Chiếc Rìu - Chương 19
19
Kho báu.
Giàu có ngoài sức tưởng tượng. Cậu không thể tin nổi khi thấy những đồ vật có trong túi cứu sinh.
Đêm trước đó cậu đã cứng đờ vì mệt mỏi và cậu không thể làm gì khác hơn là ngủ. Cả ngày dưới nước đã vắt kiệt sức cậu như thế, cuối cùng thì cậu đã ngồi ngủ gục dựa vào vách lán, không còn cảm giác gì nữa, kể cả với lũ muỗi, với trời đêm, hay bất cứ thứ gì. Nhưng khi ánh bình minh xám nhạt lên cậu chợt tỉnh giấc, và cậu bắt đầu thọc tay vào cái túi - để thấy được sự kỳ diệu, những thứ tuyệt vời.
Có một cái túi ngủ - cậu treo nó lên trên mái lán cho khô - và một tấm đệm ngủ. Một bộ nồi đun bằng nhôm gồm bốn chiếc nồi nhỏ và hai cái chảo rán; thậm chí còn có cả một chiếc nĩa, con dao và cả thìa nữa. Một hộp không ngấm nước đựng diêm và hai chiếc bật lửa ga nhỏ. Một con dao găm với chiếc la bàn trên tay cầm. Có vẻ như chiếc la bàn có thể giúp được cậu, cậu nghĩ, và mỉm cười. Một túi cứu thương với gạc và những ống thuốc khử trùng cùng vài chiếc kéo nhỏ. Một chiếc mũ lưỡi trai phía trước in hoa chữ CESSNA. Tại sao lại có chiếc mũ nhỉ? Cậu tự nhủ. Nó rất vừa và cậu đội ngay nó lên. Một bộ câu cá gồm bốn cuộn dây, một tá móc câu nhỏ, lưỡi câu và chì lưới.
Sự giàu sang không thể tin nổi. Ở đây cứ như thể đang diễn ra tất cả lễ hội trên thế giới, tất cả những buổi tiệc sinh nhật vậy. Cậu ngồi dưới ánh nắng sát lối vào nơi tối hôm trước cậu đã ngủ thiếp đi, và lôi ra những tặng phẩm - cậu nghĩ về chúng như thế - lôi chúng ra để ngắm nhìn, xoay lật chúng trong ánh nắng, sờ chúng và cảm nhận chúng bằng cả đôi tay và đôi mắt.
Điều gì đó làm cho cậu bối rối. Cậu lôi ra một thứ có vẻ đã bị hỏng, một khẩu súng trường cồng kềnh và cậu đã toan đặt nó sang bên cạnh, nghĩ rằng trong túi chắc phải có đồ vật khác, thì khi lắc súng cậu nghe thấy tiếng kêu lách cách. Sau khi vọc vạch khẩu súng một lúc, cậu thấy cái nắp phía sau báng súng rơi ra, trong đó có một nòng súng, một quyển sách hướng dẫn sử dụng, một cái nạp đạn và một hộp đầy chứa năm mươi viên đạn. Đó là một khẩu súng trường 22 li - cậu đã từng nhìn thấy một khẩu thế này trong cửa hàng bán đồ thể thao khi cậu đi mua phụ tùng xe đạp - và nòng súng được gắn chặt trên báng. Cậu chưa từng sở hữu súng trường, chưa từng bắn một phát súng nào, nhưng cậu đã trông thấy chúng trên ti vi, dĩ nhiên rồi, sau một hồi nghiên cứu cậu tìm ra cách để lắp ráp chúng với nhau bằng cách vặn theo bảng chỉ dẫn, cách nạp đạn và lên đầy đạn để bắn.
Đó là một cảm giác rất lạ, cầm khẩu súng trường ấy. Chẳng hiểu sao việc đó đã tách cậu ra khỏi mọi vật xung quanh. Không có súng thì cậu phải thích nghi với hoàn cảnh, là một phần của hoàn cảnh ấy, phải hiểu nó và biết tận dụng nó - khu rừng này, tất cả mọi thứ. Với khẩu súng trường, đột nhiên, cậu không cần biết nữa; không cần phải sợ hay phải hiểu. Cậu không cần phải tiến gần tới con chim đần độn để giết nó, không cần biết rằng nó sẽ đứng im khi cậu không nhìn nó và di chuyển phía bên hông nó.
Khẩu súng đã thay đổi cậu, ngay từ giây phút cậu cầm nó lên, và cậu không chắc mình có thích sự thay đổi này lắm không. Cậu đặt nó bên cạnh, đặt nó tựa vào vách lán một cách cẩn thận. Cậu có thể suy nghĩ về cảm giác đó sau. Ngọn lửa đã tắt thế là cậu dùng một chiếc bật lửa ga và một mẩu vỏ cây bulô cùng với vài cành nhỏ để nhóm bếp - kinh ngạc về sự đơn giản quá đỗi nhưng đồng thời cảm giác đó lại quay về, rằng chiếc bật lửa bằng cách nào đó đã kéo cậu khỏi nơi cậu đang ở, và những gì cậu phải học. Với ngọn lửa có sẵn, cậu không cần phải biết cách làm tổ mồi lửa, hoặc làm thế nào để giữ cho bếp lửa mới này cháy suốt. Và cũng như với khẩu súng trường, cậu không chắc là cậu thích sự thay đổi này.
Vừa vui vừa buồn, cậu nghĩ. Cái túi thật tuyệt nhưng nó làm cậu vừa vui vừa buồn.
Với ngọn lửa đang cháy bập bùng tỏa ra làn khói đen và tiếng tí tách đều đều của một khúc củi thơm nồng, cậu quay lại nhìn cái túi lần nữa. Lục tay vào mấy túi đựng thức ăn - cậu vẫn chưa lôi chúng ra vì cậu muốn để dành chúng cho đến lúc cuối, để được vui sướng tột đỉnh - bất chợt cậu nhìn thấy một đồ điện tử nhỏ được bọc kín trong túi nhựa. Lúc đầu cậu nghĩ đó là một chiếc radio hay một chiếc đài băng nhỏ và cậu tràn đầy hy vọng vì cậu nhớ âm nhạc, cậu nhớ âm thanh và cậu thèm được nghe giọng nói của người khác. Nhưng khi cậu mở cái túi nhựa và lấy vật đó ra ngoài, lật nó lên xem, cậu biết rằng đấy không phải là một cái đài. Có một cuộn dây được quấn lại ở phía bên bằng băng dính và cậu gỡ băng dính thì một chiếc ăng ten ba chân dài bật ra. Không micro, không đèn hiệu, chỉ một cái công tắc nhỏ phía trên, và ở phía dưới, cậu đọc thấy một dòng chữ in nhỏ:
Máy phát tín hiệu khẩn cấp.
Chính là nó. Cậu bật công tắc lên xuống vài lần nhưng không có điều gì xảy ra - thậm chí cậu còn không nghe thấy tiếng nhiễu khí quyển - vậy nên, cũng như với khẩu súng trường, cậu dựa nó vào vách lán và quay lại với cái túi. Có thể nó đã bị hỏng bởi vụ va chạm, cậu nghĩ.
Hai bánh xà phòng.
Cậu tắm rửa thường xuyên ở hồ nhưng không có xà phòng và cậu nghĩ thật là tuyệt vời khi dùng nó để gội đầu. Tóc đã trở nên dày cộm bụi bẩn và khói muội, cong queo bởi gió và nắng, dính bết mỡ cá và mỡ chim, tóc cậu đã dài ra và rối tung, mọc dài cho tới khi nó trở thành một mớ lùm xùm phía trên đầu cậu. Cậu có thể dùng chiếc kéo trong túi cứu thương để cắt tóc rồi sau đó gội bằng xà phòng.
Và rồi, cuối cùng là thức ăn.
Tất cả là đồ khô và với số lượng mà cậu nghĩ, với chừng đó cậu có thể sống mãi mãi. Cậu lôi ra hết túi này đến túi kia, thịt bò cho bữa chính cùng với khoai tây, pho mát và mì cho bữa chính, thịt gà cho bữa chính, trứng và khoai tây cho bữa sáng, nước hoa quả, sinh tố, những bữa tráng miệng, thêm nhiều bữa ăn chính và bữa ăn sáng hơn cả cậu có thể đếm, hàng chục hàng chục bữa ăn như vậy, tất cả được gói trong những cái túi không thấm nước, tất cả đều trông hoàn hảo và khi cậu lấy chúng ra, xếp thành chồng ở vách lán, cậu không thể không ngắm nghía chúng một lần nữa.
Nếu mình cẩn thận, cậu nghĩ, chúng sẽ để được lâu tới... tới chừng nào mà mình muốn. Nếu mình cẩn thận... Không. Hãy khoan. Mình chưa cần phải cẩn thận. Đầu tiên mình phải có một bữa tiệc. Ngay tại nơi đây và ngay lúc này, mình sẽ làm một bữa tiệc và sẽ đánh chén, cho tới khi mệt nhoài, rồi sau đó mình sẽ cẩn thận.
Cậu kiểm lại các túi thức ăn một lần nữa và chọn lựa những đồ mà cậu muốn cho bữa tiệc: thịt bò và khoai tây đủ cho bốn người làm món chính, với nước cam để khai vị và cái gì đó gọi là kem đào để tráng miệng. Chỉ cần thêm nước, trên bao bì ghi vậy, và đun trong khoảng nửa giờ đồng hồ gì đấy cho tới khi chúng có kích thước như thường thấy và thế là hoàn tất.
Brian ra hồ lấy nước vào một trong những chiếc ấm nhôm và quay lại chỗ bếp lửa. Chỉ có vậy cũng đủ làm cậu vui sướng - mang nước từ hồ vào bếp lửa bằng một cái ấm. Thật là một thao tác đơn giản vậy mà cậu đã không thể làm như vậy trong suốt gần hai tháng qua. Cậu áng chừng định lượng và đặt thịt bò cho bữa chính cùng đào làm đồ tráng miệng lên trên bếp đun, rồi quay lại hồ lấy nước trộn với nước cam.
Nó thật ngọt và thơm - mỗi tội hơi ngọt quá - nhưng ngon đến nỗi cậu không uống vội mà ngậm nó trong miệng và dùng lưỡi để nếm hương vị. Nếm nếm xung quanh, mút vào và đẩy ra, nuốt và rồi lại tiếp tục như thế.
Thế này, cậu nghĩ, vậy chỉ mới vừa. Chỉ mới vừa bụng. Cậu đi lấy thêm nước và trộn thêm một lượng mới và uống ừng ực, rồi tiếp tục lần thứ ba, và cậu ngồi gần đống lửa nhưng mắt hướng ra phía hồ, nghĩ rằng mùi thơm của thịt bò đang sôi mới phong phú làm sao. Có vị tỏi và một vài hương vị khác được ướp trong thịt và những mùi thơm này vây quanh cậu, làm cậu nhớ đến ngôi nhà của mình, nhớ đến mẹ đang nấu ăn, hương thơm ngào ngạt gian bếp, và ngay chính giây khắc đó, với hình ảnh ngôi nhà và mùi vị thức ăn đang lấp đầy tâm trí cậu, chiếc máy bay xuất hiện.
Cậu chỉ được cảnh tỉnh đúng một chớp nhoáng. Có tiếng o o nhỏ nhưng cũng như lần trước, nó không đọng vào tâm trí cậu, rồi đột nhiên, tiếng gầm rú ngay sát trên đầu cậu và phía sau dãy đá một chiếc máy bay dân sự hoàn toàn phá tan cuộc sống im lặng của cậu.
Nó bay thẳng hướng về phía cậu, rất thấp, liệng một bên cánh gần sát phần đuôi của chiếc máy bay đang chìm dưới hồ, giảm lực, bay tà tà dọc theo cạnh dài của hồ nước chữ L, rồi quay lại và lượn xuống, nhẹ nhàng chạm lên mặt nước một lần, hai lần, và trượt trên mặt nước làm nước tóe lên rồi dừng lại, những chiếc phao của máy bay chạm nhẹ vào bờ ngay phía trước lán của Brian.
Cậu không hề cử động. Tất cả diễn ra quá nhanh đến nỗi cậu không hề cử động. Cậu ngồi yên tay vẫn cầm chai nước cam, nhìn chằm chằm vào chiếc máy bay, vẫn chưa hoàn toàn hiểu được chuyện gì đang xảy ra; chưa hiểu được mọi chuyện sắp kết thúc.
Viên phi công tắt máy, mở cửa và nhảy ra ngoài, lấy thăng bằng và đi trên chiếc phao để nhảy lên bờ mà không bị ướt chân. Ông ta đeo một chiếc kính râm và ông tháo kính ra để nhìn Brian.
“Chú nghe thấy tiếng tín hiệu khẩn cấp của cháu - và rồi chú nhìn thấy chiếc máy bay kia khi bay ngang qua...” Ông ta cất lời, hếch đầu lên, nhìn chăm chú vào Brian. “Trời, cháu là cậu bé ấy phải không? Cháu là đứa trẻ đó. Họ đã ngừng tìm kiếm, một tháng, không, gần hai tháng trước. Cháu chính là cậu bé đó, đúng không? Cháu là đứa trẻ đó...”
Giờ Brian đứng dậy nhưng vẫn im lặng, vẫn cầm chai nước. Lưỡi cậu như mắc kẹt vào vòm miệng phía trên và cổ họng của cậu không hoạt động. Cậu nhìn viên phi công, và chiếc máy bay, rồi nhìn xuống mình - vừa bẩn vừa rách rưới, cháy xạm, gầy còm và rắn chắc - và cậu ho một tiếng để làm cho họng thông thoát.
“Tên cháu là Brian Robeson,” cậu nói. Rồi cậu nhận ra món thịt hầm đã chín, cả món đào tráng miệng nữa, và cậu vẫy vẫy tay. “Chú có muốn ăn một chút gì không?”
Phần kết
Viên phi công đã đột ngột đáp máy bay xuống hồ ấy - một người thu mua lông thú đang đi hoạch định sơ đồ trại săn bắt của người Cree cho những thương vụ tới - đã nhận được tín hiệu phát đi khi Brian vô tình bật máy phát tín hiệu khẩn cấp lên và để mặc nó tiếp tục. Người Cree tới khu trại vào mùa thu và mùa đông để săn bắt còn các thương lái bay từ trại này qua trại khác theo lộ trình nhất định.
Khi viên phi công cứu được Brian thì cậu bé đã ở một mình bên hồ nước hình chữ L được năm mươi tư ngày. Trong suốt khoảng thời gian đó cậu đã mất 17% trọng lượng cơ thể. Về sau cậu đã lấy lại được 6%, nhưng gần như không béo được - cơ thể cậu đã tiêu thụ toàn bộ phần trọng lượng thừa và cậu vẫn gầy mảnh dẻo dai như vậy trong nhiều năm.
Có rất nhiều sự thay đổi rồi đây sẽ tồn tại mãi mãi. Brian đã có được một khả năng rất tốt trong việc quan sát những gì đang xảy ra và đối phó lại nó; điều đó sẽ theo suốt cuộc đời cậu. Cậu cũng đã trở nên chín chắn hơn, và từ đó trở đi cậu luôn suy nghĩ thấu đáo trước mỗi lời nói.
Thức ăn, tất cả các loại thức ăn, kể cả những thứ cậu không thích, chưa bao giờ mất đi sự quý giá đối với cậu. Rất nhiều năm sau khi được cứu thoát, cậu luôn thấy mình dừng lại trước quầy thực phẩm chỉ để nhìn lên các giá thức ăn, thích thú trước số lượng và chủng loại.
Có rất nhiều câu hỏi trong đầu cậu về những gì cậu nhìn thấy và học được, thế nên cậu tiếp tục nghiên cứu khi cậu trở lại nhà, nhận dạng những thứ liên quan và các quả mọng. Quả đào dại còn gọi là anh đào rừng, làm mứt rất ngon. Bụi cây hạch nơi con chim đần độn trốn là bụi cây hạt dẻ. Hai giống thỏ là thỏ chân trắng và thỏ đuôi bông; con chim đần độn là gà gô trắng cổ khoang (chúng cũng được thợ săn gọi là bọn gà đần độn, vì sự ngốc nghếch của chúng); loại cá nhỏ cậu ăn là cá mang xanh, cá thái dương, cá rô; trứng rùa là của loài rùa đớp nước ngọt, đúng như cậu nghĩ; con sói là một loại sói xám, loại này chưa từng được ghi nhận là có tấn công hay quấy rối con người, con nai sừng đúng là con nai sừng rồi.
Và cả những giấc mơ nữa - cậu có rất nhiều giấc mơ về cái hồ nước sau khi cậu được cứu thoát. Chính phủ Canada đã huy động một đội tới vớt xác viên phi công và họ cũng gửi nhà báo tới đó, những người đến đó để chụp ảnh và làm phim về toàn bộ khu vực cậu cắm trại, cái lán - tất cả. Trong một khoảng thời gian ngắn cánh báo chí viết rất nhiều về Brian và cậu cũng được một số kênh thông tin mời phỏng vấn nhưng sự náo nhiệt đó nguội tắt sau vài tháng. Một nhà văn mới nổi tìm đến bảo muốn viết một cuốn sách về “cuộc thám hiểm trọn vẹn” (ông ta gọi nó như vậy) nhưng hóa ra ông ta là kẻ mộng mơ và rốt cuộc tất cả chỉ là những buổi nói chuyện. Nhưng dù sao Brian cũng được tặng một vài bức hình và cuốn băng, và việc ngắm nhìn chúng dường như khơi gợi những giấc mơ. Đó không phải những cơn ác mộng, không có giấc mơ nào khủng khiếp cả, nhưng đôi khi chúng vẫn làm cậu tỉnh giấc, tỉnh rụi và ngồi dậy nghĩ về hồ nước, khu rừng, đống lửa trong đêm, tiếng chim hót và tiếng cá nhảy - ngồi một mình trong bóng tối và nghĩ về chúng, chúng không phải những điều tồi tệ, đối với cậu, chúng chưa bao giờ tồi tệ.
Những dự đoán, cho hầu hết mọi việc, đều là vô tích sự; nhưng có thể sẽ là điều thú vị để xem xét chuyện giả sử như Brian không được giải thoát lúc đó, giả sử như cậu phải ở đó trong tiết thu lạnh lẽo, có thể là mùa đông nữa, chắc chắn điều đó rất nghiệt ngã đối với cậu. Khi hồ nước bị đóng băng thì cậu sẽ không còn cá để ăn, và khi tuyết rơi nhiều thì cậu cũng không thể đi lại được. Những thử thách của mùa thu có vẻ như rất nhiều (để xem lá rụng lìa cành thì đơn giản hơn) nhưng khi mùa đông tới mới thực sự khốc liệt và đôi khi đơn giản là không thể tồn tại khi mà những loài thú rừng (cáo, linh miêu, sói, cú, chồn, chồn ăn thịt, chim nhạn, chó sói Bắc Mỹ) càn quét cả vùng và xóa sổ mọi vật. Thật kinh ngạc là một con cú có thể chén sạch toàn bộ gà gô trắng cổ khoang và thỏ của một vùng chỉ trong vài tháng.
Sau giai đoạn ban đầu mừng vui hạnh phúc và bất ngờ của bố mẹ cậu khi biết cậu còn sống - trong một tuần trông có vẻ như họ sẽ quay lại với nhau - nhưng mọi thứ lại trở lại như cũ rất nhanh chóng. Bố cậu trở về những giếng dầu ở phía Bắc, nơi mà Brian rốt cuộc đã đến thăm được, và mẹ cậu sống ở thành phố, tiếp tục sự nghiệp bất động sản của bà, và tiếp tục qua lại với người đàn ông trong chiếc xe ô tô đó.
Brian đã thử vài lần nói chuyện với bố cậu, đã có lần suýt nói ra, nhưng cuối cùng cậu không bao giờ nói về người đàn ông đó hay những gì cậu biết, Bí mật đó.
HẾT