Én Liệng Truông Mây - Hồi 22 - Phần 1

HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI

Châu Doãn Thành tự vận trả nợ xưa

Lam Tiểu Muội cắt đầu tên dượng ghẻ

Lía phóng ngựa trở lại núi Bích Khê. Chàng định bụng sẽ ngủ lại nơi ngôi mộ qua đêm nhưng sực nhớ bên cạnh am nhỏ của sư tổ có dòng suối nên phóng ngựa lên núi, xuống suối để tắm rửa. Vầng trăng vằng vặc soi sáng cả núi rừng tịch mịch, nước suối mát lạnh làm tiêu tan hết sự mệt mỏi trong ngày. Chợt chàng nhìn thấy trên vách núi, bên dưới một hòn đá lớn có một vệt sáng vuông như tấm gương. Lấy làm lạ, chàng tung người đến đó xem thử. Thì ra là một viên đá cẩm thạch bóng nhẵn được gắn chặt vào vách núi. Nhưng có điều lạ là lúc đến nơi, nếu chàng đứng trước viên đá thì nó không còn phát sáng nữa nhưng khi chàng nhích người sang một bên thì nó lại phát sáng. Chàng vội đưa mắt nhìn sang bên kia con suối, có một ô sáng vuông nữa được gắn trên một phiến đá. Ô sáng đó phản chiếu ánh sáng của mặt trăng lên viên đá cẩm thạch này. Chàng mỉm cười một mình và thầm phục cho sự sắp xếp tỉ mỉ công phu của ai đó. Hẳn phải có điều bí ẩn gì quan trọng lắm nên người ta mới bỏ công gắn đến hai viên đá cẩm thạch để đón ánh trăng thế này. Chàng cúi xuống quan sát, thấy trên mặt đá có viết mấy chữ “Dành cho kẻ hữu duyên” bằng nét bút tuyệt đẹp. Chàng đưa tay gỡ phiến đá ra, phía trong là một khoảng trống nhỏ, đặt ngay ngắn ở giữa là một chiếc hộp gỗ mun đen. Lía thầm nghĩ: “Đây là nơi tu trì của sư tổ, chắc vật này là của người để lại, ta thử mở ra xem”. Chàng bèn vái tạ sư tổ, cầm chiếc hộp đem về am đánh lửa lên để xem.

Trong hộp, ngoài một tập sách nhỏ còn có một mảnh giấy với những dòng chữ:

Đây là pháp môn Sư tử hống, một công phu khí công thượng thừa của Phật môn mà ta tình cờ thụ đắc được, dự định sẽ truyền lại cho đệ tử Võ Trụ nhưng hắn không may bị thương ở bụng nên không thể luyện tập được. Ta cất pháp môn này ở đây để lưu lại cho người hữu duyên. Ngoài chữ duyên, pháp môn Sư tử hống đòi hỏi người luyện tập phải có một căn cốt hoàn chỉnh, nội lực đầy đủ mới có thể luyện thành. Người thể chất và khí lực không đủ, cố gắng tập luyện sẽ gây nguy hiểm đến nội phủ. Không tròn duyên không nên tham lam, cưỡng cầu. Sư tử hống một khi luyện thành, âm thanh phát ra có thể khiến cho kẻ đối diện kinh mạch vỡ tung, thất khiếu chảy máu, không chết tất bị điên loạn. Vì vậy Sư tử hống chỉ dùng để tiêu diệt tà ma, khâu trừ ác đảng; người sử dụng pháp môn này tuyệt đối không được lạm sát kẻ vô tội, nếu không sẽ bị quả báo trời tru đất diệt. Vài lời cho kẻ hữu duyên. Hãy đem Phật môn thần công cứu đời, giúp người bằng tấm lòng từ bi của Phật tổ.

Vô danh

Lía đọc xong lá thư không khỏi bồi hồi xúc động. Vật này đúng là của sư tổ để lại, chàng sụp xuống, vái lạy chiếc hộp bốn lạy, miệng khấn: “Đồ tôn là Lía, nguyện thay cha luyện tập Phật môn công phu này để cứu người, giúp đời, thực hành ước nguyện từ bi của sư tổ”.

Khấn nguyện xong, chàng lại lạy thêm bốn lạy nữa để bày tỏ sự quyết tâm của mình. Sau đó chàng đọc qua tập sách nhỏ rồi theo cách hướng dẫn trong đó thử thực hành theo. Chàng thấy chân khí trong người lưu chuyển rất thông suốt, không có gì trở ngại nên ở lại trong am mải mê tập luyện đến quên cả ngày đêm. Thời gian trôi đi, từ lúc trăng tròn cho đến khi trăng khuyết thì đại công thành tựu. Khi vận khí, chàng cảm nhận được nội lực nơi đan điền cực kỳ sung mãn. Chàng thử cất tiếng rống giữa đêm khuya, âm thanh phát ra vang dội cả núi rừng Bích Khê tĩnh mịch, lá đổ rào rào. Chàng rất đỗi vui mừng, đem tập sách nhỏ để lại vào chỗ cũ cho kẻ hữu duyên như chàng sau này. Sáng hôm sau, chàng lên đường tìm đến Truông Mây.

Sau lần Lía đột nhập vùng cấm địa Truông Mây bằng đường bộ, cha Hồ đã đặt thêm một số trạm canh ở sau núi để kiểm soát khu vực này. Ngựa của Lía vừa qua khỏi sông Kim Sơn, bọn lâu la canh gác đã phát hiện và nổi chiêng báo hiệu. Lía nghe tiếng chiêng báo động nhưng vẫn thản nhiên giục ngựa tiến vào. Từ trong các bụi rậm, từng loạt tên bắn vút ra như mưa rào. Lía vội rút thanh đao múa tít, hàng trăm mũi tên rơi lả tả. Chàng thúc ngựa chạy nhanh xuống khu đất trống trước mấy căn nhà lá. Bọn cha Hồ, chú Nhẫn và mấy chục tên cướp đã tụ tập ở đó chờ chàng. Lía ghìm cương ngựa, nói lớn:

- Hôm nay ta đến đây là để dẹp tan sào huyệt ăn cướp này nhưng ta không muốn giết nhiều người. Các ngươi hãy chọn ra vài người giỏi nhất để cùng ta thi đấu, song đấu cũng được mà quần đấu cũng được. Nếu thắng được ta, ta sẽ bái tạ mà bỏ đi ngay, không bao giờ bén mảng trở lại đây.

Thi Chân lớn giọng:

- Cả gan dám đến đây đòi dẹp tan Truông Mây, nếu ngươi bại rồi thì còn mạng để bái tạ mà bỏ đi được sao?

Lía trừng mắt nhìn Thi Chân nói:

- Ngươi là phụ nữ nhưng hung tính còn hơn cả nam nhân, thủ đoạn lại hèn hạ. Hạng người như ngươi e khó sống lâu. Hãy coi chừng cái mạng mà lo đổi tính đổi nết đi.

Thi Chân nghe Lía mắng thì thẹn lắm, mặt đỏ bừng. Cha Hồ nói:

- Nghe đại danh chú Lía ở Bá Bích thành đã lâu, nay mới được thấy mặt. Hân hạnh, hân hạnh! Cùng là ăn cướp với nhau, sao lại làm khó dễ nhau chi cho tổn thương hòa khí?

- Ăn cướp cũng có nhiều loại. Bọn ta chỉ cướp của tham quan, ác bá để chia cho dân nghèo. Đâu phải như các ngươi, bá tánh đã chịu lắm điều cực khổ mà còn cướp bóc của người ta.

Hồ Bân nói:

- Bọn ta bị xã hội ruồng bỏ, cùng đường mới làm ăn cướp. Không lột của người thì lấy gì để sống? Ngươi đã đến đây thì hãy dùng đao kiếm mà phân định, chúng ta đâu cần ngươi dạy đời.

Lía cười ha hả nói:

- Dứt khoát lắm! Được! Ngươi muốn đơn đấu hay quần đấu? Cách nào ta cũng sẵn sàng cả.

Thi Chân nói:

- Ta với Hồ Bân sẽ đấu với ngươi.

Hồ Bân xua tay nói:

- Không cần. Đối với tay cao thủ như Lía, có thêm một người cũng chẳng ích gì, tam nương cứ để cho tôi.

Rồi hắn quay sang hỏi cha Hồ:

- Chú nghĩ sao?

Cha Hồ gật đầu:

- Được, cháu cứ tiếp đãi anh bạn Lía này đi.

Lía vốn không phải là người tự phụ nhưng chàng vì muốn uy phục bọn cướp này nên nói:

- Một mình ngươi, nếu trong vòng mười hiệp mà ta không thắng nổi thì coi như ta đã bại. Muốn xử sao tùy ý.

Hồ Bân bật cười nói:

- Thật là ngông cuồng, tự phụ! Được, trong vòng mười chiêu mà ngươi hạ được ta thì ta thật sự tâm phục khẩu phục, nguyện suốt đời theo hầu bên ngựa.

- Quân tử nhất ngôn!

Nói xong chàng cởi chiếc nón rộng vành treo trên lưng ngựa, lấy thanh đao cầm nơi tay rồi nhảy xuống đất. Con Bạch mã như biết ý, nó chậm rãi đi ra xa. Hồ Bân rút đao khỏi vỏ, ngưng thần thủ thế chờ đợi. Cả đấu trường nín thở chờ đợi. Lía đứng im lặng, bất động, tư thế bình thản nhưng khí thế vững chãi như dãy Kim Sơn trước mặt, thậm chí còn không thèm rút đao khỏi vỏ. Hồ Bân đối diện với ánh mắt như điện và khí thế như sơn của Lía được một lúc thì bàn tay bỗng toát mồ hôi, lòng có chút rúng động. Cao thủ đấu nhau hơn thua ở tinh thần, chưa xuất chiêu mà Hồ Bân đã thấy mình thất thế rồi. Hắn quyết định chỉ đánh một chiêu, một chiêu tuyệt học mà sư phụ hắn, một nhà sư vân du tứ hải đã truyền cho khi hắn còn nhỏ. Một chiêu này nếu không hạ được địch thủ thì hắn sẽ chịu thua.

Hắn hét lớn một tiếng và xuất chiêu. Cả đao lẫn người lao vút vào đối phương. Đao ảnh như chớp giật chụp xuống đầu của Lía. Lía như đọc được suy nghĩ của Hồ Bân qua ánh mắt nên chàng đã nhanh chóng đưa ra quyết định. Không ai kịp nhìn thấy chàng ra tay thế nào, chỉ nghe một tiếng chát rất lớn vang lên và thanh đao trong tay Hồ Bân bắn vút lên không bay khỏi đấu trường. Lía tra nhanh lưỡi đao vào vỏ, tư thế vẫn giữ nguyên như chưa hề động thủ. Mọi người bấy giờ mới “a” lên một tiếng kinh hoàng. Hồ Bân sắc mặt tái xanh, thoái lui mấy bước ôm quyền nói:

- Tuyệt đao! Không ngờ trên đời này lại có chiêu đao nhanh đến mức ấy. Hồ Bân này nguyện suốt đời theo hầu bên ngựa.

Lía mỉm cười nói:

- Anh không cần theo hầu ta. Chỉ cần anh dùng thanh đao kia đánh đổ cường quyền, cắt cổ tham quan, ác bá để cứu giúp dân lành là đủ.

Hồ Bân vái tạ:

- Hồ Bân xin nghe theo mệnh lệnh của chú Lía, dẫu chết không từ.

Lía gật đầu rồi hỏi lớn:

- Còn ai muốn so tài nữa không?

Cha Hồ chắp tay nói:

- Hắn là tay đao giỏi nhất Truông Mây, hắn đã bái phục thì bọn ta còn so tài làm gì nữa. Truông Mây này xin giao lại cho anh hùng định đoạt.

Lía cũng chắp tay nói:

- Đa tạ! Chắc anh em ở đây cũng đã nghe chúng tôi ở Bá Bích thành hành động ra sao rồi phải không?

Cha Hồ đáp:

- Tất nhiên là có nghe. Xin nói thêm.

Lía đem những điều đã nói với bọn cướp Bá Bích thành trước kia nói lại cho mọi người ở đây nghe, sau đó hỏi:

- Từ nay chúng ta đem tài sức của mình ra giúp cho đồng bào nghèo khó. Anh em có ý kiến gì hay hơn không?

Cha Hồ nói:

- Tất cả anh em chúng tôi xin nghe theo quyết định của anh hùng. Từ nay xin anh hùng nhận địa vị thủ lĩnh Truông Mây để chỉ huy mọi việc.

Lía ôm quyền, ôn tồn nói:

- Hai chú là người gây dựng nên cơ sở này, xin giữ chức chỉ huy. Lía tôi sao dám làm điều vô lễ.

Cha Hồ tên Hồ Khôi và chú Nhẫn là Hoàng Nhẫn, cả hai tuổi đã ngoài bốn mươi, trước kia vốn là thương buôn. Nhưng một lần bị bọn lính và quan thu thuế làm khó dễ, tịch thu cả chuyến hàng, mất sạch vốn liếng nên mới tức giận đánh chết tên thu thuế rồi bỏ trốn lên Truông Mây, tụ tập anh em nghèo khó làm ăn cướp. Vì cả hai đã lớn tuổi nên số anh em thuộc hạ trẻ quen gọi là cha, là chú; lâu ngày thành chết luôn cái tên cha Hồ, chú Nhẫn.

Cha Hồ nghe Lía nói thì phản đối:

- Không được! Làm ăn cướp thì ai có tài sẽ là thủ lĩnh. Tuổi tác ở đây không can hệ gì cả.

Lía nói:

- Nhất định không được, Lía quả thật không dám nhận.

Hồ Bân lên tiếng:

- Hãy coi hai chú là bậc trưởng lão, đại ca Lía sẽ làm thủ lĩnh bọn trẻ tuổi chúng tôi. Như vậy thì không còn vướng chuyện sáng lập hay phạm thượng gì nữa cả.

Chú Nhẫn cười nói:

- Ý kiến của Hồ Bân hay đó. Cứ như vậy đi.

Lía nói:

- Đã vậy tôi sẽ gọi cha Hồ, chú Nhẫn như anh em vẫn gọi. Còn lại bọn trẻ tuổi, việc làm thủ lĩnh tôi xin đảm nhận. Tam nương có ý kiến gì không?

Thi Chân lạnh lùng đáp:

- Mọi người đã đồng ý, tôi cũng phải tuân theo thôi.

Lía nhắc lại lần nữa các điều lệ xong nói:

- Từ nay về sau những luật lệ này phải được tuân thủ tuyệt đối, mong anh em nhớ lấy để tránh điều đáng tiếc xảy ra. Ai không đồng ý hãy lên tiếng bây giờ đi.

Tất cả đều để tay lên ngực hô lớn:

- Chúng tôi đồng ý và sẽ xin tuân theo luật lệ thủ lĩnh đã đề ra.

Cha Hồ nói lớn:

- Truông Mây hôm nay đã có vị thủ lĩnh mới tài ba xuất chúng, anh em hãy chuẩn bị một bữa tiệc để ăn mừng.

Cả bọn reo hò, hoan hô ầm ĩ rồi chia nhau chuẩn bị tiệc rượu. Danh tiếng lẫy lừng với những chiến công hiển hách của chú Lía đã vang dội khắp nơi, anh em Truông Mây nay được làm việc dưới quyền chỉ huy của chú Lía ai ai cũng cảm thấy hả dạ, hài lòng. Rượu giữa chừng, Lía nói với các đầu lĩnh:

- Tôi sẽ mang cả nhóm anh em ở Bá Bích thành về đây. Truông Mây địa thế lưỡng toàn, khi ra quân, địa bàn hoạt động sẽ bao quát được cả hai phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn; khi rút về có cả một vùng núi rừng hiểm trở bảo vệ. Địa thế nơi này rất thích hợp cho công việc của chúng ta.

Cha Hồ nói:

- Chú có cái nhìn như vậy thật là người thấy xa trông rộng. Chúng tôi lâu nay chỉ nghĩ đến chuyện cướp bóc vì miếng ăn, chưa bao giờ nghĩ đến việc to lớn này. Mọi việc cứ theo ý của chú đi.

Hồ Bân nói:

- Đại ca cứ đưa anh em về đây. Chúng ta tụ lại một nơi sẽ dễ hành động hơn.

Lía nói:

- Mai tôi sẽ trở về Bá Bích đưa bọn họ đến đây.

Từ đó, bọn cướp Truông Mây dưới sự lãnh đạo của chú Lía đã mở rộng địa bàn hoạt ra khắp cả hai phủ Quảng Ngãi và Quy Nhơn. Đồng bào nghèo khó, những người ăn mày từ Đàng Ngoài chạy vào Đàng Trong nghe tiếng Truông Mây, đã tụ tập về hai phủ Quảng Ngãi và Quy Nhơn rất đông, nhất là các vùng Mộ Hoa, Bồng Sơn, Phù Ly. Rất nhiều trai tráng đủ mọi thành phần, vì không chịu đựng nổi cuộc sống cơ cực và nhiễu nhương của xã hội nên đã đầu quân vào trại. Lực lượng Truông Mây ngày một lớn dần.

Dân nghèo đông quá nên nhiều khi bọn Truông Mây phải tấn công kho thóc của các phủ, huyện để giúp họ. Những lời cảm tạ, những tiếng tri ân hòa cùng những giọt lệ cảm động dành cho chú Lía và những nghĩa sĩ Truông Mây vang lên khắp nơi. Đám quan binh gọi bọn chú Lía là ăn cướp, còn dân lành thì gọi họ là những hiệp sĩ Truông Mây.

Một hôm Lía đang cùng với cha Hồ, chú Nhẫn, Lưu Đằng và Hồ Bân đứng trên đỉnh Kim Sơn quan sát địa thế quanh vùng thì một tên thủ hạ giục ngựa chạy đến, vừa thở hổn hển vừa nói:

- Thưa thủ lĩnh, Tam nương đang đánh nhau với một cô nương áo đỏ tên là Chu Muội Nương dưới trại. Anh em biết cô nương họ Chu là người quen của thủ lĩnh nên sai thuộc hạ chạy gấp lên đây báo lại.

Lía nghe nói giật mình:

- Vậy à, ta phải xuống can họ ngay không khéo lại xảy ra điều đáng tiếc.

Từ ngày về Truông Mây, Lía đã đem quái quyền của Bạch gia cùng côn pháp của mình truyền lại cho các đầu lĩnh và anh em. Tam nương vốn là người phụ nữ cương mãnh, tính tình hung dữ, lại ham mê võ nghệ nên rất chịu khó luyện tập. Lía e rằng Chu Muội Nương sẽ bị nguy hiểm nên vội giục ngựa chạy như bay xuống núi. Khi chàng đến nơi thì trận đấu đã kết thúc, cả hai đấu thủ đều ngồi bệt dưới đất giương đôi mắt căm hờn nhìn đối phương, máu rỉ ra ở khóe miệng. Lía nhảy xuống ngựa nói:

- Bân đệ coi thử thương thế của tam nương thế nào.

Phần chàng thì bước đến chỗ Chu Muội Nương, lo lắng hỏi:

- Chu cô nương có sao không? Tại sao lại đánh nhau đến chí mạng thế này?

Chàng móc trong túi lấy lọ linh đan, ra hiệu bảo một thủ hạ mang lại cho Tam nương một viên và đưa một viên cho Muội Nương:

- Chu cô nương mau uống viên thuốc này đi. Coi bộ thương thế không nhẹ đâu.

Muội Nương cầm viên linh đan bỏ vào miệng nuốt xuống rồi nhắm mắt điều tức. Phía bên kia Tam nương cũng đang vận công điều tức. Một lát sau, Muội Nương mở mắt ra, nàng đứng lên đưa tay chùi máu nơi khóe miệng, nhìn Lía nói:

- Cảm ơn Lía đại ca.

- Cô nương thấy trong người thế nào?

- Muội không sao.

- Vì sao cả hai lại đánh nhau đến chí mạng như thế?

Muội Nương trừng đôi mắt đen láy nhìn sang Tam nương đáp:

- Muội tìm đại ca để nói lời cảm ơn về việc đại ca đã cứu muội hôm trước. Khi đến đây, vừa gặp mặt muội là ả ta đã kiếm chuyện đòi trả thù một kiếm hôm trước. Muội nghĩ đến việc ám toán hôm nọ suýt nữa thì mất mạng nên cơn giận bùng lên. Thế là quyết đấu thôi. Kỳ này thân thủ của ả khá hơn trước nhiều lắm. Là đại ca dạy cho phải không?

- Tôi dạy đều cho tất cả mọi người. Tam nương đam mê võ nghệ nên tiến bộ hơn cả.

Muội Nương cúi mặt tỏ vẻ băn khoăn:

- Thảo nào quyền pháp của ả thật quái dị! Muội bị trúng liên tiếp mấy đòn mà ả còn muốn hạ độc thủ, vì hết đường chống đỡ nên muội mới phải giở tuyệt học ra. Ả trúng một quyền của muội e rằng...

- E rằng thế nào?

Muội Nương chậm rãi đáp:

- E rằng khó chữa khỏi.

- Thật vậy sao?

- Chỉ mong là nội lực của muội chưa đủ, nếu như cha hoặc nhị ca xuất thủ thì không một ai trúng phải quyền này mà thoát chết được đâu.

Lía vội chạy sang chỗ Tam nương đang ngồi nhắm mắt dưỡng thần hỏi nhanh:

- Tình trạng thế nào?

Hồ Bân đáp:

- Tim đập yếu, hơi thở mỏng, huyệt mạch chậm, máu miệng rỉ ra mãi. Tình trạng rất lạ, đệ chưa thấy bao giờ.