Hannibal - Chương 48
CHƯƠNG 48
TA có thể thấy nó xuyên qua màn hơi thở - trong đêm quang đãng ở Newfoundland một điểm sáng rực treo trên chòm Orion rồi chầm chậm băng qua trên đầu, một chiếc Boeing 747 tiến về phía Tây ngược chiều gió tốc độ một trăm sáu mươi ki lô mét một giờ.
Ở chỗ hạng chót dành cho hành khách dùng trọn gói có năm mươi hai thành viên tham gia chuyến du lịch Old World Fantasy, một chuyến du lịch qua mười một nước trong bảy ngày, đang trở về Detroit và Windsor ở Canada. Bề rộng chỗ ngồi và giữa hai chỗ gác tay là hơn năm mươi phân. Rộng hơn năm phân so với chỗ của một nô lệ trong một chuyến đi qua Đại Tây Dương.
Hành khách bị nhét cho những miếng bánh mì kẹp lạnh cóng chứa những miếng thịt trơn tuột cùng thực phẩm chế biến với pho mát. Họ phải hít vào mùi đánh rắm và hơi thở của người khác lảng vảng trong không khí được lọc một cách rẻ tiền giống như cách những nhà buôn lợn và gia súc đặt làm tiêu chuẩn hồi thập niên 1950.
Bác sĩ Hannibal Lecter ngồi ở trung tâm hàng ghế giữa khu hành khách, trẻ con ở cả hai bên và một phụ nữ bế một đứa trẻ mới sinh ở cuối hàng. Sau nhiều năm trong nhà tù và trại giam, bác sĩ Lecter không thích bị hạn chế. Máy chơi điện tử trên đùi một chú nhóc cạnh hắn đang kêu bíp bíp không ngừng.
Như nhiều người khác ngồi rải rác ở những ghế rẻ tiền nhất, bác sĩ Lecter đeo một huy hiệu mặt cười màu vàng tươi với dòng chữ đỏ to đùng ghi CAN-AM-TOUR, và giống như khách du lịch hắn mặc áo gió thể thao giả. Cái áo gió mang huy hiệu của đội khúc côn cầu Toronto Maple Leafs. Dưới lớp áo, một khoản tiền mặt đáng kể được cột chặt vào người hắn.
Bác sĩ Lecter đã đi với đoàn du lịch được ba ngày sau khi mua lại vé từ một chỗ môi giới những chuyến bị hủy vào giờ chót ở Paris. Người đáng lẽ đã ngồi ở chỗ này phải trở về Canada trong một cái hộp sau khi tim ông ta ngừng đập trong lúc leo lên mái vòm của đại giáo đường Thánh Peter.
Khi tới Detroit, bác sĩ Lecter phải đối mặt với hải quan và nhân viên kiểm tra hộ chiếu. Hắn chắc chắn rằng mỗi nhân viên hải quan ở bất kỳ sân bay quan trọng nào ở phương Tây đều được cảnh báo phải để ý tới hắn. Nếu hình của hắn không được dán vào tường tại nơi kiểm tra hộ chiếu thì thể nào cũng nằm dưới nút khẩn cấp của máy tính của hải quan và cơ quan di trú.
Mặc dù vậy, hắn nghĩ mình có thể may mắn một chút: những tấm hình mà nhà cầm quyền sử dụng có thể là khuôn mặt trước kia của hắn. Hộ chiếu giả mà hắn dùng để vào Ý không có hồ sơ nào ở nước sở tại để cung cấp hình hiện tại. Ở Ý, Rinaldo Pazzi đã gắng làm đơn giản cuộc sống của ông ta và làm hài lòng Mason Verger bằng cách lấy hồ sơ của Carabinieri bao gồm hình và phim âm bản dùng trên giấy phép cư trú và giấy phép lao động của “Tiến sĩ Fell”. Bác sĩ Lecter tìm thấy trong cặp của Pazzi và đã hủy chúng đi.
Trừ phi Pazzi lén lút chụp hình “Tiến sĩ Fell”, có khả năng cao là trên thế giới này không hiện hữu một tấm hình nào chụp khuôn mặt hiện tại của bác sĩ Lecter. Nó không quá khác gương mặt cũ của hắn - một chút collagen thêm vào quanh mũi và gò má, kiểu tóc được thay đổi, cùng kính mắt nhưng cũng đủ khác nếu không ai chú ý. Vết sẹo trên mu bàn tay được hắn che bằng mỹ phẩm và chất làm sạm da vĩnh cửu.
Hắn đoán trước ở sân bay thủ đô Detroit Cơ quan Nhập cư sẽ chia người đến thành hai hàng, Hộ Chiếu Mỹ và Loại Khác. Hắn đã chọn một thành phố biên giới để hàng Loại Khác sẽ đầy. Chiếc máy bay này đầy những người Canada. Bác sĩ Lecter nghĩ rằng mình có thể đi qua trót lọt cùng đám đông, miễn sao đám đông chấp nhận hắn. Hắn đã du lịch qua những địa danh lịch sử cùng họ. Hắn đã bay trong cái máy bay ngộp thở cùng họ. Nhưng cái gì cũng có giới hạn của nó. Hắn không thể ăn những thứ rác rưởi của hãng hàng không này cùng họ.
Mệt mỏi và đau chân, chán ngắt với đồ đạc và bạn đồng hành, đám khách du lịch cắm đầu vào những túi thức ăn khuya, và trong những miếng bánh mì kẹp, bọn họ lôi ra đám xà lách đen lại vì lạnh.
Không mong muốn thu hút sự chú ý về mình, bác sĩ Lecter đợi đến khi những hành khách khác đã ăn xong đồ ăn kham khổ, đợi đến khi họ đã đi vào nhà tắm, và cho tới khi đa số đã ngủ say. Xa xa phía trước đang chiếu một bộ phim cũ rích. Hắn vẫn đợi với sự kiên nhẫn của một con trăn. Bên cạnh hắn, cậu bé đã ngủ say trên chiếc máy chơi điện tử của mình. Trong chiếc máy bay rộng lớn, đèn đọc sách từ từ tắt đi.
Chỉ tới lúc đó, lén lút nhìn xung quanh, bác sĩ Lecter lấy từ dưới chỗ ngồi đằng trước ra bữa trưa đựng trong một cái hộp lịch sự màu vàng viền nâu hiệu Fauchon, một nơi cung cấp thức ăn ở Paris. Chiếc hộp được buộc hai cái nơ bằng lụa mỏng với hai màu hợp nhau. Bác sĩ Lecter đã mua cho mình một miếng patê gan ngỗng thơm mùi nấm cục, vài trái sung Anatolia vẫn còn chảy nhựa từ cuống mới cắt. Hắn lấy nửa chai ruợu St Estephe mà hắn thích. Chiếc nơ lụa phát ra tiếng sột soạt.
Bác sĩ Lecter đang chuẩn bị thưởng thức trái sung, ngậm nó trên môi, hai cánh mũi phập phồng theo mùi hương, đang băn khoăn xem nên ăn hết trái sung bằng một miếng ngoạm hay chỉ ăn phân nửa thì chiếc máy chơi điện tử bên cạnh hắn kêu lên. Nó lại kêu lên. Không quay đầu lại, tay bác sĩ cầm trái sung trong lòng bàn tay, nhìn xuống đứa bé cạnh hắn. Mùi của nấm cục, gan ngỗng và rượu cô nhắc tỏa ra từ cái hộp đang mở.
Đứa bé trai ngửi ngửi không khí. Đôi mắt nhỏ và sáng như loài gặm nhấm của nó trượt sang bên cạnh nhìn vào bữa trưa của bác sĩ Lecter. Nó nói với giọng chói tai của một đứa trẻ hay phải giành đồ với anh chị em:
“Này, ông. Này, ông.” Nó sẽ không dừng lại.
“Chuyện gì vậy?”
“Đây có phải một trong những bữa ăn đặc biệt không?”
“Không phải.”
“Thế ông có gì trong đó vậy?” vẻ ngon ngọt, đứa trẻ quay mặt đối diện bác sĩ Lecter. “Cho cháu một miếng đi ạ.”
“Ta rất muốn làm vậy,” bác sĩ Lecter trả lời, nhận thấy dưới cái đầu to, cổ của nó chỉ nhỏ như một miếng thịt heo thăn, “nhưng mà cháu sẽ không thích đâu. Đây là gan đấy.”
“Xúc xích gan! Tuyệt vời! Mẹ sẽ không nói gì đâu, mẹeeeee….!” Đứa trẻ kỳ lạ, thích xúc xích gan và nếu không rên rỉ thì la hét.
Người phụ nữ bế em bé ở cuối hàng liền tỉnh dậy.
Du khách ở hàng trên hạ ghế xuống cho đến khi bác sĩ Lecter ngửi thấy mùi tóc của họ rồi nhìn qua khe hở giữa hai ghế. “Chúng tôi đang cố ngủ đấy.”
“Mẹeeeee… con ăn mấy miếng bánh mề của ông ấy nha?”
Đứa trẻ trên đùi bà mẹ tỉnh dậy và bắt đầu khóc. Bà mẹ thọc một ngón tay vào trong tã của nó, thấy không có gì, bèn đưa cho nó một cái núm vú.
“Ông tính cho con tôi ăn gì vậy thưa ông?
“Là gan thưa bà,” bác sĩ Lecter nói nhỏ hết mức có thể. “Tôi không cho…”
“Xúc xích gan, món con khoái, con muốn ăn, ông ấy nói con có thể ăn một chút…” Đứa bé kéo dài tiếng cuối ra thành một tiếng rên rỉ chói tai.
“Thưa ông, nếu ông cho con tôi ăn gì đó, tôi có thể xem không?”
Nữ tiếp viên với bộ mặt sưng sỉa vì giấc ngủ ngắn bị đánh thức đi tới chỗ người phụ nữ khi đứa bé tru tréo lên. “Mọi việc ổn chứ? Tôi có thể mang gì đó cho bà không? Hâm nóng bình sữa nhé?”
Người phụ nữ lấy một chai sữa đậy nắp rồi đưa cho nữ tiếp viên. Mở đèn đọc sách lên và trong khi kiếm núm vú giả, bà ta gọi với lên bác sĩ Lecter. “Ông chuyển nó xuống cho tôi được không? Nếu ông cho con tôi ăn gì thì tôi muốn thấy nó. Xin lỗi ông, nhưng bao tử của nó hơi yếu.”
Ta thường xuyên để lũ trẻ ở trung tâm giữ trẻ cùng những người lạ. Cùng lúc đó, vì cảm thấy tội lỗi, ta biểu lộ sự sợ hãi thái quá đối với người lạ và khiến lũ trẻ hoảng hốt. Trong những lúc như thế này, một con quái vật thật sự cũng phải coi chừng, ngay cả với một con quái vật chẳng quan tâm gì tới trẻ con như bác sĩ Lecter.
Hắn chuyển hộp Fauchon của mình cho bà mẹ.
“Bánh mì ngon thật đấy,” bà ta nói, chọc ngón tay vừa mới kiểm tra tã vào.
“Bà có thể giữ nó thưa bà.”
“Tôi không muốn uống rượu,” bà ta nói rồi nhìn quanh tìm sự đồng tình. “Tôi không biết là có thể mang rượu theo. Đây có phải là whiskey không? Họ có cho ông uống trên máy bay không? Tôi nghĩ tôi sẽ giữ cái ruy băng nếu ông không cần.”
“Thưa ông, ông không thể khui đồ uống có cồn trên máy bay,” nữ tiếp viên nhắc nhở. “Tôi sẽ giữ hộ ông, ông có thể lấy lại nó ở cổng.”
“Vâng tất nhiên. Cảm ơn cô rất nhiều,” bác sĩ Lecter đáp.
Bác sĩ Lecter có thể chiến thắng ngoại cảnh. Hắn có thể làm nó biến mất hết. Tiếng kêu tít tít của máy chơi điện tử, tiếng ngáy và tiếng rắm chả là gì so với những tiếng thét khủng khiếp hắn nghe thấy trong phòng bạo lực. Chiếc ghế ngồi không chật hơn dụng cụ chế ngự. Như đã từng làm vô số lần trong phòng giam, bác sĩ Lecter ngửa đầu ra sau, nhắm mắt lại và lui về tìm sự yên bình trong cái tĩnh lặng của cung điện ký ức, một cung điện đa phần là khá đẹp.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi này, chiếc máy bay gào rú bay ngược gió về phía Đông chứa một cung điện rộng cả ngàn phòng.
Như đã từng viếng thăm bác sĩ Lecter trong Biệt điện Capponi, chúng ta sẽ đi theo hắn vào cung điện trí óc…
Tiền sảnh là nhà nguyện Norman ở Palermo, nghiêm trang đẹp đẽ vượt thời gian, sự nhắc nhở duy nhất về cái chết là hình đầu lâu tạc vào sàn. Trừ phi đang hết sức vội vã tìm kiếm thông tin trong cung điện, bác sĩ Lecter thường dừng lại ở đây như hắn đang làm để chiêm ngưỡng nhà nguyện. Đằng sau nó, xa xôi và phức tạp, nửa sáng nửa tối, là kiến trúc to lớn do bác sĩ Lecter tạo lên.
Cung điện ký ức là một hệ thống ghi nhớ nổi tiếng với những học giả cổ đại và đa số thông tin đã được họ bảo tồn qua Thời kỳ Đen tối khi những kẻ phá hoại thiêu hủy sách. Như những học giả trước mình, bác sĩ Lecter lưu giữ một lượng khổng lồ thông tin gắn kết với những vật thể trong cả ngàn căn phòng của hắn, nhưng khác với những tiền nhân cổ đại, bác sĩ Lecter có một mục đích khác cho cung điện của mình; đôi khi hắn sống trong đó. Hắn đã trải qua nhiều năm giữa những bộ sưu tập tinh tế của nó, trong khi cơ thể hắn bị trói buộc trong phòng bạo lực với những tiếng thét làm rung động các thanh sắt như âm đàn hạc từ địa ngục.
Cung điện của Hannibal Lecter thật rộng lớn ngay cả với tiêu chuẩn Trung cổ. Nếu chuyển sang thế giới hữu hình thì kích thước và sự phức tạp của nó có thể sánh với cung điện Topkapi ở Istanbul.
Ta bắt kịp hắn vừa đúng lúc trí óc nhanh nhẹn của hắn lướt qua tiền sảnh để vào Đại Hội trường Bốn mùa. Cung điện được xây dựa theo những quy luật do Simonides Ceos khám phá ra và Cicero trau chuốt bốn trăm năm sau; trông thoáng đãng với trần nhà cao, cung điện được trang trí bởi những vật thể và cảnh sắp đặt sống động, nổi bật, đôi khi gây sốc, vô lý và thường tuyệt đẹp. Các vật trưng bày được để cách nhau một khoảng hợp lý và chiếu sáng tốt như trong một bảo tàng vĩ đại. Nhưng những bức tường không có màu trung hòa như các bức tường bảo tàng mà được bác sĩ Lecter vẽ đầy bích họa như Giotto đã làm.
Khi ở trong cung điện trí óc, hắn đã quyết định lấy địa chỉ nhà của Clarice Starling, nhưng không vội làm điều đó, do vậy hắn dừng ở chân cầu thang vĩ đại nơi đặt những bức tượng đồng của Riace. Những chiến binh bằng đồng vĩ đại này, được cho là do Phidias tạo ra, đưa lên từ đáy biển vào chính thời của chúng ta, là trung tâm của khoảng không đầy bích họa đủ để diễn tả lại toàn bộ các câu chuyện của Homer và Sophocles.
Nếu muốn, bác sĩ Lecter có thể làm cho những bộ mặt đồng kể lại câu chuyện về Meleager nhưng hôm nay hắn chỉ muốn nhìn chúng.
Một ngàn gian phòng, hàng dặm hành lang, hàng trăm sự kiện gắn liền với từng đồ vật trang trí phòng, một nơi thư giãn dễ chịu luôn đợi bác sĩ Lecter mỗi khi hắn chọn nghỉ ngơi ở đây.
Nhưng chúng ta cũng cần phải chia sẻ với tay bác sĩ chuyện này: trong những mái vòm của trái tim và khối óc ta, nguy hiểm luôn chực chờ. Không phải mọi gian phòng đều đẹp đẽ, sáng trưng và cao ráo. Sàn nhà của trí óc cũng có những lỗ hổng như sàn nhà ngục tối thời Trung cổ - những ngục tối hôi thối mà trong tiếng Pháp có nghĩa là sự lãng quên, những gian xà lim thắt cổ chai với cửa sập trên trần. Không có gì trong đó thoát ra yên lặng để làm ta thoải mái. Một trận động đất, vài hành động phản bội của những kẻ hộ tống cho ta sẽ khiến tia lửa của ký ức bùng lên đốt cháy những đám khí độc hại - những thứ được nhốt nhiều năm trời sẽ thoát ra, sẵn sàng nổ tung lên đau đớn, khiến ta gây ra những hành động nguy hiểm.
Vừa sợ hãi vừa hứng thú, ta theo hắn di chuyển thật nhanh dọc theo hành lang hắn tạo ra, xuyên qua hương cây dành dành, qua sự hiện hữu o ép của những bức tượng điêu khắc, và qua ánh sáng của những bức tranh.
Đường hắn đi vòng về mé phải ngang qua tượng bán thân của Pliny và lên một cầu thang để vào Đại Sảnh Của Những Địa Chỉ, một căn phòng với những pho tượng và bức tranh xếp dài theo thứ tự nhất định, cách xa nhau và chiếu sáng đầy đủ như Cicero đề nghị.
Đây rồi… Hốc tường thứ ba bên phải từ cửa chễm chệ một bức tranh Thánh Francis đút một con ngài cho một con chim sáo. Trên sàn dưới bức tranh là cảnh sắp đặt theo kích cỡ thật bằng cẩm thạch sơn màu:
Một cuộc diễu hành ở Nghĩa trang Quốc gia Arlington do Giêsu dẫn đầu, ba mươi ba tuổi, lái một chiếc xe tải Ford mẫu T đời 1927, được đặt tên “kẻ hầu đáng tin”, J. Edgar Hoover mặc một bộ váy ba lê đứng trên thùng xe và vẫy về phía một đám đông xa xa.
Đi đằng sau hắn, Clarice Starling khoác trên vai khẩu súng trường Enfield .308.
Bác sĩ Lecter có vẻ hài lòng khi thấy Starling. Thông qua Hội Cựu Sinh viên Đại học Virginia, hắn có được địa chỉ nhà của Starling đã lâu. Hắn giấu địa chỉ trong cảnh sắp đặt này. Và bây giờ, một cách thoải mái, hắn gọi ra số nhà và tên đường nơi Starling ở:
3327 Tindal
Arlington, VA 22308
Bác sĩ Lecter có thể di chuyển qua những đại sảnh cung điện ký ức của hắn với tốc độ siêu nhiên. Với phản xạ nhanh, với sức mạnh, sự lĩnh hội đầy đủ về thế giới và trí óc nhanh nhạy, bác sĩ Lecter được vũ trang đầy đủ để chống lại thế giới thực tại. Thế nhưng có những chỗ trong chính mình mà hắn không thể đi tới một cách an toàn, nơi những quy luật về logic, về trật tự của ánh sáng và không gian của Cicero không được áp dụng…
Hắn quyết định thăm bộ sưu tập vải sợi cổ. Để viết một lá thư cho Mason Verger, hắn muốn xem lại một văn bản của Ovid về lĩnh vực dầu bôi mặt có hương thơm được đưa vào những tấm vải.
Hắn đi dọc theo một miếng vải trang trí dệt phẳng hấp dẫn về phía sảnh chứa khung dệt và vải sợi.
Trong thế giới của chiếc 747, bác sĩ Lecter mắt nhắm lại ngả đầu trên ghế. Đầu hắn khẽ nhúc nhích theo nhịp không khí xoáy va vào máy bay.
Ở cuối hàng, đứa bé đã uống xong chai sữa mà vẫn chưa ngủ. Mặt nó đỏ lên. Bà mẹ cảm thấy cơ thể bé nhỏ của nó hơi gồng lên trong mền rồi thả lỏng. Không cần chọc ngón tay vào tã, bà ta cũng biết chuyện gì đã xảy ra. Ở hàng ghế trên, ai đó thốt lên: “Lạy Chúa.”
Mùi hôi như trong phòng tập thể dục của máy bay lại được thêm một lớp mùi. Đứa bé trai ngồi kế bác sĩ Lecter chẳng lạ gì với thói quen của em bé nên cứ tiếp tục ăn bữa trưa trong cái hộp Fauchon.
Ở dưới cung điện ký ức, các cửa sập bật mở, những xà lim phả ra hơi thở hôi thối kinh khủng…
Một vài con thú đã gắng sống sót dưới những phát súng đại bác và súng máy trong trận đánh giết chết cha mẹ của Hannibal Lecter, làm khu rừng rộng lớn trong lãnh địa của họ bị thổi tung lên và đầy vết lõm.
Một đám lộn xộn những kẻ đào ngũ đang dùng cái chòi săn ở nơi hẻo lánh để ăn những gì chúng tìm thấy. Một lần nọ, chúng thấy một con hươu bé nhỏ khốn khổ, gầy còm và bị dính một mũi tên, nó đã cố ăn cỏ dưới lớp tuyết để sống sót. Chúng dẫn nó về khu trại để khỏi phải vác.
Hannibal Lecter, sáu tuổi, nhìn xuyên qua khe hở chuồng ngựa khi chúng dẫn con hươu vào, kéo đầu nó bằng sợi dây quấn quanh cổ. Không muốn nổ súng, chúng đã vật ngã nó khỏi bốn chân khẳng khiu rồi cắt cổ bằng rìu, sau đó, lại dùng nhiều thứ tiếng chửi bới lẫn nhau đòi mang ra một cái tô để không bỏ phí máu hươu.
Con hươu còi cọc chẳng được bao nhiêu thịt nên sau hai hay ba ngày, giấu mình trong những cái áo khoác dài, với hơi thở hôi hám và bốc khói, những kẻ đào ngũ đi xuyên qua tuyết từ căn lều săn, mở khóa chuồng ngựa và lại lựa chọn giữa đám trẻ co quắp trong đống rơm. Chưa có đứa nào chết cóng nên chúng chọn một đứa còn sống.
Chúng sờ nắn đùi, bắp tay và ngực của Hannibal Lecter, nhưng chúng không chọn hắn mà là đứa em gái, Mischa và dẫn con bé đi. Đi chơi, chúng bảo thế. Chưa đứa nào được dẫn đi chơi lại trở về cả.
Hannibal giữ chặt Mischa, dùng nắm tay rắn rỏi để giữ lấy Mischa cho tới khi chúng dập cánh cửa chuồng ngựa nặng vào làm hắn choáng váng và bị rạn xương cánh tay.
Chúng dẫn cô bé đi xuyên qua đám tuyết vẫn còn dính máu của con hươu.
Hắn đã ra sức khẩn cầu xin được gặp lại Mischa lần nữa, lời cầu nguyện chiếm hết trí óc của đứa bé sáu tuổi nhưng cũng không làm tắt đi tiếng cây rìu. Lời cầu nguyện xin được gặp lại cô bé cũng có đôi chút linh nghiệm - hắn thấy vài cái răng sữa của Mischa trong hố phân bốc mùi mà bọn bắt giữ hắn sử dụng giữa cái lều nơi chúng ngủ và chuồng ngựa nơi chúng giữ lũ trẻ bị bắt để làm đồ ăn trong năm 1944 sau khi Tiền tuyến phía Tây sụp đổ.
Kể từ khi nhận được câu trả lời dở dang cho lời cầu nguyện, Hannibal Lecter chẳng thèm để ý gì đến thánh thần ngoài việc nhận thấy việc ăn thịt người nhỏ nhoi của hắn chả là gì so với việc làm của Chúa, người mà trớ trêu thay lại không có đối thủ và thích đùa giỡn ác ý không ai bằng.
Trong chiếc máy bay bị va đập nặng nề, đầu bác sĩ Lecter gục gặc lên xuống nhẹ nhàng chỗ tựa đầu, hắn bị treo lơ lửng giữa đám tuyết đầy máu và âm thanh của cái rìu. Hắn bị giữ ở đó và không thể chịu nổi nữa. Trong máy bay, tiếng thét sắc nhọn mỏng manh the thé của hắn vang lên từ khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi.
Hành khách ngồi đằng trước hắn quay lại, vài người tỉnh ngủ. Vài người ngồi hàng ghế trước càu nhàu. “Nè nhóc, lạy Chúa, mày bị sao vậy? Chúa ơi!”
Đôi mắt bác sĩ Lecter mở to, nhìn về phía trước. Một bàn tay để trên tay hắn. Đó là bàn tay của đứa bé trai.
“Ông gặp ác mộng hả?”
Đứa trẻ không sợ, cũng không quan tâm tới những lời phàn nàn từ những hàng ghế phía trước.
“Đúng vậy.”
“Cháu cũng gặp ác mộng rất nhiều lần. Cháu sẽ không cười ông đâu.”
Bác sĩ Lecter hít thở vài hơi, đầu tựa vào ghế. Không lâu sau, sự điềm tĩnh trở lại với hắn như thể vừa trôi từ chân tóc xuống mặt. Hắn nghiêng đầu về phía đứa bé, nói bằng giọng tự tin, “Cháu biết không, cháu không ăn thứ rác rưởi này là đúng. Đừng bao giờ ăn nó.”
Các hãng hàng không chẳng cung cấp giấy bút nữa. Khi hoàn toàn kiểm soát được chính mình, bác sĩ Lecter lấy giấy bút dùng trong khách sạn từ túi áo ngực và bắt đầu viết một lá thư cho Clarice Starling. Đầu tiên, hắn vẽ gương mặt cô. Bức vẽ sau này nằm trong một bộ sưu tập cá nhân của trường đại học Chicago và được đưa ra cho các học giả nghiên cứu. Trong bức vẽ, Starling trông như một đứa trẻ và tóc cô, hệt như tóc của Mischa, dính bệt nước mắt trên má…
Ta có thể thấy chiếc máy bay xuyên qua màn hơi thở, một điểm sáng rực rỡ trong đêm quang đãng. Thấy nó vượt qua sao Bắc đẩu, vượt qua điểm không thể vãn hồi, quyết tâm bay một đường cong vĩ đại tới ngày mai trong Tân Thế giới.