Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 15

CÁ MẬP VÀ CON MỒI

Chúng lái xe đi trong yên lặng. Mặc dù sự sợ hãi về những điều phía trước ngày một tăng dần, nhưng lũ trẻ vẫn mong mỏi cho chuyến đi sớm kết thúc. Chúng đang cực kỳ khó chịu và khát nước vì đã ngồi quá lâu dưới ánh nắng mặt trời chiếu gay gắt thẳng vào mắt. Constance cố gắng tạo ra những âm thanh khô khan, kèn kẹt và chép miệng cho đến khi Crawlings bảo con bé dừng lại.

“Garrotte,” Sharpe nói, “bật đài lên được không? Tao tò mò muốn biết người ta nói gì về vụ tối qua.”

Garrotte bật đài lên. Lũ trẻ dỏng tai lên. Một phát thanh viên tin tức đang nói đầy hứng khởi:

“... toàn thành phố! Một lần nữa, đó là một màn trình diễn tuyệt vời của công nghệ năng suất cao, Martha ạ, và vai trò lãnh đạo của Jim Pressius. Thậm chí các tua-bin còn chưa được nối với hệ thống dây điện, nhưng các kỹ thuật viên của Pressius đã thực hiện được một phép màu chỉ qua một đêm.

“Đó đúng là một kỳ tích, John ạ! Và vì lợi ích của những người vừa mới bật đài lên, anh có thể nhắc lại một cách ngắn gọn những gì anh vừa biết được về nguồn năng lượng mới ở Thành phố Đá không?”

“Được chứ, chà, ngay sau vụ nổ kinh hoàng của hệ thống máy tính điều khiển mạng điện thành phố, ngài Jim Pressius, một doanh nhân giàu có, đã xung phong cung cấp một nguồn năng lượng thay thế khẩn cấp. Có vẻ như ngài Pressius sở hữu một hệ thống tua-bin thủy lực do ngài Curtain sáng chế - một nhà khoa học và một nhà giáo dục nổi tiếng. Các tua-bin được đặt tại Bến cảng Thành phố Đá - nhân đây, Vệ Binh Quốc Gia đã được điều động ngay lập tức để bảo vệ chúng ờ có những nỗ lực khẩn cấp của ngài Pressius và các chuyên gia của ông, họ đã bắt đầu cung cấp năng lượng cho Thành phố Đá ngay trước bình minh. Tất cả những thông tin này được lấy từ một thông cáo chính thức của chính phủ, Martha ạ, thông cáo này được đưa ra sau khi hệ thống thông tin liên lạc được phục hồi cách đây khoảng hai mươi phút.”

“Và bây giờ vẫn chưa có lời giải thích nào cho việc liên lạc bị cắt đứt ư?”

“Không may thay, vẫn chưa có. Rõ ràng là nó có liên quan đến vụ mất điện, nhưng chính quyền chưa giải thích được. Thực ra, theo ngài Pressius, chỉ có một nhà khoa học duy nhất trên thế giới với tầm hiểu biết sầu rộng về lĩnh vực độ dị thường của năng lượng và các dạng sóng vô hình mới có thể giải thích được chuyện gì đã xảy ra, nhờ đó có thể ngăn chặn được nguy cơ chuyện đó tái diễn - và đó là người bạn của ông ấy - ngài Curtain.”

Lũ trẻ hụt hơi. Có đúng là chuyện này đang diễn ra theo hướng mà chúng phỏng đoán không?

“Tôi sẽ nhắc nhở các thính giả của chúng ta rằng ngài Curtain là người đã phát minh ra các tua-bin thủy lực,” người phụ nữ dẫn chương trình nói. “Vậy ngài Curtain có liên quan gì đến chuyện này không, John?”

“Có lẽ là không, Martha ạ. Ông ấy là một cá nhân nổi tiếng về sự riêng tư, sống rất ẩn dật, và thực ra nơi ở hiện nay của ông vẫn là điều bí mật. Các thính giả của chúng ta có thể nhớ lại rằng Học viện danh tiếng của ông ấy đã đóng cửa cách đây hơn một năm một cách bí ẩn... “

“Với chúng ta thì chẳng có gì bí mật cả!” Kate gầm gừ, không thể kiểm soát nổi mình.

“Im nào, mèo con,” McCracken thì thầm.

“... sự liên quan được viện ra của ông ta đến hoạt động tội phạm có thể xảy ra?...”

“Được viện ra!” Kate cáu bẳn lầm bầm. “Có thể xảy ra!”

“Ta sẽ không nhắc lần nữa đâu,” nói. “Bọn tao đang thưởng thức chương trình.”

“... như anh đã nói, John, và theo dõi những tiến triển mới trong khi chính phủ tìm cách liên lạc với ngài Curtain. Trong thời gian đó, chúng tôi đang nhận được rất nhiều báo cáo về các hoạt động tội phạm có thật xảy ra do vụ mất điện, có đúng không?”

“Phải, đúng vậy, Martha ạ. Hình như những tên trộm cướp đã có một ngày bội thu - à không, một đêm bội thu - ở Thành phố Đá trong suốt những giờ dài lê thê, tối đen và tĩnh lặng...”

Theo yêu cầu của McCracken, Garrotte chuyển kênh khác xem người ta nói gì trên đài. Tất cả đều giống nhau: quả là một đêm kinh hoàng; nỗi sợ hãi rằng chuyện đó sẽ xảy ra lần nữa đang dâng lên; ông Pressius là một công dân anh hùng; và một nhu cầu bức thiết cần tìm ra nơi ở và sự tư vấn của nhà khoa học ưu tú Ledroptha Curtain.

Giọng nói trên đài cứ thao thao bất tuyệt, và Reynie thì đang bị đau đầu khủng khiếp. Sức nóng của ánh mặt trời gay gắt tàn nhẫn còn bị nhân lên khi xuyên qua ô cửa sổ, thậm chí mắt đã nhắm chặt và có vải che, cậu vẫn có thể cảm nhận được hơi nóng của nó trên mặt mình. Cậu không dám lấy tay che mắt vì sợ những Gã Số Mười sẽ nghĩ rằng cậu đang cố tháo khăn bịt mắt ra, và khi cậu cố thay đổi vị trí, Sharpe sẽ lập tức yêu cầu cậu ngồi yên. Nhưng cậu không màng quan tâm tới sự khó chịu về thân thể, vì cậu thấy khá rõ điều lão Curtain đang mong đạt được - thêm nữa mọi chuyện đang diễn ra theo đúng kế hoạch.

“Hoạt động tội phạm có khả năng xảy ra” của lão Curtain luôn luôn được phân cấp. Dân chúng chẳng hề biết gì về chuyện đó, và hầu hết những người trong chính phủ biết chuyện đó lại chỉ chấp nhận những điều mà cấp trên nói với họ. Nếu chỉ có một vài quan chức cấp cao thay đổi quan điểm thì tội lỗi của lão Curtain cũng sẽ được phơi bày. Dù sao thì chứng cứ quan trọng nhất trong vụ liên quan đến ông ta - chính là Máy Thì Thầm - đã được cho là bị phá hủy rồi. Việc một số người, bao gồm cả lũ trẻ, biết chuyện gì đã thực sự xảy ra với Máy Thì Thầm cũng chẳng còn quan trọng nữa vì những người này đang bị xử lý.

Sau khoảng gần một tiếng đi trên đường cao tốc, chiếc xe tắt máy, đi quanh co trên con đường vòng vèo trong khoảng năm phút gì đó, rồi cuối cùng cũng dừng lại. “Chúng tôi đến nơi rồi,” McCracken nói vào bộ đàm.

“Tôi thấy rồi,” một giọng đàn ông đáp. “Chúng tôi sẽ mở cửa.”

Sau đó một âm thanh rầm rầm, loảng xoảng vang lên như kiểu một cánh cổng lớn hay một cây cầu treo đang được mở ra, một số tiếng chửi thề và chế nhạo vang lên từ những Gã Số Mười khác về việc đỗ xe của Garrotte, cánh cửa xe tải mở tung ra và lũ trẻ bị tống xuống. Nhờ có tiếng khóc nhè không ngớt của Constance, chúng được đưa lên cầu thang của một tòa nhà để được uống nước và đi vệ sinh. Nhưng mãi đến khi bị tóm vào một căn phòng sáng và trơ trọi chúng mới được tháo khăn bịt mắt. Những Gã Số Mười xô mạnh chúng vào trong rồi rút ra cửa.

Điều đầu tiên đập vào mắt lũ trẻ là lão Curtain. Vẻ bề ngoài của ông ta làm chúng giật mình, vì mặc dù bọn Gã Số Mười đã nói đùa không ngớt, chưa ai từng được nghe giọng hay một chứng cứ nào cho thấy sự hiện diện của ngài. Nhưng ông ta ở đây với chiến công lừng lẫy, vẻ ngoài y chang ngài Benedict trừ nét mặt kiêu ngạo, mái tóc trắng được chải chuốt cẩn thận và những họa tiết hơi khác trên bộ quần áo màu xanh lục. Ông ta đang ngồi xổm trên ghế của chiếc xe lăn, cẳng tay đặt trên đầu gối - và ông ta đang lặng lẽ đi quanh lũ trẻ như thể một con cá mập đang đi vòng quanh những con mồi. Đôi mắt màu xanh lục lạnh lẽo chiếu tướng hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác. Ông ta liếm môi, rồi ấn chúng thật mạnh vào nhau, cố nặn ra một nụ cười nhạt thếch. Trong khi chiếc xe lăn của ông ta hoàn toàn không gây ra chút tiếng động nào.

Ông ta đi vòng quanh chúng một, hai, rồi ba lần, điều khiển chiếc xe lăn một cách tài tình bằng một chiếc điều khiển cầm tay. Curtain tiến lại gần đến nỗi ông ta có thể với tay ra và cào chúng một cách dễ dàng - có lẽ ông ta sẽ làm thế, Reynie nghĩ; cậu có khả năng cảm nhận được ai đó đang chuẩn bị làm một việc kinh khủng nào đó - và đáng lo ngại hơn, lũ trẻ cảm thấy mình như chìm vào quả bóng yên lặng kỳ lạ do chiếc xe lăn tạo ra. (Kate đang nhíu mày bực tức, buông ra một lời nhận xét gắt gỏng mà chẳng ai chú ý, trong khi đó Sticky lại biết ơn vì không ai nghe thấy tiếng cậu khóc thút thít.) Và Curtain vẫn đi lòng vòng xung quanh.

Dù không phản ứng được gì, nhưng chúng cũng cố che đi sự sợ hãi - điều mà chúng nghi là lão Curtain đang mong đợi, và sau vòng xe thứ năm hay sáu gì đó, chúng thôi không ngoái đầu lại nhìn ông ta mỗi khi ông ta đi vòng ra sau chúng. Nhìn thẳng về phía trước, lũ trẻ cố chịu đựng hành động kỳ quái và đáng sợ đó với chút điềm tĩnh ít ỏ

Reynie nhân cơ hội đó quan sát những đặc điểm nhạt nhẽo, cố định của căn phòng: Những tủ sách kim loại to lớn trống rỗng đứng tựa vào ba bức tường mà cậu có thể nhìn thấy, những giá sách bám đầy bụi; một chiếc bàn (trống rỗng và bụi không kém) kê bên cạnh một trong số những giá sách đó; mọi thứ trông hơi xô lệch một chút - đồ đạc có vẻ như đã bị đẩy vào tường để lấy diện tích. Đằng sau chúng, cậu biết, là cánh cửa mà chúng vừa mới bước vào; ngoài ra căn phòng hình như không còn lối ra nào nữa. (Thậm chí là cả với Kate, thật bất hạnh làm sao - trần nhà trát vữa, công tơ lò sưởi quá nhỏ để bò qua.) Việc trang trí và mảng bụi cho thấy đây chỉ là một văn phòng tầm thường đã bị bỏ hoang khá lâu rồi.

Lão Curtain lượn trước mặt chúng đến lần thứ bảy, thứ tám, thì tiếng cười bắt đầu sang sảng (chứ không phải cố nặn ra nữa). Reynie lo lắng liếc nhìn ông ta rồi lại nhanh chóng quay đi chỗ khác. Ai mà biết được gã điên này đang toan tính chuyện gì? Ông ta đang cố làm chúng phân tâm ư? Hay làm chúng hoang mang?

Chiếc xe lăn thêm một vòng nữa. Lần đầu tiên Reynie nhận thấy nó thật trống rỗng.

“Hù!” Curtain hú lên ở ngay đằng sau chúng, và lũ trẻ gần như mất vía. Chúng quay lại và thấy ông ta đang đứng thẳng người, liếc mắt thâm hiểm nhìn chúng. Sung sướng trước khuôn mặt thất kinh của chúng, ông ta phá lên một tràng cười the thé và lúc lắc ngón tay trước mặt.

“Bọn mày thấy chưa?” Curtain nói khi chiếc xe lăn chạy lại chỗ ông ta. “Nếu bọn mày đã quá quen thuộc và tự mãn với một điều gì đó, bọn mày sẽ dễ sơ hở lắm. Ta e rằng bọn trẻ ranh chúng mày thường nghĩ may mắn tự rơi vào tay mình - và quá chủ quan vì điều đó. Giống y như Benedict. Tất nhiên không phải là ta đang phàn nàn gì. Tính toán của bọn mày rất có ích cho ta.”

“Đây là văn phòng mới của ông à?” Kate vừa nói vừa liếc nhìn xung quanh. “Lạnh lẽo, bẩn thỉu và trống rỗng - tôi nghĩ nó rất hợp với ông đấy.”

Nụ cười của lão Curtain phai dần. Từ ngoài cửa vang lên tiếng cười thầm vội nén lại. Curtain liếc nhìn mấy Gã Số Mười (Crawlings đang nhìn chằm chằm xuống chân), sau đó thò tay vào áo và lấy ra một đôi găng tay bằng bạc sáng lóa. Trước cảnh tượng đó lũ trẻ do dự và lùi lại, chúng nh lại rất rõ cảm giác khi bị chạm vào. “Cô Wetherall,” Curtain nói khi đeo đôi găng tay vào, “cô có nghe thấy điều ta nói về việc quá chủ quan không?”

“Ngài Curtain! Thưa ngài Curtain!” Một giọng quen thuộc hét lên, và người lao qua mấy Gã Số Mười vào căn phòng không ai khác chính là S.Q. Pedalian. “Chiếc xe tải ở đây!”

Lão Curtain quắc mắt và quay về phía ông ta, vẫy tay. “Tất nhiên là chiếc xe ở đây rồi, S.Q.! Nhìn xung quanh ngươi xem - ngươi thấy gì nào? Nào? Ngươi chạy qua ai để vào căn phòng này nào? Không phải họ là những người chúng ta muốn quay trở về trong chiếc xe ư? Và lũ oắt con đang đứng trước mặt ta là ai đây? Chúng không phải là người ta muốn được đưa về trên chiếc xe tải ư?”

S.Q. chớp mắt và nhìn sang mấy Gã Số Mười đang cười khúc khích. “Tôi... tôi xin lỗi, thưa ngài. Tôi chỉ thấy rất vui khi tôi thấy nó, và...” Anh ta gật đầu chào lũ trẻ, rồi quay đi chỗ khác. “Chuyện này sẽ không xảy ra nữa đâu, tôi hứa.”

Lão Curtain đảo mắt đầy bực tức. “Tất nhiên là không rồi, đồ ngốc! Làm sao mà xảy ra tiếp được?” Ông ta giơ một tay lên để chặn lời S.Q. “Đừng cố trả lời câu đó.” Ông ta lắc đầu nhìn đôi găng tay của mình rồi thở dài và chậm chạp tháo chúng ra. “Và bây giờ, nhờ có sự xen ngang của ngươi, ta không còn thấy hứng thú sử dụng những thứ này nữa. Có lẽ để sau vậy.”

Kate nhìn S.Q. đầy biết ơn, nhưng anh ta không để ý ánh mắt cô bé. Cô bé vẫn còn nhớ như in lần gần đây họ gặp nhau. S.Q. bị ngài Benedict và lũ trẻ lừa gạt và S.Q. đã thực sự buồn rầu. Không cần biết sự đau buồn của anh ta là do nỗi sợ hãi trước cơn tức giận của lão Curtain hay điều gì khác, đó là sự lừa dối mà anh ta đáng phải nếm trải, và Kate không biết lúc này ông ta cảm thấy thế nào. Nếu cô bé không hiểu rõ sự việc, cô bé hẳn đã nghĩ rằng hành động ngớ ngẩn của anh ta là một mưu mẹo nhằm giúp cô bé thoát khỏi những chiếc găng tay bằng bạc đó.

Nhưng có đúng là cô bé hiểu rõ không? Khi lão Curtain tháo những chiếc găng tay ra và trèo lên chiếc xe lăn, Kate để ý khuôn mặt nhẹ nhàng, bình thản của anh ta. Thực sự anh ta đang nghĩ gì? Anh ta trông vẫn giống như trước, mặc dù có lẽ anh ta hơi lênh khênh hơn một chút nhưng chắc chắn cũng có béo hơn - và đôi bốt đeo trên đôi chân quá khổ của anh ta đã lộ rõ những đường chỉ sờn; chắc chắn là anh ta cần một đôi mới rồi. Nhưng giờ đây Kate ứa khác đã biết bí mật đen tối của lão Curtain; chúng biết làm thế nào mà ông ta có thể điều khiển được bản chất tốt đẹp của S.Q. Thời gian trôi đi nên phải chăng S.Q. đã bắt đầu vượt ra khỏi tầm ảnh hưởng của ông ta?

Nếu vậy, cung cách khúm núm của anh ta không để lộ ra điều đó. Không những thế, anh ta còn tỏ ra rất hân hạnh được làm lão Curtain hài lòng, hoặc chí ít là tránh né cơn phẫn nộ của lão. Ngay cả một người luôn luôn lạc quan như Kate cũng phải thừa nhận về sự trung thành của S.Q. đối với Curtain. Chắc chắn là chúng không thể trông đợi vào sự giúp đỡ của anh ta rồi.

“Ta không muốn bất kỳ sự cắt ngang nào nữa đâu,” lão Curtain nói. “Ta khuyên các ngươi nên im lặng, trừ khi ta cho phép. Hiểu chưa hả?”

Kate và hai thằng con trai gật đầu. Constance định nói điều gì đó nhưng Kate đã nhanh nhẹn bịt miệng cô bé.

Lão Curtain cười tự mãn. “Tốt hơn rất nhiều rồi. Ta thích sự yên tĩnh hơn.” Lão lùi chiếc xe lăn lại, khoanh chân đầy khoan khoái, và nói không to hơn tiếng thì thầm là bao khiến bọn trẻ phải cúi xuống và căng tai ra nghe.

“Đây là những điều ta trông đợi ở các ngươi. Các ngươi sẽ ngồi yên lặng trong phòng này, không được gây ra bất kỳ rắc rối nào, nếu không sẽ bị trừng phạt ngay lập tức. Rồi các ngươi sẽ được tiếp tế thức ăn, nên đừng đòi hỏi gì cả. Cả việc vào nhà tắm cũng thế. Khôn ngoan hơn cả là nằm im trên sàn nhà, nhắm mắt và ngậm miệng lại.”

Ngài Curtain chằm chằm nhìn chúng một lúc lâu để chắc chắn là chúng hiểu. Sau đó ông ta ngồi lên xe lăn và phóng ra khỏi cửa, di chuyển với tốc độ và sức mạnh lớn đến mức nếu những Gã Số Mười không dè chừng từ trước và né sang một bên, chúng sẽ bị húc y như những chai bowling. Chúng nháy mắt cười với nhau, rồi đi theo chủ nhân ra ngoài, theo sau là S.Q. đang nhanh chóng đóng và khóa cửa lại mà không thèm nhìn lũ trẻ nửa cái liếc mắt.

Ngay khi cánh cửa đóng lại, Kate quay sang những đứa khác thì thào, “Tớ xin lỗi! Đúng ra tớ nên chờ để Reynie nghĩ mọi chuyện cho thông suốt. Nếu tớ làm thế thì bọn mình đã không rơi vào tình cảnh rối ren này. Tớ nên nói điều này sớm hơn nhưng bọn mình không được ở một mình. Ôi, tất cả chuyện này là do lỗi của tớ

“Thôi quên đi,” Reynie nói. “Cậu chỉ muốn ngăn lão Curtain lại thôi mà. Tất cả bọn mình đều thế.”

“Thực ra thì bây giờ tớ vẫn muốn mà,” Sticky nói. “Trước khi ông ta... ừm, làm bất cứ điều gì với tụi mình.”

Constance ngủ gần như suốt chuyến đi, giờ vẫn đang ngả nghiêng và cực kỳ cáu gắt. Cô bé đáp lại lời xin lỗi của Kate bằng cách ngâm nga:

Thân kẹt trong xe giống chim lồng

Ngồi bên Sát Thủ tức cả hông

Bao tiếng trôi qua trong đói mệt

Rồi Curtain cũng xích vào gông...

Và chị nói là chị xin lỗi ư? Chị nghĩ chỉ xin lỗi là xong à?”

“Constance!” Reynie rầy la, còn Sticky thất vọng nhìn cô bé.

Kate cắn lưỡi. Suốt mấy tháng qua, cuối cùng cô cũng đã nghĩ ra một lời đáp có vần để đối phó với Constance (tìm được cụm từ “remonstrance” - sự quở trách để vần với “Constance”), và cô bé rất muốn được sử dụng nó. Nhưng lần nào sử dụng cũng không đúng dịp, và cô chỉ nhẹ nhàng nói, “Xin lỗi lúc này có ích mà, bé Connie.”

Constance cảm thấy xấu hổ và cố kìm lại cơn giận của mình bằng cách ngồi xuống sàn nhà và lấy tay che mắt. Sự việc xảy ra trong vài phút gần đây dường như đã quá ầm ĩ và phiền não, nên lúc này cô bé chỉ ước mình có thể trốn trong mai như một con rùa.

Kate quay sang hai cậu con trai. “Vậy hai cậu nghĩ ông ta sẽ làm gì với tụi mình? Tại sao ông ta lại bảo với những Gã Số Mười rằng ông ta muốn bọn mình tỉnh táo

“Ông ta muốn đổi chác chúng ta lấy thứ gì đó, đúng không?” Reynie nói. “Tớ nghĩ ông ta muốn cho ngài Benedict thấy bọn mình chưa bị quét não. Bằng cách đó ông ta có thể đe dọa sẽ dùng Máy Thì Thầm với tụi mình nếu ngài Benedict không đưa cho ông ta thứ ông ta muốn.”

“Vậy là ông ta muốn bọn mình có thể chứng minh được rằng bọn mình vẫn còn trí nhớ ư?” Kate nói. “Chao ôi, ông ta thật thông minh! Chà, đoán thử xem? Nếu chuyện xảy ra như vậy, tớ sẽ giả vờ là đã bị quét não để chọc tức ông ta!”

“Đừng để chuyện đó xảy ra,” Reynie nói và đi đến chỗ công tắc đèn. “Bọn mình cần phải thoát khỏi đây.”

“Vậy cậu... sắp tắt đèn ư?” Sticky bối rối hỏi.

“Tớ đang tìm cửa sổ,” Reynie nói và xoay công tắc. Điện tắt, nhưng căn phòng không tối hẳn - một làn ánh sáng mặt trời mờ nhạt lọt qua đằng sau một trong số những tủ sách kim loại to tướng. “Bọn mình cần phải di chuyển cái tủ sách đó,” cậu nói và bật đèn trở lại.

Kate chạy lại để kiểm tra tủ sách. “Nặng lắm đấy,” cô bé thì thầm. “Kéo nó ra sẽ rất ồn ào. Dù sao thì bọn mình cũng muốn để nó trở lại vị trí thật nhanh. Nào, giúp tớ đẩy cái bàn nào.”

Hai đứa con trai một đầu, mình Kate một đầu (Constance bỏ tay ra khỏi mắt để quan sát), chúng bê chiếc bàn ra chỗ Kate muốn. Sau đó, di chuyển chậm rãi và cực kỳ cẩn trọng, chúng kéo nghiêng cái tủ sách về đằng trước cho đến khi nó chạm vào chiếc bàn. Những giá kim loại rung lên nhưng chỉ hơi chòng chành một chút, và sau một lúc lắng nghe đầy căng thẳng, lũ trẻ quyết định rằng không ai vào để kiểm tra chúng cả. Túm tụm lại khoảng không hẹp đằng sau tủ sách nằm nghiêng, lũ trẻ dòm vào một cửa sổ lớn, phủ đầy bụi mà chúng vừa phát hiện ra.

Tầm nhìn không khả quan cho lắm. Ba tầng bên dưới chúng có vẻ lạnh lẽo, sân sau thưa thớt cỏ dại đã úa vàng và xung quanh nhà là bốn bức tường gạch bao quanh. Các chái nhà được cơi nới ra này đều giống nhau, với mái bằng cùng các hàng cửa sổ dài và bẩn thỉu. Cách bố trí như vậy gợi Reynie nghĩ đến một bệnh viện mà cậu đã từng đến một lần, và gợi Sticky nhớ đến một khu văn phòng u ám nơi mẹ cậu từng làm. Nhưng không có dấu hiệu rõ ràng nào cho thấy nơi này là đâu - hay trước đây từng là gì. Thứ duy nhất có vẻ chắc chắn là nó đã bị bỏ hoang khá lâu rồi.

“Cậu nghĩ sao?” Reynie thì thầm với Kate. “Tớ vẫn cầm sợi dây của cậu.”

Kate đang nghển cổ lên nhìn tứ phía. “Hay đấy, nhưng nó không có ích cho lắm. Bọn mình ở trên cao quá.” Cô bé nghiên cứu mái nhà dọc sân sau để tìm manh mối về mái nhà ngay phía trên chúng, sau đó lắc đầu. “Không có cách nào hay để trèo lên cả - thậm chí cả máng xối nước cũng không có, chỉ có các ống nước cũ kỹ thôi. Mặc dù...” Cô bé cau mày. “Không, chẳng có gì đâu, cách đó cũng không được.”

“Cậu định nói gì cơ?” Sticky hỏi. “Có lẽ nếu bọn tớ nghe thấy điều đó...”

“Không, thật đấy. Không được đâu.”

Có vẻ như Kate rất ít khi từ chối việc gì đó, nhất lại là từ chối không thảo luận. Mọi người nhìn cô bé đầy thắc mắc. Với kẻ thù, cô bé có thể là một kẻ lừa đảo lão luyện, nhưng với bạn bè, cũng khá là dễ để hiểu.

“Cậu đang cố giấu điều gì thế, Kate?” Reynie hỏi. “Có chuyện gì thế?”

Kate đã đi khỏi cửa sổ như thể chấp nhận bó tay bất lực.

“Chị ấy nghĩ chị ấy có thể trốn được!” Constance hét lên, cô bé nhìn chăm chú gương mặt tư lự của Kate.

Sau vài giây sửng sốt, Kate nhanh chóng bình tĩnh lại, song không giấu nổi gương mặt xấu hổ của mình. Trông chẳng khác nào lúc Kate bị bắt quả tang ăn trộm vậy!

“Đúng không, Kate?” Sticky hỏi, cậu bé giương cặp mắt tròn xoe hỏi. “Nhưng chuyện đó tuyệt mà! Sao cậu không bảo bọn tớ?”

Kate lắc đầu, lông mày nhíu lại đầy cau có. xin lỗi - Tớ không tự ngăn mình được! Tớ không thể ngăn các ý tưởng lại, đúng không? Tớ không định...”

Reynie định hỏi Kate xem cậu đang nói về chuyện gì - hình như Kate đã hiểu sai ý câu hỏi của Sticky - thì đột nhiên cậu hiểu ra. Kate tin rằng cô bé có thể trốn thoát, nhưng cả bọn thì không. Và cô bé không có ý định để bạn bè lại một mình. Cô bé xấu hổ ngay cả khi nghĩ về điều đó.

“Kate,” Reynie nói nhanh, “nghe này, cậu phải làm điều đó! Nếu cậu nghĩ cậu làm được, cậu phải làm - đó là cơ hội tốt nhất của chúng ta! Cậu có thể tìm ra nơi bọn mình đang ở, rồi tìm cách quay về chỗ ngài Benedict và những người khác nữa. Họ sẽ biết cách cứu chúng ta, cậu hiểu không?”

Kate lừ đừ nhảy trên mũi bàn chân, khuôn mặt đầy buồn bã. (Thực ra trông cô bé giống như người đang rất muốn dùng nhà vệ sinh.) “Ồ, tất nhiên là tớ hiểu, Reynie ạ! Nhưng làm thế nào mà...? Không, tớ không thể làm thế!”

Sticky túm lấy tay cô bé. “Được, cậu làm được, Kate ạ. Cậu có thể và cậu sẽ làm được. Đừng lo cho bọn tớ, bọn tớ sẽ ổn cả thôi nhưng chỉ khi cậu đi tìm sự trợ giúp!”

Hiếm có khi nào Sticky nói mạnh mẽ như vậy, và Kate hơi chùn bước một chút. Cô bé đứng chớp mắt nhìn cậu một lúc, rồi khe khẽ gật đầu. “Cậu nói đúng. Tớ... tớ biết các cậu có thể xoay xở mà không có tớ, tất nhiên rồi, và... được rồi. Tớ sẽ đi.”

Sau khi quyết định, Kate lại trở về là một cô bé hiếu động như ngày thường. Lấy lại sợi dây và chiếc dao đa dụng Thụy Sĩ từ Reynie, cô bé quấn sợi dây quanh bụng, lấy áo sơ mi che nó đi và mở một lưỡi dao ngắn. Để ý thấy cửa sổ được sơn kín lại, cô bắt đầu lần quanh cửa sổ và dùng những nhát cắt chính xác, khéo léo để cắt qua lớp sơn.

Trong lúc Sticky và Constance đứng nhìn Kate, thì Reynie quan sát Sticky. Sau khi hùng hồn nói với Kate, trông Reynie bồn chồn hơn bao giờ hết; thực ra cậu đang rầu rĩ nhìn Kate như thể cậu sẽ không bao giờ gặp lại cô bé nữa; và Reynie choáng váng khi nhận ra một điều. Sticky đang cố gắng hết sức để thuyết phục Kate, không phải vì cậu nghĩ rằng Kate có thể cứu được chúng mà đơn giản là vì cậu hy vọng cô bé có thể tự cứu mình

Và cậu ấy cũng đã nói một điều hoàn toàn đúng đắn nữa, Reynie nghĩ. Cậu ấy biết cô bé cần hiểu rằng bọn mình sẽ ổn.

Reynie quay đi, cảm thấy vừa tự hào về bạn mình, vừa lo lắng cho sự an nguy của Kate, và cũng e ngại sự lo sợ của Sticky, rằng có lẽ chúng sẽ không bao giờ được gặp lại Kate nữa. Cậu bắt đầu đi lại trong phòng, ngoảnh mặt đi chỗ khác. Kate cần phải đi ngay lập tức bởi cô bé không nên bị phân tán. Vậy nên Reynie đi đi lại lại, và trong lúc đó các suy nghĩ của cậu cứ xoay quanh cuộc trốn thoát của Kate. Biết đâu có ai đang nhìn ra một trong số các cửa sổ kia thì sao? Biết đâu cô ấy sẽ cố phá vỡ một cánh cửa sổ và tháo chốt ra để trốn khỏi cái sân sau đó thì sao? Cô ấy có thể lặng lẽ làm điều đó được không? Và cô ấy định xuống mảnh sân sau đó bằng cách nào cơ chứ? Reynie nghĩ đi nghĩ lại những câu hỏi đó, cho đến khi cậu bị phân tâm đến mức Constance phải gọi tên hai lần cậu mới để ý.

“Căng tai ra đi, Reynie,” cô bé nói. “Kate sẵn sàng rồi!”

Reynie quay người lại và thấy những đứa khác đang nhìn mình. Kate đã mở cửa sổ và, hình như, đã nói tạm biệt với Sticky và Constance. Dù có chút bối rối, cô bé đang gắng tự tin nhìn cậu chăm chú, và Reynie không thể không mỉm cười đáp lại. Cậu chạy lại và ôm lấy cô bé.

“Cẩn thận nhé,” cậu nói.

Kate nháy mắt. “Cậu biết tớ rồi mà.”

Và với câu nói đó. Kate nhảy ra khỏi cửa sổ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3