Hồi ký Lý Quang Diệu - Chương 03 phần 3

Tôi làm việc cho kumiai được khoảng tám tháng, đến cuối năm 1943, thì đọc được một mẩu quảng cáo của Hodobu, bộ phận thông tin tuyên truyền Nhật có trụ sở tại cao ốc Cathay, đăng trên tờ Syonan Shimbun. Bộ phận này đang cần các biên tập viên tiếng Anh. Tôi tới nơi và được George Takemura, một người Nhật sinh tại Mỹ, phỏng vấn. Đó là một người gầy, cao, trắng trẻo, nói tiếng Anh với giọng Mỹ. Ông ta không mặc quân phục sỹ quan Nhật mà mặc đồ dân sự trong khối quản trị quân đội với năm ngôi sao xanh dương – tương đương với cấp đại úy. Ông ta ăn nói nhỏ nhẹ, và thực ra là người rất lịch sự. Ông hài lòng với tiếng Anh của tôi, và tôi hài lòng vì đã tìm được một chỗ mà nhiều người mong muốn.

Công việc của tôi là theo dõi các hãng thông tấn của Đồng minh: Reuters, UP, AP, Thông tấn xã trung ương Trung Quốc và TASS. Những tin tức này được đánh đi bằng tín hiệu morse, và được các hiệu thính viên của đài phát thanh Malay bắt được. Vào lúc chiều tối thì tín hiệu không được tốt lắm, nên nhiều chữ bị ngắt mất. Tôi phải giải mã và dựa theo toàn văn để đoán ra những chữ bị mất, cứ như chơi trò ở chữ. Các mẩu tin phải được đối chiếu sắp xếp lại theo từng mặt trận khác nhau và gởi từ tầng trên cùng của cao ốc Cathay xuống tầng kế bên dưới để được cắt sửa và phát thanh. Tôi làm việc ở đó được 16 tháng cho đến cuối năm 1944.

Đó là một cuộc sống kỳ lạ. Công việc của tôi bắt đầu lúc 7 giờ sáng giờ Tokyo, tức 5 giờ 30 ở Singapore, cho đến khi trời sáng. Tín hiệu vô tuyến rất kém cho tới nửa đêm giờ Tokyo. Nên trong ca đầu từ 7 giờ chiều đến 12 giờ trưa, công việc rất cực, nhưng ta được về sớm để ngủ. Thời gian từ 12 giờ trưa tớí 9 giờ tối được chia làm hai ca, với một đoạn nghỉ hai tới ba tiếng giữa hai ca. Tín hiệu lúc này khá hơn, ít bị tạp âm ở những chữ hay đoạn câu bị lạc mất, nhưng cũng có nghĩa là phải ngủ trong những giờ trái khoáy.

Mỗi ca làm việc đều có hai biên tập viên. George Takemura, thường mặc đồng phục và không có áo khoác vì khí hậu nóng và ẩm, có thể ghé vào mỗi tối vài lần, cho tôi và nhân viên biên tập kia một gói thuốc lá Nhật trong suất chế độ của ông. Tôi phải luôn luôn tỉnh táo, thỉnh thoảng ngủ chút đỉnh từ 4 đến 6 giờ sáng sau khi thu xếp công việc với bạn làm cùng ca, rồi làm việc tiếp đến 9 giờ sáng, khi tình hình sóng vô tuyến lại trở nên tồi tệ. Sóng tín hiệu trở nên vô vọng khi trời nắng, nên các tín hiệu viên cũng kết thúc công việc trong ngày. Tôi thường đi bộ hai dặm rưỡi từ cao ốc Cathay về đường Norfolk để ăn bữa giữa sáng rồi đi ngủ thêm vài tiếng nữa.

Những ảnh hưởng tâm lý của công việc này còn kỳ cục hơn cả giờ giấc làm việc nữa. Trong nhiều giờ liền, trong đầu tôi đầy những tin tức về một cuộc chiến ngày càng trở nên bất lợi cho Nhật cũng như cho Đức và Ý. Nhưng nếu nói chuyện này ra với người ngoài là sẽ gặp nguy hiểm đến tính mạng. Ở tầng trệt của cao ốc Cathay có một bộ phận của Kempeitai. Mỗi nhân viên làm ở đây đều có một tập hồ sơ. Công việc của Kempeitai ở đây là bảo đảm không ai tiết lộ gì được ra ngoài.

Từ cuối năm 1943, thực phẩm ngày càng khan hiếm. Hải quân Nhật bị thua nhiều trận và thiệt hại nặng nề trong những trận ở đảo Midway và vùng biển Coral[8]. Họ đã mất quyền kiểm soát mặt biển và tàu của họ liên tục bị tàu ngầm Đồng minh bắn chìm. Ngay cả Thái Lan, nước xuất khẩu gạo xưa nay, cũng không thể chuyển gạo sang Singapore, hoặc do người Nhật không muốn trả tiền gạo hoặc do họ không thể chuyên chở qua được.

[8] Midway: đảo nhỏ trong quần đảo Hawaii. Biển Coral: thuộc Thái Bình Dương, ở Tây Bắc Úc và phía Nam quần đảo Salomon.

Rơi vào cảnh phải ăn thứ gạo dự trữ ẩm mục trộn với gạo trồng ở Malaysia, chúng tôi đành tìm món thay thế. Mẹ tôi, cũng như nhiều người khác, chế biến chút đỉnh gạo chúng tôi có được với bắp, kê và những thứ rau củ mà lúc bình thường chúng tôi không hề đụng tới, như rau lang, lá khoai mì nấu với nước dừa. Những thứ đó không ngon miệng lắm, nhưng chúng làm đầy bụng tuy không có dinh dưỡng cao. Cỡ một tiếng sau bữa ăn là anh em tôi bắt đầu thấy đói kỳ lạ. Thịt là món xa xỉ. Chẳng có bao nhiêu bò hay cừu. Thịt heo thì dễ mua hơn và chúng tôi có thể tự nuôi gà, nhưng cũng chẳng có bao nhiêu thức ăn thừa để cho chúng ăn.

Tài tháo vát của mẹ tôi bị thử thách rất dữ trong thời chiếm đóng. Khi tổng số tiền lương của cha tôi, em Dennis của tôi và cả tôi nữa dần trở nên nhỏ nhoi vì lạm phát thì bà bắt đầu làm đủ thứ dịch vụ. Là con gái một gia đình người Hoa xứ này, bà đã học được cách nấu nướng và làm bánh. Bây giờ bà làm bánh để bán. Khi không còn kiếm ra bột mì và bơ nữa thì bà dùng bột khoai mì, bột gạo, bột cọ, nước dừa và đường thốt nốt. Từ sữa tươi bà làm được sữa đặc có đường. Bà là một đầu bếp giỏi. Sau này, khi tôi làm thủ tướng, bà vẫn dành thì giờ dạy nghệ thuật nấu ăn kiểu người Hoa cho các phụ nữ xa quê hương, trong đó có cả các bà vợ của những viên chức ngoại giao đoàn. Bà còn viết cuốn Mrs Lee’s Cookbook (Sách nấu ăn của Bà Lee), bán khá chạy ngay cả sau khi bà đã mất.

Mọi thứ đều khan hiếm. Xe hơi thì biến mất, ngoài những chiếc dùng cho quân đội hay các viên chức cao cấp. Một số dân địa phương có xe hơi làm môi giới trong thị trường chợ đen. Việc buôn bán rất sôi nổi với các mặt hàng thuốc tây đang ngày càng khan hiếm, hay lấy từ những kho thuốc trữ từ hồi trước chiến tranh. Thứ có giá nhất là Sulphonamide Pyridine. Những món hàng có lãi cao khác là rượu như Johnnie Walker và Hennessy, thuốc lá Anh trong hộp thiếc 50 điếu, nữ trang, bất động sản và tiền dùng trong Các thuộc địa vùng eo biển (tiền Singapore dùng trước thời Nhật chiếm đóng).

Các tay môi giới hoạt động chủ yếu trên đường High hoặc Chulia, gần quảng trường Raffles. Tôi tham gia hàng ngũ này vào năm 1944 và học cách trữ hàng, nhất là những món nữ trang nho nhỏ ngày càng mất giá. Tôi mua những thứ đó, trữ vài tuần, rồi bán lại với giá chắc chắn là cao hơn. Cũng rất dễ kiếm tiền nếu mình có những mối mang làm ăn tốt. Ở đầu dây bên này là những người thuộc lớp trung lưu đang phải bán tài sản của ông bà để mong sống còn. Mẹ tôi quen biết rất nhiều phụ nữ gia đình khá giả trước đây, nay cần phải bán nữ trang và tài sản tại một xứ Singapore đang ngày càng khan hiếm thực phẩm. Bọn môi giới chúng tôi sẽ gạ bán những món đó cho những người ở đầu dây bên kia. Đó là những người muốn bán cho các viên chức Nhật đang nóng lòng đổi mớ tiền chuối thành những món có giá trị lâu dài hơn, hoặc để tặng cho các sỹ quan Nhật đã dành cho họ những hợp đồng béo bở.

Điều then chốt để sống còn là khả năng xoay xở. Một công việc do tôi tiến hành đã thay đổi dòng đời của tôi. Khi làm môi giới trong chợ đen, tôi gặp Yong Nyuk Lin, một sinh viên khoa học của Đại học Raffles đang làm việc cho Công ty bảo hiểm hải ngoại trên đường Chulia, Nyuk Lin và tôi thường đến một tiệm kim hoàn của hai anh chàng người Hakka, cũng là sinh viên Raffles, làm với ông anh của họ. Cửa tiệm đó là nơi gặp gỡ của các tay môi giới chuyên mua bán các món nữ trang. Cửa tiệm Barsai trên đường Chulia của một người Ấn chuyên bán văn phòng phẩm trước đó đã hỏi tôi có thể kiếm đâu ra hồ dán cho văn phòng không, thứ này chỉ tồn kho một ít từ trước chiếm đóng, nay đã cạn. Mình có thể tự làm được không? Tôi hỏi Nyuk Lin có biết làm hồ dán không. Anh ta nói anh biết làm, bằng bột khoai mì và một ít acid. Thế là tôi chi cho anh ta ít tiền để làm thử.

Cách làm của Nyuk Lin là dùng một nồi lớn đổ đầy bột khoai mì đặt trong một chảo dầu sôi. Anh ta dùng dầu dừa, một thứ rẻ và dễ mua. Anh giữ dầu ở nhiệt độ cao để làm nóng bột khoai mì, thứ này phải khuấy đều tay cho đến khi biến thành một chất sền sệt màu vàng nâu. Nó có hình dạng và mùi như đường caramel. Anh ta thêm nước và mớ caramel ấy tan thành một thứ hồ keo, sau đó anh thêm chút acid carbolic làm chất bảo quản chống mốc. Thứ hồ dán này được đóng vào chai Scotts Emulsion vốn là thứ cũng rẻ và dễ thu mua. Tôi đặt cho thứ hồ dán này cái tên là “Stikfas”, nhờ một anh bạn có hoa tay thiết kế một tờ nhãn coi hấp dẫn có chữ màu nâu nhạt trên nền trắng.

Thứ hồ dán này hóa ra có lãi kha khá và chúng tôi sản xuất ở hai nơi. Một là nhà tôi, có mẹ và em gái tôi giúp sức. Chỗ kia là nhà Nyuk Lin, anh có vợ và một cô em vợ phụ việc. Cô em vợ chính là Kwa Geok Choo, cô gái luôn học giỏi hơn tôi tại Đại học Raffles. Tôi đã thấy cô trước đó khi tôi đến tìm Nyuk Lin tại căn hộ của anh ta trên đường Tiong Bahru bằng chiếc xe đạp bánh đặc của tôi. Cô đang ngồi ở hàng hiên khi tôi tới, và lúc tôi hỏi anh ta ở đâu, cô đã mỉm cười và chỉ vào một cầu thang gần đó. Bây giờ chúng tôi gặp nhau trong những tình huống khác. Cô phải ở nhà, chẳng có việc gì làm, ngoài những việc trong nhà vì không còn đầy tớ nữa. Làm hồ dán thì cũng cực nhưng đem lại cho cô ít tiền tiêu vặt, và những lần tôi ghé lại để theo dõi công việc sản xuất đã khiến nảy sinh tình bạn qua thời gian.

Đến tháng 9/1944, chúng tôi đã quen nhau khá thân để tôi có thể mời Nyuk Lin, vợ anh ta và Geok Choo (hay chỉ gọi là Choo) dùng một dạ tiệc nhân kỷ niệm sinh nhật thứ 21 của tôi tại một nhà hàng Tàu trong khu Đại Thế Giới. Đó là lần đầu tôi mời cô đi chơi. Thực ra, cô còn có anh rể đi cùng, nhưng ở Singapore thời đó, nếu một thiếu nữ nhận lời mời tới dự tiệc sinh nhật thứ 21 của một chàng trai, thì đó là một sự kiện không phải là không có ý nghĩa.

Chuyện làm hồ dán kéo dài được khoảng sáu bảy tháng, cho đến cuối năm 1944. Lúc đó Nhật bắt đầu thua trận. Ít có tàu buôn nào đi lại được và việc thương mại đình đốn, công việc kinh doanh thu hẹp và các văn phòng chẳng cần tới hồ dán nữa. Tôi chấm dứt việc làm hồ dán, nhưng tiếp tục tới thăm Choo tại căn nhà ở đường Tiong Bahru để nói chuyện gẫu và giữ gìn tình bạn.

Tháng 5, âm mưu của Nhật muốn xâm chiếm Ấn Độ qua ngả Miến Điện (nay là Myanmar) bị thất bại tại Imphal và Kohima. Lần này đến lượt người Nhật phải rút quân. Họ chống cự điên cuồng và kiên trì ngay cả lúc rút lui, và tôi đọc được những thông báo về cuộc chống cự dai dẳng của họ khi người Anh tiến vào Mandalay và dọc theo bờ biển Arakan của Miến Điện. Tôi cảm thấy chắc chắn là người Anh rồi sẽ tiến quân xuống bán đảo Malaysia theo cùng kiểu như vậy, và e rằng, khi người Nhật chiến đấu tới cùng, việc tái chiếm Singapore sẽ là cuộc chiến giành từng con đường, từng ngôi nhà rồi đi đến một kết cục đẫm máu, trong đó có rất nhiều dân sự thương vong. Chuyện đó chỉ còn là vấn đề thời gian, một hay hai năm nữa thôi.

Tôi quyết định rằng phải rời Singapore khi tình hình còn yên tĩnh, và tôi có thể xin thôi việc ở Hodobu mà không ai nghi ngờ về động cơ của tôi. Tôi xin nghỉ phép và đi Malaysia để thám sát Penang và cao nguyên Cameron xem nơi nào là an toàn hơn. Tôi đi từ Singapore sang Penang rồi đi xe lửa tới Tapah, nhưng từ Tapah tới cao nguyên Cameron, tôi được quá giang một xe tải chở rau quả và ngồi kế bên tài xế. Sau hai đêm ở tại Cameron, tôi trở về Tapah cũng bằng cách quá giang như vậy. Đó là một chuyến đi rởn tóc gáy. Để tiết kiệm xăng dầu, tài xế đã tắt máy cho xe thả dốc trên con đường ngoằn nghoèo gần hai tiếng rưỡi đồng hồ.

Tại Penang, tôi lưu lại chỗ của Hon Sui Sen. Năm 1942, khoảng bốn tháng trước khi Nhật chiếm Singapore, Hon đã gửi vợ và con gái về Penang và qua trọ ở nhà tôi trên đường Norfolk. Chúng tôi ở chung phòng và trở thành bạn, nhưng chín tháng sau anh ta quyết định rằng không nên ở lại Singapore nữa. Anh ta là sinh viên khoa học giỏi nhất trong khóa của anh, và là một trong hai người được tuyển hàng năm vào ngạch công chức của Anh (sau này anh ta trở thành Bộ trưởng Tài chính của chúng tôi.) Nhưng lương công chức của anh rất ít ỏi, suất chế độ lại không tương xứng nên anh không đủ nuôi gia đình. Do đó anh quay về với họ ở Penang.

Tuy tôi thấy ít có chiến sự khi loanh quanh ở Penang, nhưng tôi cũng không chọn nơi này. Nó tất sẽ là bàn đạp của người Anh khi họ muốn tiến sang Singapore. Sẽ có chiến tranh trên các đường phố, từng căn nhà một. Nên tôi đi tiếp tới cao nguyên Cameron nơi Maurice Baker, bạn tôi ở đại học, có nhà ở ngôi làng Ringlet trên độ cao cả nghìn mét. Anh và một số bạn đang sống nhờ vào tiền tiết kiệm và trồng rau quả. Tôi trả được tiền xe nhờ bán nửa tá cuốc bằng sắt mang từ Singapore sang và kiếm lời khá lớn. Nông dân ở đây rất cần món đó. Trong chuyến về, tôi mua một giỏ các thứ rau khó mua được ở Singapore, và dành cả ngày rưỡi trên xe lửa để giữ cho chúng đừng bị dập.

Về tới nhà, tôi bàn bạc công việc với mẹ tôi. Chúng tôi thấy rằng tốt nhất là dọn lên cao nguyên Cameron. Bước đầu tiên chúng tôi tìm cách sang lại ngôi nhà ở đường Norfolk cho một nhóm người Nhật làm việc ở kumiai. Họ trả cho chúng tôi 60 nghìn tiền chuối để nhận được quyền mướn căn nhà này. Rồi tôi làm đơn xin nghỉ trước một tháng gửi cho Hodobu.

Khi tôi đi thang máy trong cao ốc Cathay xuống tầng trệt vào ngày trước hôm tôi chính thức thôi việc, người gác thang máy mà tôi đã đánh bạn từ lâu, thận trọng nói cho tôi hay là hồ sơ của tôi trong phòng Kempeitai đã được mang ra nghiên cứu. Tôi nghe mà lạnh cả người. Tôi tự hỏi cái gì đã gây ra chuyện này và chuẩn bị tư thế để bị họ hỏi cung. Từ phút đó, tôi cảm được rằng mình đang bị theo dõi. Suốt ngày đêm, một nhóm người bám đuôi tôi, tôi đặt ra đủ thứ giả thuyết trong đầu, và chỉ có thể kết luận rằng đã có ai đó tố với Kempeitai rằng tôi là kẻ thân Anh và tôi đã tiết lộ tin tức về những chiến bại của Nhật, và đó là lý do khiến tôi xin nghỉ việc. Mỗi lần ít nhất có hai người theo dõi bên ngoài cửa tiệm trên phố Victoria, nơi chúng tôi tạm trú sau khi rời khỏi Norfolk. Cha tôi đã mướn căn nhà này của hãng xăng nơi ông làm việc.

Để khám phá xem mình có bị theo dõi không, tôi nhờ hai đứa em Dennis và Fred phục ở cửa sổ trên lầu và nhìn hai người đàn ông người Hoa ở góc đường Bras Basah và Victoria với hai chiếc xe đạp để kế bên. Rồi tôi đạp xe quanh một vòng khu phố. Khi tôi trở lại, chúng xác định hai người đàn ông ấy cũng đi ngay khi tôi đi và trở lại sau khi tôi trở lại. Tim tôi thắt lại. Tôi kể với mẹ và quyết định rằng tốt nhất là tôi không rời Singapore. Nếu tôi rời đi, Kempeitai chắc chắn sẽ bắt tôi lại để thẩm vấn. Nếu tôi ở lại và làm ăn công khai, sống một đời vô hại, hoạt động trong thị trường chợ đen, làm hồ dán sống qua ngày thì chúng sẽ để tôi yên.

Tôi chịu đựng trò mèo vờn chuột này chừng tám tuần. Đôi khi, lúc 2 hay 3 giờ sáng, một chiếc xe hơi chạy qua nhà và đậu lại gần ngã tư cắt ngang đường Bras Basah. Thật khó mà diễn tả được nỗi sợ hãi trùm lấy tôi khi nghĩ rằng chúng sắp đến bắt mình. Như nhiều người khác, tôi đã từng nghe nói tới những kinh hoàng trong việc Kempeitai tra tấn tội nhân. Chúng thường đeo băng tay trắng với hai chữ Hoa màu đỏ kempei, nghĩa là quân cảnh, và không ai dám nghi ngờ quyền được bắt giữ và tra hỏi của chúng, ngay cả những sỹ quan cao cấp Nhật. Chúng có trụ sở tại một cao ốc trên đường Stamford, và các chi nhánh ở đường Oxley Rise, Smith Street và đồn cảnh sát trung tâm trên đường South Bridge. Dân sống gần đó kể rằng họ thường nghe những tiếng gào đau đớn của các nạn nhân, những tiếng gào được tính toán nhằm khủng bố người khác, và nỗi sợ hãi đó truyền đi từ miệng người này sang miệng người khác. Đó là một phương pháp tinh vi để khủng bố dân địa phương; dân chúng sợ hãi thì dễ kiểm soát.

Tôi chẳng có đường dây với bất kỳ tổ chức ngầm nào để tiết lộ các tin tức của Đồng minh. Tôi chẳng có lý do gì phải lén nghe bất cứ đài phát thanh nào bởi vì dù sao công việc của tôi là xử lý các bản tin Tây phương. Tôi quyết định nếu bị bắt, tôi sẽ nói với họ điều tôi sợ, rằng sau khi tái chiếm Miến Điện, người Anh sẽ tái chiếm Malaysia rồi tiến về Singapore trong khi người Nhật sẽ chiến đấu tới giọt máu cuối cùng. Do đó tôi đã lên kế hoạch rời đảo đi trồng khoai mì, khoai lang và các thứ rau ở cao nguyên Cameron, nơi đó sẽ không nằm trên đường hành quân của bất cứ phe nào. Tôi sẽ trưng bằng chứng về chuyến đi Penang và Cameron của tôi, rồi sau đó là chuyến đi của mẹ và em trai tôi kế đó hai tháng để khẳng định nhận xét của tôi rằng đấy là nơi an toàn nhất cho gia đình. Nhưng một ngày kia, sau hai tháng như thế, việc theo dõi ngừng lại. Đó quả là một chuyện làm tôi mất cả tinh thần.

Sau khi thôi làm hồ dán vì không còn ai mua nữa, tôi kết hợp với một người Thượng Hải tên là Low You Ling. Anh ta là một nhà thầu xây dựng cỡ nhỏ, tuổi khoảng ngoài ba muơi. Anh ta không có người hợp tác. Tôi biết nói tiếng Nhật, anh ta thì không. Hai chúng tôi thầu được những công việc nho nhỏ từ các công ty Nhật và từ butai, các trung đoàn đóng quân tại Singapore. Để gia tăng quan hệ với khu vực dân sự, tôi liên kết với ông Kageyama, một viên chức dân sự Nhật, tuổi ngoài ba mươi, từng làm việc cho kumiai. Khi trong kumiai chẳng còn bao nhiêu công việc vì tàu bè Nhật cứ bị đánh chìm và hàng hóa trở nên khan hiếm, ông ta quyết định tách ra làm một trung gian giữa các công ty lớn của Nhật, quân đội và các nhà cung ứng địa phương. Ông ta và tôi bổ sung cho nhau, với Low có khả năng thi công và nhiều quan hệ với các nhóm thợ xây, thợ mộc, thợ nề mà chúng tôi cần đến. Kết hợp với nhau, chúng tôi cũng kiếm sống được.

Tôi tiếp tục hoạt động trong thị trường chợ đen, làm môi giới cho bất cứ thứ gì buôn bán được. Đó là tình thế không có gì để lỗ. Mọi thứ đều ngày càng khan hiếm. Siêu lạm phát nghĩa là cái gì cũng lên giá. Nhưng người ta phải có vốn mới giàu lên được. Tôi đã có thể huy động vốn và mau lẹ tích lũy thêm được một số. Tôi hiểu một khi nắm tiền mặt thì điều quan trọng nhất là biến ngay nó thành món gì có giá trị lâu dài hơn, nếu không nó sẽ biến mất ngay trên tay mình. Trong cơn điên cuồng biến tiền chuối thành tài sản khác, tôi đã mua một cái bàn billard, cho phục hồi và đánh bóng lại, bọc nỉ mới và cho đặt trên lầu căn nhà ở đường Victoria. Trong tháng 3 và 4/1945, một người bạn của cha mẹ tôi đã dọn khỏi cao ốc China và đề nghị tôi tìm cách sử dụng nó. Nên tôi có thể sử dụng căn nhà đường Victoria cho công chuyện làm ăn lẫn giải trí, công việc, vì kế nhà tôi là lò làm bánh kẹo, nơi dân buôn bán thường tập trung để trao đổi thông tin và thỏa thuận làm ăn; giải trí, bởi vì có bàn billard. Đấy là một kiểu sống hiện sinh, mỗi ngày cuộc tái chiếm lại càng tới gần, có thể đem hiểm nguy cho tất cả dân địa phương. Trong khi đó, người ta vẫn cứ phải sống và tiếp tục công việc như thường.

Tháng 5, có tin về việc Đức bị đánh bại và đã đầu hàng. Bây giờ mọi lực lượng Đồng minh đều dồn vào tấn công Nhật. Mọi người đều biết chuyện Nhật bại trận chỉ là vấn đề thời gian. Từng biên tập các bản tin về chiến dịch Miến Điện hồi còn làm cho Hodobu, tôi rất sợ hãi cái giá mà thường dân phải trả. Nhưng không có đường nào thoát. Với tôi, bỏ đi nơi khác vẫn có nghĩa là bị bắt và thẩm vấn.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3