ng đang bối rối đó kịp nói điều gì.
Sticky và Constance đang chờ ở đằng sau thư viện. Cậu đã bảo họ là cậu sẽ giải thích mọi chuyện, và cậu đã làm thế. Cậu vừa nói vừa thở hổn hển vì cả ba đứa đều đang chạy hết tốc lực. Hai đứa con trai thay nhau cõng Constance, và đôi lúc cô bé cũng tự chạy, nhưng tất cả đều biết rằng ngay cả khi cố hết sức thì chúng cũng không bao giờ đuổi kịp Kate. Chúng chỉ mong đuổi kịp cô bé trước khi mấy Gã Số Mười
Reynie hình dung ra tất cả những mảnh ghép của một câu nói mà trước đó cậu chưa từng biết là nó tồn tại. Mảnh đầu tiên là hành động kỳ lạ của ông Bane trên lầu: Bây giờ Reynie mới nhận ra rằng ông Bane đã chờ để nói chuyện riêng với chúng - và đặc biệt về chuyện Crawlings đi ra khỏi phòng Constance. Ông ta cần chắc chắn rằng chúng đi vào và phát hiện ra tờ giấy đã bị xé. Chắc chắn là bọn Gã Số Mười đã túm lấy ông ta và bắt ông ta làm việc đó.
Mảnh ghép thứ hai của câu đố chính là mảnh giấy: Phải, Crawlings đã bất cẩn - và Curtain có lẽ đã dự đoán rằng lũ trẻ biết điều đó - nhưng có thực sự là hắn đã để những lời nhắn đó lại trong thùng giấy lộn không? Sẽ là không nếu hắn không muốn bọn trẻ tìm ra.
Và sau đó là McCracken: Dường như hắn chẳng trông chờ sẽ tìm thấy thứ gì ở tòa nhà Thầy Tu. Thậm chí hắn còn chắc chắn là văn phòng đã bị tìm kiếm nên đó chỉ là “việc làm mang tính hình thức thôi. Nói cách khác, vụ tìm kiếm đó chỉ là lý do thể hiện là chúng đã từng ở đó, Reynie nghĩ. Nhưng lý do thật sự của chúng thì khác. Đó là lý do tại sao McCracken - một kẻ vốn cực kỳ cẩn thận - lại không phản đối gì khi Crawlings ném tờ giấy nhăn nhúm lại về phía văn phòng. Bản thân hắn còn ném phong bì xuống sàn nhà nữa.
Những mật mã có thể giải được và những manh mối có thể tìm ra. Mọi thứ đã được thực hiện có chủ ý.
Lão Curtain biết bọn trẻ như thế nào: biết chúng sẽ mạo hiểm ngăn cản nếu có cơ hội. Và vì thế, ông ta đã khôn ngoan và cẩn trọng cho chúng một cơ hội, thông qua một dấu vết mà chúng không thể cưỡng lại và phải lần theo. Không phải là chúng đã nghe lỏm được rằng lão Curtain đã có một kế hoạch khác để bắt chúng ư? Vậy thì đây chính là kế hoạch đó. Kate đang chạy thẳng vào cái bẫy, và bạn bè cô bé đang đuổi theo cô.
“Ông ta chẳng có gì để mất,” Reynie thở hổn hển khi chúng chạy xuống vỉa hè đông đúc và cố bám theo bức tường, “và có mọi thứ để chiếm - đó là cách ông ta nhìn nhận mọi việc - và nếu ông ta bắt được chúng ta, ông ta có thể sử dụng chúng ta để đạt được những điều mình muốn. Chẳng có lý do gì để mà không thử cả. Ông ta thậm chí còn chẳng phải chịu nguy hiểm gì“Vậy là bọn chúng muốn dụ dỗ chúng ta đến tòa nhà Thầy Tu, nhưng chúng lại không biết về phòng chờ ư?” Sticky hỏi, vẫn đang cố để hiểu những điều Reynie nói.
Reynie dừng lại để Sticky cõng Constance. “Nếu chúng biết,” cậu tiếp tục nói, “chúng đã tóm tụi mình ngay ở đó rồi, đúng không? McCracken có nói điều gì đó liên quan đến mái nhà - tớ nghĩ hắn đã bố trí cho những Gã Số Mười phục sẵn quanh tòa nhà để bắt chúng ta. Hắn mong là chúng ta sẽ xuất hiện trên đường. Và khi không thấy chúng ta, chúng biết cách để lại một manh mối khác đề phòng.”
“Nhưng nếu bọn mình bảo với ngài Benedict rồi thì sao?” Sticky hỏi.
“Ông Bane đã khiến cho chuyện đó càng rắc rối hơn, đúng không? Nhưng tớ chắc chắn là Curtain đã chuẩn bị trước cho khả năng đó. Có lẽ ông ta đã mong chờ chuyện đó cũng nên. Ông ta mong ngài Benedict cũng sẽ rơi vào bẫy, và đi thẳng vào cuộc phục kích của ông ta. Những chỉ dẫn đó không cho chúng ta nhiều thời gian để cân nhắc mọi thứ - chỉ đủ để chúng ta quyết định thật nhanh là lao đến hiện trường thôi.”
“Như Kate đã làm,” Sticky căng thẳng nói. Cậu xốc Constance cao hơn trên lưng. “Và cả bọn mình nữa.”
“Lần trước bọn mình chỉ may mắn thôi,” Reynie nói. “Bọn mình có thể dùng lối đi bí mật. Lần này bọn mình chỉ mong có đủ thời gian để đi trước một bước.”
Dù tụi nhỏ cần đi trước một bước như thế nào đi chăng nữa thì việc chạy trên vỉa hè đông đúc và cố bám lấy nhau cũng không dễ chút nào, và chẳng mấy chốc chúng đã phải dừng lại để thở. Chống tay lên đầu gối, Reynie nhìn lên biển chỉ đường. Chỉ còn cách quảng trường bốn tòa nhà nữa.
Bên cạnh cậu, Sticky đang định đặt Constance xuống thì cô bé hét lên, “Em thấy Crawlings và Garrotte!”
Sau cảm giác choáng váng, máu như dồn cả lên đầu, Reynie liền đứng thẳng dậy và nhìn theo ánh mắt của Constance. Ngay lập tức cậu nhận ra vài Gã Số Mười ở góc phố đối diện đang chuẩn bị bước xuống lề đường để lẩn vào dòng người đông đúc nói, vung văng những chiếc vali như thể đang đi để làm điều gì đó vui vẻ sau một ngày làm việc cật lực.
“Lối này!” Cậu nói sau khi nhìn quanh và đi về phía cổng ra vào của một tàu điện ngầm cách đó khoảng chục bước chân, và Sticky vụng về chạy sát theo.
“Chúng có nhìn thấy mình không?” Reynie hỏi khi đang lao xuống các bậc thang.
“Em không nghĩ vậy,” Constance đáp - cô bé vẫn đang ngoái lại đằng sau.
Trong bóng tối, Reynie lần mò và dừng lại ở điểm đỗ đầu tiên. Mắt cậu đang cố làm quen với bóng tối. Sticky thả Constance xuống cạnh mình và gập người xuống để thở. Bên dưới chúng, cách xa dòng ánh sáng chói lòa của hàng ngàn đèn pha, các bậc cầu thang dẫn xuống bóng tối sâu thăm thẳm. Chúng hoảng sợ ngước nhìn chằm chằm lên lối đi. Vài người đi qua, chen lấn và xô đẩy lẫn nhau, rồi Crawlings và Garrotte xuất hiện.
Reynie biết chúng gần như không thể nhìn xuống dưới này, đột nhiên cậu cảm thấy mình như nghe thấy tiếng những Gã Số Mười vang vọng xuống ga tàu, “Ồ bọn nhãi ranh! Bọn nhãi ranh đây rồi!” Tuy nhiên chúng thậm chí còn chẳng thèm nhìn về phía lũ trẻ, và một lúc sau đã khuất khỏi tầm nhìn.
Reynie dựa lưng vào tường. Sticky cúi đầu xuống sàn nhà. Trong một lúc, âm thanh duy nhất mà chúng tạo ra là những hơi thở nặng nhọc, và cảm giác duy nhất của chúng là sự nhẹ nhõm.
Sau đó Constance nói. “Chà, bây giờ thì bọn mình làm gì? Chúng đi trước chúng ta rồi!”
“Ồ không,” Sticky than vãn và cố dựng người dậy. “Anh vẫn chưa nghĩ đến điều đó. Bây giờ bọn mình làm gì?”
“Điểm dừng tiếp theo của tàu điện ngầm là quảng trường,” Reynie nói. Cậu hé mắt nhìn những bậc thang dẫn vào bóng tối. “Và dưới đó không có người. Thậm chí bọn mình có thể đi nhanh hơn cả trên đường phố.”
chạy qua đường hầm tối như hũ nút ấy á?” Constance hỏi. “Anh có bị mất trí không?”
“Anh đang bắt đầu cảm thấy như thế đấy,” Reynie nói. Cậu đã nhìn thấy một làn ánh sáng xanh mờ ở chân cầu thang, và không đợi bị phản đối, cậu chạy nhanh về phía đó. Đường hầm là hy vọng duy nhất của chúng, nhưng chỉ khi chúng đi ngay bây giờ - càng nhanh càng tốt.
“Đi nào,” Sticky túm lấy tay Constance và nói.
Ánh sáng xanh đó hóa ra là thanh ánh sáng khẩn cấp mà một nhân viên của hệ thống tàu điện ngầm mang theo. Đó là một người đàn ông xanh xao, gầy gò mặc bộ đồng phục trắng, và trong thứ ánh sáng lạ lùng đó, trông ông ta thật khủng khiếp và kỳ quái chẳng khác nào một con ma hiện hình trong bóng tối.
“Tàu điện ngầm đóng cửa rồi các cháu ạ,” ông ta nói khi lũ trẻ đến gần. “Bác là người duy nhất ở đây. Mà các cháu muốn tìm gì dưới này? Các cháu không biết là mất điện à? Tàu điện ngầm không chạy khi mất điện, các cháu biết đấy.”
“Chúng cháu có thể mượn cái thanh ánh sáng của bác được không ạ?” Reynie nói nhanh. “Chúng cháu sợ lắm, mà chúng cháu lại không có đèn pin.”
Người đàn ông băn khoăn xoay người nhìn về phía bóng tối mà mình vừa đi qua. “Có cả một hộp đèn như thế trên sân ga đấy. Vừa nãy bác vừa phân phát cho người qua đường. Nhưng nói thật với các cháu, ở dưới này tối quá làm bác phát sợ, và nếu các cháu không ngại...”
“Cảm ơn bác!” Sticky nói, và chộp nhanh lấy thanh ánh sáng và lao vào bóng tối cùng Reynie và Constance bám theo sát gót.
“Sao cơ? Ờ, ừ, bác sẽ... Bác sẽ chờ các cháu ở đây!” Người đàn ông gọi với theo chúng. “Bác sẽ lên đầu cầu thang, ở chỗ đó không tối lắm...”
Bỏ ngoài tai những lời ông ta nói, lũ trẻ liền chui đầu qua cánh cửa quay và đến chỗ sân ga, ở đó chúng tìm thấy một hộp thanh ánh sáng và tự lấy cho mình một cái. Sticky cúi thấp người còn Reynie hạ thấp Constance xuống người mình, hai tay cậu run bắn đến mức suýt làm rơi cô bé.
“Em thực sự không muốn làm việc này,” Constance nói và nhìn chằm chằm vào bóng tối.
“Cứ nói tiếp đi,” Sticky bảo. “Có lẽ như thế sẽ xua được lũ chuột đi đấy.”
Lối đi xuyên qua đường hầm tối om thực sự đáng sợ, thanh ánh sáng chúng cầm tỏa ra một thứ màu nhờ nhờ, kỳ quái, và những âm thanh không biết phát ra từ đâu cứ vang vọng lên trong bóng tối. Và khi vừa mới đi chưa được bao xa, chúng bất chợt đụng phải một con tàu bị bỏ lại - trông nó giống y như một con quái vật khổng lồ ẩn mình trong bóng đêm vậy - cả lũ gào rú lên ngay tức khắc. Sau đó chúng hoàn hồn lại và tiếp tục đi qua nó, đi qua hết toa xe không người này đến toa xe không người khác và e sợ bất cứ lúc nào cũng có người đang nhìn chúng qua ô cửa sổ - hay tệ hơn là nhảy ra túm lấy chúng. Nhưng chúng đã vượt qua được nỗi sợ hãi đó, và thực sự suốt dọc đường đến nhà ga quảng trường Ferund bọn trẻ không gặp bất kỳ bất trắc nào.
“Bọn mình căn giờ chuẩn đấy,” Reynie thở hổn hển khi lũ trẻ leo lên bậc cầu thang nhà ga. “Có lẽ bọn mình có cơ hội đấy!”
Bọn trẻ đã phác ra kế hoạch ngay trong lúc chạy, nên chúng không mất quá nhiều thời gian để ra đến đường phố. Reynie quỳ xuống để Sticky nhấc Constance lên vai cậu. Với sự giúp đỡ của Sticky, Reynie đứng lảo đảo cho đến khi Constance nhìn được khá rõ vào quảng trường. “Thấy gì không?” Cậu thở hổn hển. “Hay, kiểu như, cảm thấy gì không?”
Constance đang nhìn quanh. “Em không thấy. Nhưng ở đó đông lắm...”
“Bọn mình phải thử thôi,” Reynie hạ cô bé xuống và nói.
Bọn trẻ lao vào quảng trường và luồn lách qua đám người trên vỉa hè, liên tục ngoái lại nhìn phía sau, cố gắng hết sức để tìm được đường đến tòa nhà Pittfall. Tầng thượng trên cùng, với một phần cửa sổ rộng nhô ra mờ ảo dưới bầu trời đầy sao. Nó được thiết kế để cung cấp điểm nhìn tốt nhất tới quảng trường lịch sử - đủ cao để tầm mắt người xem không bị cản trở bởi những chướng ngại vật trên đường phố, nhưng cũng đủ thấp để giảm thiểu nhu cầu sử dụng kính viễn vọng. Nó cũng được thiết kế đặc biệt để làm một cái bẫy. Tầng thượng được bao học xung quanh nên chúng không thể hét lên cảnh báo Kate, và cũng chẳng thể nào nghe thấy tiếng kêu cứu phát ra từ bên trong.
Cuối cùng, trong khi tim đập thình thịch, chân rã rời và phổi bỏng rát vì hết hơi, Reynie, Constance và Sticky đã đến được cửa chính của tòa nhà Pittfall. Loại cửa này chỉ có thể được khóa bằng điện, và tòa nhà lại thường được mở đến tối muộn, nên chúng thường được mở toang mỗi khi mất điện như thế này.
Reynie thấy thế cũng tiện, nếu kẻ nào đó muốn giăng bẫy để bắt một cô bé bướng bỉnh. Trong lúc đi qua cánh cửa, dưới làn ánh sáng yếu của đèn khẩn cấp, có lẽ Kate đã nhìn thấy điều gì đó: biển chỉ dẫn viết tay ở bàn bảo vệ có dòng chữ “Tầng Quan Sát Đóng Cửa Cho Đến Khi Có Thông Báo Tiếp Theo” và một biển khác ghi “Đi Lấy Pin - Quay Lại Trong 15 Phút Nữa.” Trong khi Kate còn khá e sợ, thì Reynie đã nhận ra - không cần phải lén lút đi qua người bảo vệ hay bịa ra một lý do nào đó để đến khu quan sát. Cô bé có thể lao lên cầu thang và yên vị với chiếc ống nhòm của mình.
Reynie chạy nhanh về phía cầu thang, vừa bị thúc giục bởi sự cấp bách vừa như bị ngăn lại bởi nỗi mệt mỏi và sợ hãi mỗi lúc một tăng. Cả lũ đều mệt lử, song không còn thời gian để nghỉ nữa, ngay khi tìm được Kate chúng phải quay người và chạy ra ngay lập tức. Chúng có thể làm được điều đó không? Có nên tìm chỗ nào đó để trốn trong tòa nhà này không? Không, làm điều đó thì nhanh thôi, nhưng những Gã Số Mười chỉ cần khóa các lối ra vào và tìm kỹ từng tầng, từng tầng một. Chúng buộc phải đi ra ngoài.
“Em... không... chạy... nổi... nữa,” Constance thở hổn hển cách đó vài bậc cầu thang. Cô bé đang cố gắng hết sức, dùng cả hai tay và hai chân để bò lên, nhưng gần như không thể di chuyển nổi.
“Tớ sẽ ở đây cùng cô bé,” Sticky nói và vẫy cho Reynie đi tiếp. “Bọn tớ sẽ chờ các cậu ở đây. Nhanh lên!”
Reynie tiết kiệm sức lực nên không trả lời - cậu không được lãng phí một giây nào - chỉ cố chạy nhanh hết sức có thể. Chỉ còn hai mươi bước nữa thôi là đến tầng thứ hai, nhưng cậu như hàng trăm bước vậy. Và cuối cùng, cậu đã đứng trên tầng ba, nhìn chằm chằm vào cánh cửa dẫn đến phòng quan sát, biển hiệu được thắp sáng bởi một bóng đèn khẩn cấp. Cậu lấy lại tinh thần, xua đi suy nghĩ đáng sợ rằng có lẽ mình đã đến quá muộn - và mở toang cửa ra. Ngay lập tức một ánh đèn pin chiếu thẳng vào mắt cậu.
“Reynie!” Giọng Kate thì thào. “Cậu đang làm gì ở đây thế?”
“Một cái bẫy,” Reynie thở hổn hển. “Bọn mình phải...”
Cậu bị cắt ngang bởi tiếng hét, tiếng ẩu đả, tiếng gào lên của một gã nào đó trên bậc cầu thang. “Nó cắn tao! Con oắt hư đốn này cắn tao!” Và một gã khác cười và nói, “Cẩn thận một chút, Crawlings! Mày không bao giờ học được à? Lại đây, Sharpe, giúp tao đỡ ông Spectacles. Garrotte, cầm lấy cái này...” Kate hạ đèn pin xuống. Reynie có thể thấy đôi mắt to tròn của cô bé. Không cần phải giải thích gì thêm. Cậu lắc đầu bất lực và hoảng sợ. Chúng đến gần lắm rồi.
“Giấu cái này đi!” Kate rít lên và với tay vào giỏ. Cô bé đưa cho cậu cuộn dây vẫn còn đang buộc chặt và khi cậu vội vã nhét nó vào bên trong áo sơ mi, Kate cũng nhét cái gì đó vào túi áo ngực. Chiếc dao đa dụng Thụy Sĩ của cô bé. Sau đó cô bé lùi lại, hét lên, “Có chuyện gì thế, Reynie? Ai ngoài đó thế?”
Một bóng người khổng lồ xuất hiện sau ô cửa. Sàn nhà rung lên dưới sức nặng của hắn.
“Ồ bé yêu,” McCracken nói. “Ồ bé yêu, bé yêu. Không phải các cưng đang chờ bọn ta sao?”
“Nói tao nghe,” McCracken nói trong lúc đặt chiếc vali xuống, “bọn mày có để lại giấy nhắn cho bố mẹ biết bọn mày đi đâu không? Tao cho là bọn mày không được phép đến đây một mình.”
“Mày nghĩ cái quái quỷ gì thế?” Kate bực tức đến nỗi không nghĩ ra được câu trả lời nào cay độc hơn.
McCracken đập hai ngón tay vào nhau. “Tao nghĩ gì ư? Tao nghĩ chúng ta nên đi ngay khỏi đây. Nhưng trước hết hãy làm quen nhau một chút đã.”
Những Gã Số Mười khác đi vào, mang theo những tù binh của mình, Constance vẫn đang vật lộn, cắn xé Sharpe và Garrotte, hai hàm răng cô bé va vào nhau côm cốp, trong khi mỗi gã cũng cố túm lấy một bên vai Constance. Chân lơ lửng cách sàn nhà vài centimet, Constance vẫn đang đá loạn xạ một cách vô ích. Về phần mình, Sticky ủ rũ tự đi một mình. Đằng sau cậu là Crawlings với khuôn mặt giận dữ điên cuồng, hắn đang mút mút ngón tay cái vừa bị Constance cắn hệt như một đứa trẻ ba tuổi khổng lồ sắp nổi cơn thịnh nộ.
“Constance, bé yêu,” McCracken nói, “nếu mày không dừng việc cố gắng cắn bạn tao, tao e rằng bọn tao sẽ bắt mày ngủ đấy.”
Constance quắc mắt nhìn hắn và thôi ngọ nguậy. McCracken phá lên cười toe toét, “À, tốt hơn rất nhiều rồi đấy!”
“Tôi thấy anh đã hoàn thành xong việc chỉnh lại răng lợi ngon lành rồi nhỉ?” Kate mỉa mai, vì cô bé nhớ (mà không hài lòng tí nào) rằng McCracken đã bị rơi răng trong lần đụng độ gần đây nhất với Milligan.
“Lời nhận xét khá xấc xược đấy,” McCracken vẫn cười toe toét nói. Hắn lấy lưỡi đẩy một cái răng cửa ra; nó bung ra và rơi thẳng vào tay hắn. Lấy hai ngón tay lăn lăn cái răng, McCracken bước lại để cho Kate xem đường răng cưa sắc bé tí tẹo đang nhô ra ở rìa. Hắn giơ cái răng thẳng vào mặt Kate nhưng cô bé chẳng thèm quay mặt đi. Kate nhướng một bên mày, cố gắng hết sức tỏ ra thờ ơ.
McCracken gật đầu và thôi không lăn cái răng nữa. “Nha khoa kiểu chợ đen thôi,” hắn nói khi cái răng lại được khớp vào. “Mày nên ngạc nhiên mới đúng. Bây giờ thì, cục cưng, tao muốn mày hạ cái giỏ xuống, lộn các túi ra, và đưa giày của mày đây. Mày quên là tao đã biết mày là một cô gái thông minh như thế nào à?”
Chống cự chỉ vô ích - lại còn đau đớn nữa - và Kate làm đúng như lời hắn bảo. McCracken kiểm tra giày của cô bé và ném lại cho cô. “Đưa cho tao cả cái thắt lưng nữa,” hắn nói, mắt thận trọng săm soi cái thắt lưng. Sau cùng, khi đã hài lòng, hắn đưa giỏ và thắt lưng của Kate cho Crawlings và nói, “Tốt lắm, lũ nhóc con,
“Chúng ta sẽ đi đâu?” Reynie hỏi. Cậu đang cố vạch ra một kế hoạch nếu có thể moi được thông tin gì từ McCracken...
McCracken nhìn cậu chăm chú. “Lạy chúa tôi, trông mày có vẻ sợ hãi, Reynie ạ. Mày đang lo về những điều khủng khiếp chúng ta sẽ làm ư?” Hắn cúi về phía trước và nói bằng giọng thì thầm, ngân nga như kiểu đang chỉ dẫn cho một đứa con nít bé tí vậy. “Điều mà mày cần lo lắng, Reynie ạ, không phải là bọn ta sẽ làm những chuyện gì, mà là khi nào bọn tao sẽ làm. Và câu trả lời, nếu bọn mày ngoan ngoãn, là ‘có lẽ là không bao giờ.’ Nhưng nếu bọn mày hư đốn một chút, thì câu trả lời là ‘ngay bây giờ.’ Bọn mày hiểu chưa?”
Reynie nuốt vào và gật đầu. Những Gã Số Mười khác cười phá lên.
“Ngài Curtain muốn bọn mày tỉnh táo và bình tĩnh khi bọn tao đưa chúng mày đi,” McCracken nói. “Nhưng bọn tao được phép dùng khăn mặt để lau cái mũi bé nhỏ của bọn mày nếu tình huống cần phải làm thế.”
Lúc đó Reynie không biết phải làm gì, và những Gã Số Mười nhanh và mạnh đến nỗi lũ trẻ bị xô xuống cầu thang, đi ra khỏi cửa hậu và chui vào trong một chiếc xe tải đang chờ sẵn trước khi kịp nghĩ ra điều gì để cưỡng lại. Sau đó cửa đóng sập lại, và lúc đó thì đã quá muộn.
“Tên tao là Garrotte và tao sẽ lái xe đưa bọn mày đi hôm nay,” Garrotte nói và cười ranh mãnh khi McCracken chui vào ghế trước. Những tên ngồi ở hàng ghế sau cùng lũ trẻ cười thầm. “Đừng quên thắt dây an toàn! Chúng ta sẽ có một chuyến đi an toàn và thoải mái.”
“Bọn mày cũng có thể thoải mái, các cưng ạ,” Sharpe lầm bầm trong lúc gấp kính lại và nhắm mắt. “Bọn tao sẽ lái xe lòng vòng xem sao.”
Té ra cái sự “một chút” mà Sharpe nói có nghĩa là vài tiếng đồng hồ khốn khổ, như trải dài đến vô tận, lũ trẻ không được phép di chuyển hay nói chuyện khi chiếc xe tải bò quanh đường phố đang tắc nghẽn. Và trong lúc đó những Gã Số Mười tỏ ra cực kỳ thoải mái. Chúng ngồi bình tĩnh, thư giãn, đôi khi ngủ lơ mơ (mặc dù không bao giờ chúng ngủ cùng một lúc), đôi lúc còn nói chuyện thật nhã nhặn nữa. Thỉnh thoảng một gã sẽ nhướng lên để ngó qua cửa sổ ở đằng sau xe tải, sau đó lại ngồi xuống và mỉm cười tự mãn.
Reynie dành phần đầu tiên trong chuyến đi dài này để cố gắng bình tĩnh lại và nghĩ ra một kế hoạch, nhưng cậu gặp rắc rối với cả hai. Thần kinh cậu căng ra như dây đàn; tâm trí rã rời; thân thể rũ rượi. Nhưng sau hơn một tiếng tìm kiếm những điều khả quan, Reynie đột nhiên có một suy nghĩ tích cực - hoàn cảnh của chúng giờ rất thảm hại, nhưng đây không phải là một cơ hội hay sao? Suy cho cùng, chúng đang bị đưa đến chỗ lão Curtain, và ngài Benedict muốn tìm lão Curtain.
Reynie bắt đầu cảm thấy hứng khởi. Nếu cậu chú ý quan sát nơi mình đang được đưa đến, sau đó tìm cách báo cho ngài Benedict - phải có cách nào đó chứ - tình thế sẽ được đảo lộn. Không những chúng được cứu mà cuối cùng lão Curtain cũng sẽ bị tóm!
Ý nghĩ đó làm Reynie vui mừng liếc nhìn xung quanh để cho bạn bè thấy vẻ hứng khởi của mình. Việc phát hiện ra cả lũ đều đang ngủ gật khiến cậu suýt nữa thì phì cười. Dù có trải qua bao nhiêu chuyện đi chăng nữa thì cũng khó có thể tưởng tượng là chúng lại có thể ngủ được lúc này. Và sau đó, không đến một phút, Reynie cũng khó lòng cưỡng lại cơn buồn ngủ. Cậu thấy mình thật thảm hại, tù túng và hoảng sợ.
Thời gian trôi đi thật kỳ lạ xen lẫn những giấc mơ lạ lùng mà Reynie gặp khi ngủ và những cơn ác mộng thực sự mà cậu phải đối diện mỗi lần tỉnh dậy. Nhưng rồi, rốt cuộc, chuyến đi cũng kết thúc; chiếc xe tải dừng ở một nơi lâu hơn bình thường, Reynie để ý điều này và cảnh giác hơn. Dù đã ngồi trong xe nhiều giờ, chúng vẫn ở trung tâm thành phố; qua cửa kính cao ở đằng sau xe cậu có thể thấy một đèn giao thông ở xa. Nhưng có thứ gì đó đã thay đổi, và sau một thoáng cậu nhận ra đó là gì. Đèn giao thông có màu đỏ. Điện đã có trở lại. Và bóng đêm tối đặc bất thường đã nhường chỗ cho ánh bình minh màu xám.
“Chào buổi sáng các tình yêu,” Sharpe ngáp dài trong lúc đặt lại kính và gãi đầu. Hắn xịt bình làm sạch hơi thở vào miệng và mỉm cười ngái ngủ với lũ trẻ vẫn còn đang díp mắt vì buồn ngủ.
Ở đằng trước xe tải, điện đàm của McCracken hoạt động, và có một giọng đàn ông - Reynie nhận ra giọng nói đó với một cơn rùng mình - nói, “Tình trạng các anh
“Chúng tôi đã đưa hàng về an toàn và đang chờ lệnh,” McCracken nói.
Giọng hân hoan của lão Curtain không thể lẫn vào đâu được mặc dù đã phát qua điện đàm. “Các anh đưa hàng về an toàn ư? Xác nhận đi - các anh đưa hàng về an toàn ư?”
“Xác nhận,” McCracken nói và cười. “Chúng tôi thực sự đã đưa hàng về an toàn.”
“Vậy thì về căn cứ ngay lập tức!” Lão Curtain hét lên, sau đó là tiếng rít lên mà người khác có thể nghĩ là tiếng nhiễu sóng, nhưng Reynie nhận ra đó là tiếng cười của lão Curtain.
McCracken nhét điện đàm vào túi áo khoác và gật đầu với Garrotte, gã này ngay lập tức ngoặt lên vỉa hè và đi vào một gara ô tô rồi phóng đến chỗ trống ở hàng đầu tiên. Garrotte và Crawlings nhảy ra khỏi xe, tay ôm những cái hộp. Ngay lập tức có một tiếng đập lớn trên đầu, và một âm thanh sột soạt kéo dài khá giống với tiếng một người đang xé băng dính. Trong lúc đó, McCracken và Sharpe đang lấy ra những mảnh vải bịt mắt và buộc chúng quanh mắt lũ trẻ - vậy là hy vọng của Reynie đã tan thành mây khói. Như thế là hết hy vọng để biết chúng đang ở đâu.
“Lệnh của ngài Curtain,” McCracken nói với giọng điệu giả đò tử tế. “Một người không bao giờ có thể quá cẩn thận.”
Garrotte và Crawlings trở lại xe. “Đến giờ rồi,” Garrotte gọi với lại đằng sau đầy hồ hởi. “Nghe cái này nhé.” Hắn bật công tắc, và tiếng còi báo động bắt đầu vang lên. Những Gã Số Mười đã ngụy trang chiếc xe tải thành một chiếc xe cấp cứu.
Với tiếng còi hụ, chiếc xe có thể di chuyển liên tục khắp thành phố, thỉnh thoảng mới bị chậm lại nhưng không bao giờ dừng hẳn, cho đến khi đã thoát ra khỏi giao thông đông đúc, còi báo động mới được tắt đi. Bây giờ chiếc xe tải đang đi rất nhanh; bánh xe của nó nghiến trên đường cao tốc. Nhưng cao tốc nào? Và dẫn đi đâu? Reynie băn khoăn.
“Thỏ con,” McCracken nói với ai đó, “tốt nhất là mày nên thôi vặn vẹo lông mày đi. Nếu cái khăn bịt mắt đó tuột ra, mày sẽ rất hối h
Đó hẳn là Kate, Reynie nghĩ. Cậu mong rằng cô bé sẽ làm như lời chúng nói. Chúng đã dính vào vụ rắc rối này quá sâu rồi, và Reynie không nghĩ được cách nào để thoát ra cả.