Én Liệng Truông Mây - Hồi 33 - Phần 5

Lía và Thiên Tường sau khi từ biệt Trần Lâm ở bản Đá Vách, cả hai giục ngựa theo đường thượng đạo trở lại Truông Mây. Tối hôm đó, họ đã về đến nơi. Đêm Truông Mây im lặng như tờ. Các chòi canh phát hiện chủ tướng về liền báo tin vào trại trung ương. Cha Hồ, chú Nhẫn, Lưu Đằng, Hồ Bân cùng Lam Tiểu Muội vội ra đón. Mọi người không thấy Trần Lâm liền hỏi:

- Còn Lâm đệ đâu sao chưa về tới? Công việc tốt đẹp chứ đại ca?

Lía đáp:

- Việc liên minh rất tốt. Lâm đệ còn ở lại Đá Vách để hướng dẫn thêm cho họ cách hành binh, phối hợp tác chiến. Sau đó, hắn về quê đón cha lên Truông Mây.

Mọi người nghe nói Trầm Lâm về đón cha đều lộ vẻ vui mừng. Lam Tiểu Muội nói:

- Lâm ca còn cha à? Thật hay quá! Như vậy từ nay Lâm ca sẽ vui vẻ hơn. Đại ca và Tường đệ đi đường xa chắc là đói và mệt lắm rồi, để tiểu muội bảo chú Trương Tam mang cái gì lên ăn nhé? Hai người đi tắm rửa cho sạch sẽ trước cái đã.

Lía cười:

- Cảm ơn Lam muội. Muội lúc nào cũng chu đáo.

Lam Tiểu Muội liền chạy ra sau trại tìm Trương Tam để lo thức ăn. Mọi người biết nàng thương thầm đại ca của mình nhưng không ai nói ra. Họ cũng thừa biết Lía chỉ xem nàng như em gái và không thích nói đến việc này. Trong khi đó, trên gương mặt của Hồ Bân lại thoáng qua một vẻ u buồn thầm lặng.

Trương Tam từ ngày gia nhập Truông Mây cùng với Thiên Tường đã được đưa vào làm việc ở nhà bếp. Nhớ ơn Lía và anh em Truông Mây đã liều chết cứu tiểu chủ, Trương Tam làm việc rất siêng năng và phục vụ Lía rất chu đáo. Lía và Thiên Tường về nơi ở của mình tắm rửa, thay y phục xong trở lại đại sảnh thì Trương Tam đã mang thức ăn và rượu lên. Mọi người cùng ngồi vào bàn ăn uống. Lía nâng ly nói với mọi người:

- Chúng ta uống mừng liên minh thắng lợi. Lâm đệ thật đa tài. Hắn chỉ cần chữa được căn bệnh cho con gái tù trưởng là mọi việc kể như đã xong đến tám phần.

Mọi người đồng thanh hỏi:

- Chữa bệnh gì, đại ca?

Lía bèn đem việc ở Đá Vách kể sơ cho mọi người nghe. Sau đó nói:

- Ngày mai ta và một số anh em trong đội khinh kỵ sẽ vào Núi Bà một chuyến để xem tình hình nơi đó tổ chức thế nào. Lâm đệ dự định sau khi trở về sẽ đi nhưng ta muốn thay hắn làm việc này. Bân đệ cùng đi với ta. Việc ở đó đệ là người am hiểu nhất. Công việc ở trại nhờ cha Hồ và chú Nhẫn coi sóc, đợi Lâm đệ trở về.

Hồ Bân vui vẻ đáp:

- Dạ, đại ca.

Thiên Tường lên tiếng:

- Tôi cũng đi.

Lía hỏi:

- Không mệt à?

Hắn đáp gọn:

- Không.

Lía nói:

- Cũng tốt.

Lam Tiểu Muội chẩu môi:

- Muội cũng đi.

Lía uống cạn ly rượu Trương Tam vừa mới rót rồi nói:

- Muội phải ở lại đây chờ Lâm đệ trở về. Hắn có việc cần nhờ đến muội đó.

Tiểu Muội tiu nghỉu:

- Ở lại thì ở lại.

Ăn uống xong thì đã nửa đêm. Mọi người trở về nghỉ ngơi.

Sáng hôm đó, đội thám báo nhận được bồ câu đưa thư của Văn Bảo từ Núi Bà gửi về báo tin quân binh phủ Quy Nhơn bỗng bất thần kéo một ngàn bộ binh và kỵ binh đến bao vây doanh trại. Văn Bảo đang tìm cách chống địch. Cả doanh trại Truông Mây vang lên những hồi chiêng báo động khẩn cấp. Trong vòng một khắc, toàn trại lập tức tập trung ở sân diễn võ, hàng ngũ chỉnh tề, giáo gươm tua tủa sẵn sàng chờ lệnh.

Lía nai nịt gọn gàng đứng trước sân lớn tiếng ra lệnh:

- Tất cả anh em nghĩa binh nghe đây, đã đến lúc triều đình khởi sự ra quân đối địch với chúng ta. Truông Mây ngày nay đã lớn mạnh, cách phòng thủ lại nghiêm mật hơn xưa, bọn quan binh có đến đây cũng chỉ chuốc thảm bại mà thôi. Tuy nhiên, tất cả chúng ta ai cũng phải hết sức chu toàn nhiệm vụ của mình, không được khinh địch hoặc trễ nải. Anh em có nghe không?

Ba quân đồng thanh lên tiếng vang dậy cả núi rừng Truông Mây.

- Chúng tôi nghe, thủ lĩnh!

- Bây giờ tất cả hãy trở về vị trí của mình đợi lệnh. Việc ở đây giao cho cha Hồ, chú Nhẫn và Lưu Đằng thay ta toàn quyền quyết định. Ai trái lệnh cứ chiếu theo quân pháp xử trị. Đội Thần mã ở lại, còn tất cả giải tán.

- Dạ, thủ lĩnh!

Chỉ trong phút chốc, sân diễn võ đã vắng tanh. Gần hai ngàn nghĩa sĩ lúc tập trung cũng như khi giải tán đều rất nhanh gọn, hàng ngũ chỉnh tề, chứng tỏ là một đội quân có kỷ luật nghiêm minh.

Còn lại các chủ tướng, Lía nói nhanh:

- Ta và Tường đệ cùng mười kỵ binh trong đội Thần mã sẽ tức tốc vào Núi Bà để cứu viện cho Văn Bảo. Hồ Bân cũng lãnh một đội như thế, chúng ta chia làm hai toán, tránh những nơi có quan binh mà đi. Hẹn gặp nhau tại Phong An. Lên đường!

Tức thì những con thần mã đồng cất tung bốn vó lao ra khỏi Truông Mây nhắm hướng Núi Bà thẳng tiến. Toán Thần mã này gồm những con ngựa tốt nhất trong hơn năm trăm con ngựa của Truông Mây tuyển ra, sức đi như vũ bão, ngàn dặm một ngày. Điều khiển những con ngựa hiếm này là những tay dũng sĩ cũng được tuyển chọn kỹ lưỡng từ hai ngàn nghĩa sĩ Truông Mây. Lía và Trần Lâm lại ra sức dạy thêm cho họ võ công, kiếm, đao, cung tiễn, phi đao, khinh công... và bắt rèn luyện hết sức khắc nghiệt. Bởi vậy hai mươi người ngựa này có thể đủ sức đánh tan một đạo quân ngàn người chẳng khó gì.

Chiều hôm ấy, cả hai toán Thần mã gặp nhau tại Phong An. Hồ Bân đưa mọi người theo đường tắt vào doanh trại. Tất cả đều sững sờ khi nhìn thấy cảnh doanh trại bị thiêu rụi, tan hoang, một vài nơi khói vẫn còn âm ỉ bốc lên. Lía nóng nảy hỏi:

- Anh em đâu cả rồi? Không lẽ họ bị quan binh bắt hết hay sao?

Hồ Bân đáp:

- Đệ nghĩ không đến nỗi như thế đâu. Chắc Văn Bảo liệu thế không thể kháng cự nổi nên đã cho rút về hang Thần Xà để bảo toàn lực lượng. Chúng ta đến đó xem.

Lía ra lệnh:

- Đi!

Hồ Bân thúc ngựa đi trước dẫn đường. Họ theo một con đường bí mật còn thô sơ, phải len lỏi trong núi đá khó đi. Vậy mà những con thần mã vẫn di chuyển dễ dàng. Khi đến gần miệng hang thì trời đã chập choạng tối. Trên cao bỗng có tiếng hô lớn:

- Đường đi không khó.

Hồ Bân hô theo:

- Dẫu khó cũng đi.

- Tiếng của Hồ tam ca phải không?

- Là ta đây! Tất cả anh em đều ở đây chứ?

Hai người từ trong hốc núi xuất hiện và trả lời:

- Dạ, đều ở đây. Ủa, có cả thủ lĩnh đại ca nữa. Chào thủ lĩnh đại ca.

Lía nôn nóng hỏi:

- Anh em an toàn cả chứ? Văn Bảo đâu?

- Dạ thủ lĩnh, tất cả đều an toàn. Văn Bảo tứ ca đang ở bên trong, để tụi đệ thông báo. Mọi người vào trong đi.

Hắn nói xong huýt sáo ba tiếng thật lớn. Xa phía trong hang cũng có tiếng huýt sáo vọng ra đáp lại. Sau đó, hắn dẫn đầu đưa mọi người vào hang. Từ ngày được Trần Lâm chỉ cho vị trí của hang Thần Xà, Hồ Bân cùng Văn Bảo đã thay nhau cho anh em nghĩa binh khai phá để làm chỗ trú ẩn bí mật khi cần thiết. Cửa hang nhỏ chỉ vừa một người ngựa đi nhưng vào sâu bên trong, hang càng lúc càng rộng ra. Cuối cùng dẫn đến một nơi mà lòng hang mở lớn như một cái sân dài. Nơi đây có thể dung chứa được cả một đạo quân ba, bốn trăm người. Hai bên, vách đá dựng đứng cao vút lên tận mây xanh, thật là hùng vĩ, kỳ bí. Dọc theo bờ vách đá lại có nhiều hang động lớn nhỏ dùng để làm nơi tạm trú rất tốt. Mọi người vào đến khoảng hang rộng đã thấy Văn Bảo dẫn anh em ra đón.

- Chào đại ca. Văn Bảo này bất lực, không thể chống được quan binh để cho doanh trại bị thiêu rụi, thật là tội lớn. Nay bó tay chịu tội, tùy đại ca xử lý.

Nói rồi Văn Bảo quì xuống cúi đầu trước mặt Lía. Cả toán nghĩa binh hơn trăm rưỡi người cũng quì xuống theo Văn Bảo.

Lía ra hiệu cho mọi người và đỡ Văn Bảo đứng lên rồi nói:

- Anh em đứng lên cả đi. Thế quân địch quá lớn, đệ có thể đưa anh em rút lui bảo toàn được lực lượng là giỏi lắm rồi. Tướng bên ngoài có lúc phải quyền biến. Đệ và anh em không có lỗi gì cả. Doanh trại đó tuy bị chúng đốt nhưng vẫn còn nền tảng, khi cần chúng ta sẽ xây dựng lại, khó gì.

Quay sang anh em nghĩa binh, Lía hỏi lớn:

- Anh em có ai bị thương không?

Tất cả đồng thanh đáp:

- Cảm ơn thủ lĩnh, chúng tôi đều an toàn.

Văn Bảo nói:

- Cũng nhờ tin thám báo về kịp thời. Đệ thấy lực lượng hai bên quá chênh lệch, có chiến đấu cũng không thể thắng được nên đành thu dọn doanh trại và rút hết anh em về đây, bỏ trại trống không mặc cho chúng đốt. Tướng bên ngoài chưa chiến đấu mà đã bỏ chạy, đệ biết mình đã phạm quân luật nhưng vì để bảo toàn lực lượng nên phải tự ý quyết định rút lui. Được đại ca thông cảm như thế, đệ cảm ơn nhiều.

Thiên Tường bỗng lên tiếng:

- Chúng đốt trại của ta, ta không biết đốt phủ của chúng hay sao?

Nghe Thiên Tường nói, tất cả nghĩa binh đều la lớn:

- Đúng, đúng! Chúng ta phải đốt lại phủ của chúng để trả thù.

Nhìn anh em ai nấy đều phấn khích, Lía cũng cảm thấy bầu máu nóng trong người dâng lên. Chàng nói lớn:

- Được, ta sẽ cho chúng biết Truông Mây lợi hại thế nào.

Rồi Lía hỏi Văn Bảo:

- Anh em ở đây có được an toàn không? Nếu không cứ rút cả về Kim Sơn rồi tính sau.

- Hang Thần Xà này là nơi hết sức bí mật, bọn quan binh chưa biết tới. Ở đây thì an toàn rồi. Có điều nếu chúng ta đốt phủ của chúng thì chắc chắn sẽ có dấy động can qua. Số quân nhỏ bé này ở lại đây cũng không làm được gì, đệ nghĩ mình nên rút về Kim Sơn để tập trung lực lượng. Giữ hang này làm nơi bí mật để dùng về sau thì tốt hơn.

- Nếu thế đệ và Hồ Bân hãy bí mật đưa anh em về Kim Sơn, ta sẽ dẫn đội Thần mã đốt phủ Quy Nhơn một trận cho chúng biết tay. Cũng đã đến lúc nên dấy động can qua rồi đó. Tất cả chuẩn bị ăn cơm rồi lên đường.

Văn Bảo lấy ra một tấm họa đồ đưa cho Lía:

- Đây là sơ đồ phủ thành. Kho lương, kho vũ khí, các trạm canh và nhà ở của tuần phủ, trấn thủ... đều được toán thám báo vẽ chi tiết trong này. Đại ca theo đó mà hành động.

Thiên Tường cầm tấm sơ đồ nghiên cứu qua rồi trả lại cho Lía. Đêm đó không trăng, trời đầy sao. Nghĩa binh Núi Bà lặng lẽ thu xếp hành trang lên đường trở về Hoài Ân. Lía và toán Thần mã nhắm hướng phủ thành Quy Nhơn thẳng tiến. Gần đến thành Quy Nhơn, Lía để lại ba người giữ ngựa ở một nơi kín đáo. Số còn lại tiến sát bờ thành rồi dùng khinh công vượt tường vào trong. Lía chia họ thành từng nhóm nhỏ, mang theo đồ dẫn hỏa đi đốt các nơi như kho lương, kho vũ khí. Bọn nghĩa binh đều là những người có võ công thượng thặng lại được huấn luyện đặc biệt nên các trạm gác đã lần lượt bị tiêu diệt. Chẳng mấy chốc, khắp nơi trong phủ thành lửa cháy rực trời. Bọn quan binh bấy giờ mới nhốn nháo gióng chiêng trống báo động inh ỏi. Toán lo chữa lửa, toán lo lùng bắt quân gian, quang cảnh hỗn loạn trước giờ chưa từng xảy ra.

Trong khi anh em lo nhiệm vụ đốt phá khắp nơi, Thiên Tường một mình âm thầm lẻn đến dinh thự của quan trấn thủ Hoàng Công Đức, kẻ thù không đội trời chung của mình. Vượt rào vào bên trong, Thiên Tường nhanh chóng tiêu diệt mấy tên lính gác rồi xông vào nhà tìm đến phòng ngủ của Hoàng Công Đức. Chàng đạp tung cửa phòng, thấy Hoàng Công Đức đang nằm trên giường còn ngái ngủ. Nghe tiếng động lớn, lão ta giật mình bật ngồi dậy. Phần trên cơ thể không một mảnh vải, phần dưới tấm thân béo phệ của lão được tấm chăn che phủ. Nằm bên cạnh lão là một cô gái rất đẹp và cũng chỉ có mảnh yếm che thân. Nàng ta hình như còn thức nên khi nghe tiếng đạp cửa đã hốt hoảng vơ đống quần áo bên cạnh che đỡ thân người. Thiên Tường nói:

- Yên đó! La lên là con dao này sẽ găm vào cổ. Hoàng Công Đức, ngươi còn nhớ tên tử tội này không?

Hoàng Công Đức bấy giờ mặt cắt không còn chút máu, hắn run cầm cập lắp bắp:

- Hiệp sĩ... tha mạng. Hiệp sĩ muốn gì cứ nói, bổn quan sẽ... sẽ... nghe lời tất cả, xin... xin đừng giết bổn quan.

Thiên Tường cười gằn:

- Tha mạng? Lúc trước, ngồi trên ghế cao xử án, ngươi có từng nghĩ đến việc tha mạng cho ta hay không? Ngươi đã có vợ đẹp thế này mà còn manh tâm xử hiếp, giết ta cho tuyệt đường hương hỏa nhà họ Triệu để cướp đoạt tài sản và vợ kẻ khác. Tội ngươi đáng chết ngàn lần.

Nói xong Thiên Tường vung tay. Một ngọn phi đao đã cắm ngay tim Hoàng Công Đức, lão chỉ kịp la lên một tiếng rồi chết ngay tức khắc. Thiên Tường rút kiếm cắt thủ cấp cầm nơi tay. Chàng là người nói gọn, làm gọn. Cô gái xinh đẹp chứng kiến cảnh đó rất đỗi kinh hoàng, bịt miệng mình dằn tiếng kêu nhỏ rồi té xỉu. Thiên Tường định một đao giết luôn nhưng nhìn thấy vẻ đẹp xiêu hồn của nàng thì lại động tâm nghĩ: “Mỹ nhân thế này mà giết đi thì thật phụ lòng tạo hóa. Tên Hoàng Công Đức chuyên cướp vợ người, nay ta bắt vợ hắn về cho đại ca làm áp trại phu nhân, như vậy cũng là nhân quả tuần hoàn thôi”. Nghĩ xong Thiên Tường định mặc áo quần lại cho nàng nhưng bên ngoài đã có tiếng ồn ào của quan binh. Chàng vội dùng chiếc chăn mỏng quấn kín người cô gái rồi ôm nàng, xách thủ cấp của Hoàng Công Đức phóng mình ra cửa tìm anh em đồng đội. Lửa đã bùng cháy khắp nơi trong phủ thành. Bỗng nghe tiếng hú báo hiệu rút lui của Lía vang lên đằng xa, Thiên Tường phi vút người về hướng đó. Trong bóng tối, thấy Lía và anh em đang đứng đợi, Thiên Tường vội trao cho Lía cuộn chăn nói:

- Tặng cho đại ca cái này. Đại ca và anh em đi trước đi, đệ sẽ theo sau ngay.

Nói xong, chàng phi thân đến cổng phủ thành, tung người phóng một lưỡi đao cắm vào tấm biển rồi treo đầu Hoàng Công Đức lên đó. Đoạn, chàng băng mình mất hút trong đêm tối. Khi Thiên Tường đến nơi hẹn mọi người cũng đã ngồi sẵn trên lưng ngựa. Chàng cũng tung mình lên ngựa rồi nói:

- Đi được rồi.

Cả bọn thúc ngựa phóng đi. Vó câu vang lên rầm rập rồi tan biến trong màn đêm mờ mịt.

Tin bọn cướp Truông Mây đốt kho lương, kho vũ khí và bêu đầu tên quan trấn thủ tham lam Hoàng Công Đức nơi cổng thành phủ Quy Nhơn đã lan truyền đi nhanh chóng, làm chấn động cả Đàng Trong. Quan tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên đêm đó đang ngủ bên phòng một ái thiếp, khi nghe thấy tiếng hỗn loạn đánh nhau bên ngoài đã vội vã chui xuống gầm giường trốn. Cho đến khi mọi việc yên lắng trở lại hắn mới dám chui ra la hét đám quân sĩ truy tìm những tên phản nghịch. Sau đó, hắn tức tốc một mặt cho người mang tin về Phú Xuân báo cáo lên phủ Chúa, mặt khác điều động binh mã tăng cường phòng thủ phủ thành, đặc biệt là dinh thự của hắn và truy lùng những tên phản loạn.

Bọn quân lính được dịp ra ngoài hành hung bá tánh, khám xét, chặn bắt những người lạ mặt một cách vô tội vạ. Nhiều tên lợi dụng cơ hội bắt luôn cả những người mà chúng thù oán. Sự hỗn loạn trong phủ thành và những phố thị quanh thành thật không bút mực nào tả xiết. Các cửa tiệm, hàng quán đều đóng cửa để tránh bị hôi của, chợ búa cũng dẹp luôn vì những ngày thế này không ai dại gì ra đường để chuốc họa vào thân. Dân chúng hay tin tên quan trấn thủ Hoàng Công Đức bị bêu đầu ai nấy đều hả hê trong dạ. Họ ca ngợi bọn chàng Lía Truông Mây hết lời.

Mãi ba bốn hôm sau mọi sinh hoạt ở phủ Quy Nhơn mới trở lại bình thường. Số người bị bắt lên đến hàng trăm. Những kẻ có tiền, biết mánh lới của bọn quan binh tìm cách đút lót để được thả ra. Bọn không tiền thì ráng ở thêm trong tù vài hôm nữa, chịu thêm vài trận đòn rồi cuối cùng cũng được thả về vì chẳng có chứng cớ gì để buộc tội họ, giữ lại chỉ tổ tốn cơm.

Trong quán, ngoài chợ, đâu đâu cũng có tiếng xì xào:

- Các hiệp sĩ Truông Mây quả nhiên xuất quỉ nhập thần. Họ đốt cả phủ thành và cắt đầu tên Hoàng Công Đức chỉ trong chớp mắt. Bọn quan binh chưa hết ngái ngủ thì họ đã bay biến đi tự đời nào rồi. Khiếp thật!

- Còn phải hỏi. Bác không biết các hiệp sĩ Truông Mây người nào cũng võ nghệ cao cường à? Nhất là chàng Lía. Úi chà! Tôi không nói quá với các bác đâu. Quả thật là người nhà trời chứ chẳng phải phàm nhân như chúng ta. Chàng ta có thể bay như chim vậy đó. Cái bọn quan binh và chút tường thành cỏn con phủ Quy Nhơn này thì làm sao cản được họ.

- Chà! Bác đã thấy chàng Lía bay thật à?

Người mới nói ấp úng:

- Thằng cháu tôi chứng kiến cuộc tranh tài giữa Đông Bạch Long và Tây Hắc Hổ ở Quy Nhơn dạo nọ rồi về kể lại cho tôi nghe ấy chớ.

Một người khác hỏi:

- Sao họ không giết sạch bọn quan binh, nhất là tên chó Quốc phó Trương Phúc Loan cho con dân chúng ta được nhờ nhỉ?

Người khác trong bọn tỏ vẻ ưu thời mẫn thế hơn, thở dài giải thích:

- Bọn quan binh bất quá cũng chỉ là nạn nhân như chúng ta mà thôi. Họ bị bắt đi lính, kẻ có tiền thì được chỗ tốt, có khi được miễn dịch. Người nghèo thì bị trám vào những chỗ xấu, nghèo mốc mũi ra, hễ có động binh đao thì trở thành những người cảm tử, chết trước. Đây là thời buổi mua quan bán tước mà, ai có tiền thì sướng còn không thì khổ. Bởi vậy cái xã hội bây giờ, vì đồng tiền người ta dám làm mọi chuyện. Đạo đức suy đồi hết rồi. Còn tên chó Quốc phó Trương Phúc Loan ấy à, hắn đáng chết ngàn lần. Nhưng giết hắn rồi thì sao? Tôi cho rằng lại có một tên chó khác lên thay thế. Cuối cùng chỉ bọn dân đen chúng ta là gánh cái ách nặng nề của chế độ mục nát này mà thôi.

Người dân bấy giờ đã oán hận tên Quốc phó Trương Phúc Loan đến tận tâm can, mọi tai vạ trên đời xảy đến cho họ, họ đều đổ tội lên đầu tên Quốc phó. Riết rồi cái gì xấu xa, tàn ác, tham lam... họ đều dùng hai chữ “Quốc phó” để ám chỉ. Lắm khi họ còn thêm chữ “chó” phía trước cho đã miệng.

Người nói lúc trước lại hỏi:

- Như vậy theo bác thì phải tiêu diệt cả cái phủ chúa này à?

- Đúng vậy.

- Ai có thể làm được chuyện to tát này?

- Những hiệp sĩ Truông Mây. Chỉ bọn họ mới có đủ bản lãnh và tư cách.

Một người khác lên tiếng:

- Tôi nghi ngờ lời nói của bác đấy. Hãy xem doanh trại ở Núi Bà của bọn họ kìa. Chỉ cần một lần ra quân thôi mà quan binh đã đốt cả trại cháy thành tro rồi thì còn nói gì đến chuyện lật đổ cả phủ chúa?

- Tại bác không nắm rõ tình hình Truông Mây. Trại Phong An, Núi Bà chỉ là một căn cứ nhỏ mới thành lập. Tôi cho rằng họ chỉ tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng mà thôi. Lực lượng chính của họ là ở Hoài Ân. Bác không thấy hai năm nay họ âm thầm chiêu mộ nghĩa sĩ lên đó tụ nghĩa à? Ngày khởi binh của họ không còn xa nữa đâu. Bác hãy chờ mà xem.

- Cầu trời được như lời bác nói. Tôi dù có chết đói cũng sẽ chia hạt muối làm hai để ủng hộ Truông Mây.

Những lời bàn tán đại loại như thế không chỉ có ở những người dân tại phủ thành Quy Nhơn mà nó còn lan truyền ra khắp cả một dải đất từ sông Gianh vào đến tận Trấn Biên, Gia Định. Bấy lâu nay, người dân bị bọn quan quyền cậy thế áp bức, vì thấp cổ bé miệng nên họ đành cúi đầu cam chịu. Hành động của các hiệp sĩ Truông Mây như thể một đám mây đen vần vũ trên bầu trời đã nắng hạn dài ngày. Nó khơi dậy trong lòng mọi người một tia hi vọng. Họ mơ ước đám mây đen kia sẽ kết tụ thành một cơn mưa lớn tưới ướt những mảnh đời héo khô, cằn cỗi lâu ngày của họ. Họ hi vọng sẽ có một cuộc đổi đời, một cuộc chiến tranh chính nghĩa dù họ thừa biết rằng chiến tranh là đổ vỡ, là phân ly và chết chóc. Mà một khi tất cả mọi người đều muốn có chiến tranh thì không chóng thì chầy chiến tranh sẽ bùng nổ.

Ước mơ và hy vọng chỉ là những biểu hiện vô hình, nhưng với sự kết hợp to lớn của số đông, nó chính là mồi lửa để châm vào ngòi nổ của một trái nổ. Trái nổ không tạo nên bởi thuốc nổ, nó được tạo nên bởi sự dồn nén tột cùng của áp bức, bất công.