Hồi ký Lý Quang Diệu - Chương 05 phần 3

Tôi quyết định trước khi rời nước Anh, là phải tiếp xúc với Lim Hong Bee, đại diện không chính thức của MCP ở London. Lim là người được hưởng học bổng Nữ hoàng hồi năm 1934 nhưng không chú tâm đến việc học và đã theo đuổi lý tưởng cộng sản. Ông ta không hề đậu các kỳ thi vào Luật sư đoàn và cũng không nhận được bằng đại học Cambridge. Ông ta ở lại London để in một loại tờ bướm thân–MCP được gọi là Malaysian Monitor. Nó là thứ tài liệu tuyên truyền thô thiển, nhưng ông ta là một con người cương quyết. Tôi điện thoại yêu cầu được gặp, và ông ta chuẩn bị gặp tôi bên ngoài văn phòng tờ báo Daily Worker, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Anh, gần đường Fleet Street. Tôi đưa Choo theo, cô biết ông ta vì đó là một người bạn của anh trai cô.

Ông ta là một con người kỳ lạ. Thay vì đi thẳng đến chỗ chúng tôi có thể nói chuyện, ông ta lại dẫn chúng tôi đi vòng qua những con phố chật hẹp, rẽ ngoặt và trở ngược lại nhiều lần không cần thiết trước khi dừng lại ở một tiệm ăn kiêm quán rượu của dân lao động, trông đầy nét vô sản. Ông ta sống trong một thế giới đầy những âm mưu tự tạo. Sau những câu xã giao thông thường, tôi hỏi thẳng ông ta tại sao tất cả những người cộng sản lại bất đồng với những công nhân theo chủ nghĩa dân chủ xã hội trong mặt trận liên hiệp của họ, và dẫn ra những chuyện ở Tiệp Khắc và Hungary. Ông ta kịch liệt phủ nhận chuyện này. Ông ta nói những người dân chủ xã hội trong các quốc gia này đã tin chắc lý tưởng cộng sản là ưu việt nên họ đã gia nhập vào. Ông ta hoàn toàn không sát thực tế và sống trong một thế giới mơ tưởng của chính ông ta mà trong đó ông ta là một nhà cách mạng vĩ đại. Khi chia tay, tôi tin chắc rằng MPC hoặc không xem London như một tiền đồn quan trọng hoặc không có chút ý niệm về những gì Lim Hong Bee đang làm ở đónhư một đại diện không chính thức của họ.

Tháng 2/1950, trong khi tôi vẫn ở Tintagel, David Widdicombe, một trong những người bạn ở Cambridge của tôi, với tư cách là ứng cử viên Đảng Lao động ở vùng nông thôn Totnes tại Devon, cách đây một giờ rưỡi đi xe lửa. Ông ta cần một tài xế cho chiếc xe tải của mình và một phụ tá chung. Choo và tôi bò ra nửa tháng để giúp ông ta cho đến đêm diễn ra bầu cử. Cá hai chúng tôi đều được xếp chung với những người ủng hộ Đảng Lao động. Tôi với một tài công xe lửa, còn Choo thì với người vợ trẻ và lũ con của một người đang thực tập luật sư.

Tôi học cách tham gia chiến dịch và đọc vài bài diễn văn trong các phòng khánh tiết của nhà thờ và trường học. Khán giả chỉ vài chục người, cao lắm thì độ trăm rưỡi. Tôi chọn một đề tài căn bản rồi phân tích, lý giải, diễn dịch khác đi chút đỉnh qua mỗi cuộc diễn thuyết. Luận điểm chủ yếu là nước Anh mỗi năm thu được nhiều đôla từ Malaysia hơn là từ kế hoạch Marshall của Mỹ, vì Malaysia sản xuất một nửa sản lượng cao su và một phần ba sản lượng thiếc của thế giới. Nếu Anh mất Malaysia, thì sẽ phải cắt giảm mạnh việc nhập khẩu lương thực và nguyên liệu, số người thất nghiệp và giá sinh hoạt sẽ tăng vọt.

Giữa đảng Bảo thủ và đảng Lao động, người dân thuộc địa không khó khăn gì cũng nhìn ra ai là tốt hơn. Đảng Lao động có một chính sách thuộc địa. Lịch sử của nó từ năm 1945 là rất ấn tượng. Các cuộc cải cách chờ đợi từ lâu đã được tiến hành. Nhưng với Đảng Bảo thủ, các thuộc địa chỉ là những khu vực đầu tư béo bở. Một chính phủ Bảo thủ quyết tâm đàn áp phong trào dân tộc của các thuộc địa để bảo vệ đế quốc sẽ chỉ gây ra bất ổn định. Rồi MCP sẽ trở nên đủ mạnh để đuổi người Anh ra khỏi Malaysia.

Cử tọa ở Devon ngạc nhiên khi thấy một diễn giả người Hoa vận động cho một ứng cử viên Đảng Lao động Anh. Đó là một lý tưởng vô vọng, nhưng là cách thức mà đảng làm để các ứng cử viên trẻ tuổi thu được kinh nghiệm. Vào ngày 23/2/1950, kết quả cuộc bầu cử được công bố ở Tòa thị sảnh. David Widdicombe bị thất bại thảm hại. Nhưng ông ta đã đọc một bài diễn văn dũng cảm, và đối thủ thắng cử thuộc đảng Bảo thủ thì phóng khoáng, khích lệ ông ta lao vào một trận chiến khác ở một khu vực bầu cử khác. Đó là một kinh nghiệm bổ ích về chính trị ở cấp độ bầu cử khu vực.

Một hai tháng sau, tôi nhận được một lá thư của viên chỉ huy nha cảnh sát Singapore, R.E. Foulger, hiện đang nghỉ phép ở quê nhà. Ông ta có quen cha mẹ tôi, biết tôi đang ở Cornwall, và mời Choo và tôi đến nhà ông ta ở Thurlstone tại Devon. Chúng tôi ở lại đó ba ngày. Ông ta muốn đánh giá tôi, và tôi cũng quan tâm đến việc tạo ra mối quan hệ và xem một ông sếp cảnh sát thuộc địa Anh trước chiến tranh ra sao. Chúng tôi chơi gôn. Môn này tôi vẫn chơi dở, nhưng đó là một đợt nghỉ cuối tuần hữu ích. Tôi biết mình đã lôi cuốn sự chú ý của Cục đặc vụ Singapore và có thể đã nằm trong danh sách cần theo dõi của họ. Tôi đã có nhiều bài phát biểu chống Anh, chống chế độ thuộc địa tại Malaysia Hall. Họ biết tôi chẳng phải người học hành lơ đãng. Tôi nghĩ hay nhất là họ cũng hiểu rằng tôi hoạt động công khai, hợp hiến, rằng tôi không có liên hệ hay cảm tình với phía cộng sản. Bởi vì chúng tôi sẽ sớm trở về Singapore thôi.

Tháng 5/1950, chúng tôi trở về London chuẩn bị cho kỳ sát hạch vào Luật sư đoàn. Chúng tôi gặp phải một đám cổ động viên bóng đá vào cuối tuần ấy, và họ đập cửa cái khách sạn nơi chúng tôi lưu trú, khiến chúng tôi không tập trung học tập được. Nhưng chuyện đó cũng chẳng làm thay đổi tình hình gì mấy, chúng tôi sẽ phải trả giá cho việc rời London và không dự giờ giảng của những người sẽ làm giám khảo tại những môn thi chính. Họ đặt những câu hỏi về những vụ xử họ vừa giảng dạy. Không ai đạt được Loại I. Tôi đạt Loại II và đứng ở vị trí thứ 3. Choo đạt Loại III. Nhưng mọi chuyện đều ổn, Ngày 21/6/1950, đội tóc giả và khoác áo thụng theo đúng nghi thức, cả hai chúng tôi được mời đến phòng khánh tiết của Middle Temple và chính thức được nhận vào Luật sư đoàn. Cuộc sống sắp bước vào giai đoạn mới.

Tôi sung sướng với viễn tượng được trở về nhà, nhưng vẫn nhìn lại bốn năm ở Anh với sự thỏa mãn và ít nhiều hài lòng. Tôi đã nhìn thấy một nước Anh đậm dấu ấn chiến tranh, nhưng dân tộc này không thất chí vì những thất bại mà họ phải chịu đựng, mà cũng không kiêu ngạo vì chiến thắng đã giành được. Mỗi nơi trúng bom trong nội ô London đều được thu xếp chu đáo, gạch đá xếp sang một bên, và thường có những bụi cây hay khóm hoa được trồng lên để bớt vẻ điêu tàn. Đó là một phần của lòng tự hào lặng lẽ và tinh thần kỷ luật của họ.

Sự lịch thiệp của họ đối với nhau và đối với người nước ngoài thật đáng chú ý. Ấn tượng nhất là thói quen ân cần của dân lái xe hơi, khi bạn vẫy tay mời một xe bên phía ưu tiên để họ qua trước, thì họ sẽ vẫy lại để cám ơn bạn. Đó là một xã hội rất văn minh. Và tôi cảm thấy ít nhiều nhớ nhung Cambridge, nơi tôi đã học hành bên cạnh một thế hệ bất thường gồm những người trở về từ chiến tranh, có kẻ ở độ tuổi hai mươi, có người ba mươi, đã có gia đình và con cái. Họ là những người nghiêm túc từng chứng kiến cảnh chết chóc và hủy hoại. Một số đã từng trải qua bao thảm cảnh. Một sinh viên ở Fitzwilliam bị phỏng nặng vì máy bay bị bắn rơi nên trông rất kinh người tuy rằng đã qua nhiều lần giải phẫu thẩm mỹ. Nhưng anh ta khắc phục những thiệt thòi của mình. Anh ta biết khuôn mặt biến dạng của mình khiến người khác kinh hãi và bối rối nếu họ gặp anh lần đầu. Nên anh khởi sự sinh hoạt bình thường, tỏ ra tự tin và không thương thân. Không khuất phục, anh đã sống một đời xứng đáng.

Đó không phải là một Cambridge của những người trẻ tuổi muốn hưởng thụ và gây ấn tượng cho người khác bằng những cung cách hoa mỹ của họ. Phải, cũng có một số như vậy, mới hoàn tất nghĩa vụ quân sự trong những năm thời bình hay được hoãn dịch, nhưng đó chỉ là thiểu số và không trở thành lực lượng chủ đạo. Chính những sinh viên cựu chiến binh, một số còn mang cả chứng tích chiến tranh trên thân thể, mới là những người khiến Cambridge trở thành một nơi học tập và đốì phó với những hậu quả chiến tranh. Tôi thấy được vinh hạnh đi cùng thế hệ những người Anh đó.

Dĩ nhiên cũng có những trục trặc, đụng chạm, chủ yếu là với những người phải phục vụ tôi – những người đàn ông hay phụ nữ Anh có lẽ không thích phải phục vụ một sinh viên châu Á lôi thôi và nghèo túng. Nhưng nếu có một số bà chủ trọ đặc biệt hà tiện và khó tính, thì cũng có những người đáng quý như bà Mellor ở Tintagel và bà Jackson, người quản lý Viện Trung Quốc ở London, người mà tôi sẽ nhớ nhất trong những năm ở Anh của tôi. Viện Trung Quốc ở quảng trường Gordon do chính quyền Anh thành lập bằng tiền chiến phí mà Trung Quốc phải bồi thường cho những thiệt hại nhân mạng và tài sản của người Anh sau cuộc Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900. Viện đón nhận mọi sinh viên người Hoa, và tôi thấy đó là một thiên đường bình yên tuyệt vời và thuận tiện nhất, mà lại gần trung tâm London nữa.

Bà Jackson thân thiện với mọi sinh viên. Nhưng ngay từ buổi đầu, bà đã đặc biệt có cảm tình với tôi. Trong những kỳ nghỉ của tôi, khi tôi đổi địa chỉ từ London chuyển tiếp tới Cambridge thành từ London chuyển tiếp tới Tintagel, thì số 16 quảng trường Gordon trở thành hộp thư của tôi. Đây cũng là nơi chúng tôi ký gửi các túi đồ đạc hay sách vở. Choo và tôi thường tới đó vì chúng tôi không có chỗ ở tại London, và tại Viện Trung Quốc chúng tôi có thể rửa sạch lớp bụi bặm thoát ra từ các lò than đầy thủ đô này, bằng nước nóng, xà bông với một bồn rửa sạch sẽ mà hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi chỉ cần mang theo khăn riêng. Và vì ở đây không tốn tiền thuê, nên bà Jackson có thể dọn những bữa tiệc trà rất chất lượng mà chỉ tính giá một si–linh.

Còn những chuyện lặt vặt? Không một ai vốn không phải sinh viên nước ngoài du học tại Anh trong những năm thiếu thốn đói kém sau chiến tranh ấy, lại có thể tưởng tượng ra cuộc sống trong một căn phòng trọ chật hẹp lại khó khăn và bất tiện đến mức nào đối với chúng tôi. Bà chủ trọ chỉ cung cấp bữa sáng, sau đó Choo và tôi phải ra ngoài để bà ta lau phòng. Chúng tôi có thể tới thư viện để học, và dùng bữa trưa cũng như bữa tối tại nhà hàng. Một nơi sạch sẽ và yên tĩnh để nghỉ ngơi và rửa ráy thì quả là quá sang trọng, nhất là khi nó lại miễn phí nữa.

Khi tôi sang London năm 1956 để thảo luận về tương lai của Singapore, tôi đã trở lại quảng trường Gordon để thăm bà Jackson. Cả bà lẫn tôi đều vui khi gặp lại nhau. Nhưng quan hệ của tôi với Viện Trung Quốc hồi đó lại đem tới một phản ứng chính trị bất ngờ. Nhiều năm sau, tôi khám phá ra những hồ sơ lưu trữ của Cục đặc vụ Singapore ghi nhận rằng tôi và Choo thường tới Viện đó để liên hệ với những phần tử thân cộng đến từ Trung Quốc, nơi mà Mao Trạch Đông đã chiến thắng và thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1/10/1949. Một báo cáo khác còn nói rằng Choo là loại khuynh tả cấp tiến còn hơn cả tôi nữa. Niềm tin của tôi vào các báo cáo của Cục đặc vụ đã lung lay dữ dội.

Trong những năm sinh viên, tôi đã tích cực quan hệ với các lãnh tụ chính trị của đảng Lao động, nhất là những người có thể giúp đỡ dân thuộc địa như tôi vốn mong sớm chấm dứt chế độ thuộc địa và có một Malaysia độc lập bao gồm cả Singapore. Đảng Lao động nhiệt tình với nền độc lập của các thuộc địa hơn là đảng Bảo thủ vốn vẫn tiếp tục nói về “Hoàng gia và đế quốc” trong các buổi họp mà tôi có tham dự. Tôi cũng muốn mở rộng quan hệ với các sinh viên Anh có khả năng đóng vai trò nào đó trong tương lai ở các chính đảng lớn, một mạng lưới bạn bè như vậy sẽ rất hữu dụng khi tôi đối đầu với các giới chức thuộc địatại Malaysia và Singapore. Do đó, tôi đã rất quan tâm nghiên cứu hệ thống chính trị của họ.

Chế độ dân chủ đại nghị của họ có vẻ rất hữu hiệu. Một cuộc cách mạng lớn lao – về kinh tế, xã hội và chính trị – đã diễn ra một cách hòa bình ngay trước mắt tôi. Cử tri đã loại bỏ Winston Churchill và đảng Bảo thủ vào tháng 5/1945, tuy rằng ông ta đã đem chiến thắng về cho nước Anh. Họ đã đưa Clement Attlee và đảng Lao động lên nắm quyền do lời hứa sẽ đem lại những thay đổi sâu xa nhất trong lịch sử Anh. Chính phủ Attlee đã tiến hành những chương trình nhằm tạo ra một nhà nước phúc lợi có khả năng chăm lo cho mọi người Anh thuộc mọi giai cấp từ lúc lọt lòng đến khi qua đời. Vậy mà không hề có chống đối bạo động gì từ phía các phe đối lập, không hề có đổ máu trên đường phố. Chỉ có những lời lẽ gay gắt từ các dân biểu Bảo thủ trong nghị viện và các đơn vị bầu cử đòi hỏi sự chừng mực và hợp lý đối với câu hỏi về những điều có thể cung ứng được cho dân chúng. Tôi cực kỳ bị ấn tượng về chuyện này.

Ngay sau khi Luật chăm sóc y tế quốc gia được thông qua năm 1948, tôi đi tới một bác sĩ nhãn khoa trên đường Regent, Cambridge, để nhận đôi kính mắt. Tôi dự trù sẽ phải trả năm hay sáu bảng gì đó. Tại quầy, ông bác sĩ hãnh diện nói với tôirằng tôi không phải trả tiền, mà chỉ cần ký vào một tờ hồ sơ. Tôi hài lòng và nghĩ rằng một xã hội văn minh là phải như thế này. Vài tháng sau, một chuyện tương tự lại xảy ra tại phòng nha sĩ. Lần này tôi cũng chỉ phải ký vào một tờ mẫu đơn. Còn ông bác sĩ ở đại học thậm chí chẳng yêu cầu tôi ký tên gì cả vì tôi đã được ghi tên vào sổ bệnh nhân của ông ta. Một lần nữa tôi bị ấn tượng sâu sắc với chế độ này. Nhưng báo chí tường thuật rằng nhiều người Pháp và từ các nước châu Âu khác đã qua Anh để được chữa răng miễn phí. Tôi nghĩ chuyện này đã đi quá xa, nhưng hồi đó thì nước Pháp rất nghèo túng. Tôi rất thán phục người Anh vì những biến đổi mà họ đã tạo được.

Điều khiến tôi tâm đắc nhất là sự công bằng của chế độ chính trị này. Chính quyền đang xây dựng một xã hội có thể đưa mọi người – giàu hay nghèo, thượng, trung hay hạ lưu – tới cùng một mức sống chấp nhận được. Và họ đã đạt được điều này tuy rằng nhiều món còn thiếu thốn. Việc phân phối các suất thực phẩm và quần áo, có từ hồi chiến tranh, vẫn được tiếp tục cho đến khi chính quyền Bảo thủ hủy bỏ chế độ đó vào giữa thập niên 1950. Chế độ này vẫn còn được áp dụng cho những mặt hàng như trà, đường, kẹo, sôcôla, bơ, thịt, thịt muối và trứng. Những y phục đa dụng với giá phải chăng vẫn có bán nhưng cần phải có tem phiếu.

Tôi còn quá trẻ, quá lý tưởng để nhận ra rằng chi phí chính phủ phải chịu là rất lớn; tệ hơn nữa, dưới chế độ cào bằng này, mỗi cá nhân sẽ quan tâm nhiều đến việc thu tóm được gì từ công sản hơn là cố gắng cải thiện cuộc sống của chính mình, mà sự cố gắng ấy chính là động lực tiến bộ trong suốt quá trình tiến hóa của loài người. Nhận thức này phải chờ đến thập niên 1960, khi tôi nắm chính quyền của một Singapore nhỏ bé và nghèo hơn Anh rất nhiều, và nó phải đối phó với yêu cầu phải tạo ra lợi tức và của cải trước khi tôi có thể nghĩ, hay bàn tới, việc phân phối chúng ra sao.

Còn lúc này, tôi biết được, qua thư từ và những mẩu tin trên báo chí Anh, rằng rối loạn đang âm ỉ ở quê nhà. MCP đang ấp ủ những bất an trong giới lao động và những căng thẳng trong xã hội. Đã có những cuộc đình công và kích động chính trị. Vào tháng 6/1948, phía cộng sản bắt đầu bắn giết các chủ đồn điền cao su người Anh ở Malay. Các du kích đã lui vào rừng và chính quyền thuộc địa đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Trong đấu trường nghị viện công khai, ngược lại, không có lực lượng chính trị nào ngoài những lãnh tụ Anh học yếu ớt và quá nôn nóng không thể làm an tâm các nhà cai trị người Anh. Tôi cảm thấy rõ ràng rằng khi thế hệ chúng tôi trở về, chúng tôi phải chiếm lĩnh đấu trường ấy. Tôi gia nhập Câu lạc bộ Xã hội ở Đại học Cambridge và thường xuyên tham dự những buổi mít–tinh, nhất là khi có các Bộ trưởng thuộc phe Lao động tới vào những đêm thứ Sáu để nói chuyện về các chương trình họ đang đề nghị quốc hội thông qua.

Đó là một thời kỳ sôi động và thay đổi. Đó là chủ nghĩa xã hội dân chủ trong thực tiễn. Và nó rất văn minh. Có một lần, các bác sĩ đe dọa đình công, nhưng tinh thần danh dự và truyền thống của họ, cùng các nghĩa vụ và tập quán của trật tự hiến định đã ngăn họ lại. Aneurin Bevan, Bộ trưởng Y tế đã vận động thông qua được dự luật Chăm sóc y tế quốc gia sau khi chẳng làm gì nghiêm trọng hơn việc gọi đảng Bảo thủ là “tệ hơn cả ký sinh trùng”. Đảng Lao động cũng xây thêm nhiều chung cư cho thuê với giá thấp được nhà nước bao cấp. Họ đã mở rộng các diện phúc lợi để bảo đảm một “lưới an toàn” cho mọi gia đình kiếm không đủ tiền cho các nhu cầu tối thiểu (những nhu cầu tối thiểu này, với tôi, có vẻ quá sang trọng so với tình trạng của chúng tôi ở Singapore ngay cả trước thời kỳ Nhật chiếm đóng). Đó là một bài học đáng nhớ về việc tiến hành thực thi công bằng xã hội.

Thế hệ các sinh viên Singapore và Malay chúng tôi tại Anh sau Thế chiến thứ 2 hoàn toàn say mê tính công bằng và hợp lý trong chương trình của đảng Lao động. Chúng tôi thán phục chế độ chính trị trưởng thành của Anh, trong đó truyền thống tôn trọng hiến pháp và dung hòa đã cho phép những chuyển giao căn bản về quyền lực và của cải được diễn ra một cách hòa bình. Chúng tôi so sánh những gì thấy tại Anh với những gì ở Singapore và Malaysia, với phần lớn dân chúng thất học và báo chí kém cỏi đã bỏ quên mọi vấn đề căn bản và chỉ biết đưa tin về những chuyến đến hay đi của các nhân vật quan trọng mà phần lớn là các ông chủ người da trắng và những người bản xứ theo đuôi họ. Tình hình trông lạc hậu và không chút hứa hẹn.

Trong bối cảnh đó, tôi và Choo về nước trên Willem Ruys, một chiếc tàu Hà Lan. Đó là chiếc tàu tốt nhất chạy tuyến Southampton–Singapore – mới, có điều hòa không khí, món ăn Indonesia và Hà Lan hảo hạng và phục vụ tuyệt vời với các hầu bàn người Java mặc y phục cổ truyền. Chúng tôi đi hạng nhất trong hai buồng sát nhau và hưởng một thời gian tuyệt vời, ngoại trừ lúc tôi bị say sóng ở vịnh Biscay và biển Ả Rập, chỉ ăn được thịt và bánh mì lát khô. Dù sao, đó vẫn là chuyến đi đáng nhớ.

Lúc này, tôi đã quan tâm sâu sắc đến chính trị và chống chế độ thuộc địa, nên đã bực bội trước sự hiện diện của một số hành khách ở khoang hạng nhất, họ là một số người Indonesia lai Âu cứ xum xoe quanh viên thuyền trưởng và các sỹ quan Hà Lan. Ngược lại, chúng tôi rất ấn tượng trước phong thái của ông bà Mohammad Razif, một đôi vợ chồng người Indonesia trung niên luôn giữ khoảng cách với viên thuyền trưởng. Chúng tôi làm quen với họ và biết ra Razif là một người Sumatra có tinh thần dân tộc – sau này ông ta là đại sứ Indonesia tại Kuala Lumpur. Ông khiến tôi phục hồi niềm tin vào niềm tự hào của một người dân thuộc địa, và tôi rất kính nể ông. Nhưng phải khá lâu sau tôi mới nhận ra rằng một quốc gia muốn thay đổi thì cần đến nhiều thứ hơn là chỉ một ít người có đạo đức và năng lực. Mỗi dân tộc phải biết tự trọng và có ý chí nỗ lực xây dựng đất nước mình. Nhiệm vụ của người lãnh đạo phải là tạo nên một khung sườn để trong đó người dân có thể học hành, làm việc, đạt hiệu năng và được tưởng thưởng xứng đáng. Và điều này không dễ gì đạt được.

Chúng tôi tới Singapore ngày 1/8. Về đến quê nhà thì thật tuyệt. Tôi biết mình đang bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời, và tôi nhớ đến những bất trắc của nó. Tuy chúng tôi đi khoang hạng nhất, nhưng nhân viên nhập cảnh, một ông tên Fox đeo một cái cà vạt đỏm dáng, lên tàu làm nhiệm vụ, đã muốn rằng tôi phải biết thân phận mình. Ông để tôi và Choo phải chờ đến cuối cùng. Ông ta nhìn qua thông hành của tôi và Choo rồi nói một cách mơ hồ: “Tôi nghĩ rằng chúng tôi có nghe nhiều về ông đấy, ông Lee." Tôi nhìn ông ta chăm chú và làm lơ trước câu nói đó. Ông ta định hù dọa, mà tôi thì không để bị hù dọa đâu.

Sau này, tôi khám phá ra rằng điều họ ghi sổ bìa đen cho tôi là chuyện họ nghi tôi tham dự Đại hội thanh niên thế giới ở Budapest vào tháng 8/1949. Trong mùa hè đó, Liên Xô giúp Hungary tổ chức đại hội này và Liên minh sinh viên quốc tế ở London đã mời nhiều nhóm ở Anh tới tham dự. Một số sinh viên Malaysia và Singapore đã nhận lời vì xem đó là một kỳ nghỉ rẻ tiền, chỉ phải tốn tiền vé xe lửa cho chuyến về. Keng Swee, Maurice Baker, em trai tôi là Dennis và những sinh viên khác đã đi. Tuy nhiên, tại đó, Lim Hong Bee và một đảng viên cộng sản nằm vùng ở Singapore tên là John Eber đã thuyết phục họ lập thành một nhóm tham gia diễu hành với một biểu ngữ đề hàng chữ “Malaysia Chiến Đấu Cho Tự Do”. Tình báo Anh biết được chuyện này, và vì họ e rằng một số trong đám thanh niên này khi về nước có thể trở thành kẻ gây rối, nên họ đã gửi cho Cục đặc vụ Singapore danh sách những sinh viên này, trong đó có “K.Y. Lee". Cục đặc vụ đã tra vấn cha mẹ tôi, nhưng vì ông bà chẳng biết gì cả, nên họ không thể làm rõ được tình hình. Kết quả là, giới thẩm quyền không biết rằng người mà họ nghi vấn ấy chính là em tôi, Dennis hay D.K.Y. Lee, chứ không phải tôi H.K.Y. Lee.

Nhưng còn có những báo cáo khác trong hồ sơ của họ về tôi khiến tôi được trở thành người khách cuối cùng trên tàu Willem Ruys hoàn tất thủ tục chiếu khán. Năm 1981, khi tôi kể lại lịch sử đời mình vào máy thu băng, một nhà nghiên cứu đã cho tôi xem tài liệu về một buổi họp ngày 28/6/1950 tại Dinh chính phủ, trong đó Nigel Morris, Cục trưởng Cục đặc vụ, đã đề nghị cho câu lưu Choo và tôi ngay khi vừa từ Anh về tới. Tuy nhiên, R.E. Foulger, viên chỉ huy nha cảnh sát, người đã mời tôi tới thăm ông ở Devon, đã không đồng ý. Những chi tiết khác còn cho thấy viên thống đốc, chỉ huy trưởng quân đội và ủy viên thư ký thuộc địa đã ủng hộ ý kiến của Foulger, họ cho rằng cả hai chúng tôi đều xuất thân từ những gia đình vọng tộc, phản ứng của công luận trước việc bắt giữ chúng tôi sẽ rất bất lợi. Thay vào đó, họ cho rằng kết thân và thu hút chúng tôi thì lợi hơn nhiều. Malcolm MacDonald, Tổng ủy Anh ở Đông Nam Á, “được đề nghị phụ trách công việc này vì ông thường mời các sinh viên đến dự dạ tiệc”. Và thực sự, MacDonald đã cho mời tôi và Choo vài tháng sau khi chúng tôi về nước.

Trong khi ông Fox bắt tôi chờ trong khoang hạng nhất, tôi đã ló đầu ra vẫy chào gia đình – gồm cha mẹ tôi, Fred, Monica và Susan – đang đứng trên bến với một số bạn bè, trong đó có Hon Sui Sen. Gia đình Choo cũng đang chờ cô, nhưng khi lên bờ, chúng tôi chia tay. Cô về với gia đình ở phố Pasir Panjang. Tôi về đường Oxley. Chúng tôi chia tay như bạn bè, không hề tiết lộ bí mật về đám cưới của chúng tôi tại London.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3