Linh hồn ác - Chương 03 phần 1
Juliette khó nhọc nuốt nước bọt, họng và đầu cô đau khủng khiếp. Cô dần dần tỉnh lại cách đây vài phút. Một cơn hoảng loạn ầm ĩ đã chiếm lấy cô. Lúc đầu run rẩy vì sợ, nước mắt dàn dụa. Rồi khi quen hơn với xung quanh tính cách cô buộc cô phải bình tĩnh lại. Cô không thể làm được gì; những sợi dây đau đớn trói quặt tay cô về sau lưng, trói cả cổ chân cô nữa. Ít nhất, kẻ tấn công cũng không muốn giết cô, nếu không hắn đã ra tay rồi. Tại sao hắn lại chờ đợi? Nhưng một giọng nói bên trong nhắc cô đừng quá ảo tưởng và nhanh chóng nghĩ đến chuyện khác. Nhưng nói dễ hơn làm. Nằm trên nền đất lạnh và ẩm, bất động vì dây trói và ở trong bóng tối đen, cô cảm thấy gần như phát điên.
Cô quay đầu đưa mắt quan sát nơi này thêm một lần nữa và kiểm tra xem có bỏ sót chi tiết nào không. Một tia sáng màu hổ phách chiếu những cái bóng đáng sợ lên các bức tường. Căn phòng rộng không quá một chiều ba mét, một chiều bốn mét. Sàn nhà bằng đất đôi chỗ mấp mô, như thể người ta cố thử đào nó bằng một đồ vật không mấy thích hợp với công việc ấy.
“Cứ như mình đào bằng chân”! Cô nghĩ. Ôi không! Mong sao không phải như thế.
Nhưng đã có hình ảnh của một nữ tù nhân khác hiện ra trong cô, cô thấy người ấy run lên vì sợ, cố gắng khoét một lỗ dưới bức tường gỗ bằng đôi bàn chân đạp liên hồi. Juliette lắc mạnh đầu để tống khứ ý nghĩ đó ra khỏi tâm trí và bỗng thấy choáng váng khi hơi clo nổi lên. Cô thở chậm để bình tâm lại và để làm dịu cơn đau.
“Tốt hơn hết là hãy tiếp tục quan sát, nào, hãy cố nhìn tất cả những gì có thể.”
Các bức tường màu đen, làm từ thân cây xếp chồng lên nhau giống như một nhà nghỉ ở miền núi hay một túp lều. Căn phòng không có bất cứ đồ đạc nào, chỉ duy nhất một cây nến nhỏ đặt ở góc nhà tỏa chút ánh sáng yếu ớt.
Juliette rùng mình. Trời se lạnh cô không biết giờ là mấy giờ, mọi khái niệm về thời gian đều đã mất. Vẫn đang là đêm? Có lẽ thế, hoàn toàn không có ánh sáng lọt qua khe gỗ. Đột nhiên, một ý nghĩ còn đáng lo sợ hơn xâm chiếm cô. Cô cuộn tròn người lại để quan sát đầy đủ hơn về căn phòng và nỗi nghi ngờ của cô bỗng chuyển thành nỗi kinh hoàng khủng khiếp.
Không cửa sổ cũng không có bất cứ một lối ra vào nào. Căn phòng dường như bị đóng kín mít như một cỗ quan tài lớn.
Không hét to, nhất định không được hét to, Juliette tự nhủ nhiều lần trong thâm tâm, nhưng bản thân tiếng nói của ý chí lại gần giống như sự cuồng loạn do sợ hãi. Nếu kẻ tấn công không nhét giẻ vào miệng cô, thì đó là do hắn tin chắc không phải sợ gì về việc này. Chắc chắn cô đang ở một nơi hoàn toàn tách biệt, nếu không thì ngoài việc buộc cổ tay, lẽ ra cô còn phải bị bịt miệng bằng cách này hay cách khác. Cô cảm thấy hơi thở đứt quãng của mình vì lo sợ và cố chiến đấu để không chìm vào nỗi hoảng loạn. Cách đây vài giờ, cô bình thản ngồi chơi với Camelia, uống rượu vang và cười, vậy mà giờ đây cô bị nhốt chặt ở một nơi cách xa thế giới, hoàn toàn phụ thuộc vào một kẻ xa lạ. Trong cô trào lên cảm giác tuyệt vọng.
Không ai biết cô đang ở đâu, ngay cả bản thân cô. Không biết bằng cách nào cô lại ở đây, không có bất cứ cơ may nào để tự vệ. Cô lại thấy mình đang bước đi không hề lo nghĩ và một giây sau, bị ngạt thở rồi tỉnh dậy thành một tù nhân. Như thể cuộc đời cô đột nhiên chao đảo trong một cơn ác mộng. Không vì bất cứ lý do gì, cô bị lôi ra khỏi cuộc sống của mình và bị vứt vào chiếc quan tài này. Giờ đây, nỗi sợ hãi bị đan xen bởi cảm giác bất công sâu sắc. Không ai có thể tránh được, chuyện này có thể xảy ra với bất cứ ai, mọi người đi làm về và không thể biết được rằng đã gặp một kẻ bệnh hoạn trên đường, rồi chìm trong nỗi kinh hoàng.
Juliette cảm thấy nét mặt mình bị co rúm lại và nước mắt tuôn trào. Cô khóc rất lâu.
Rồi trong cơn điên dại bất ngờ, cô đứng bật dậy gào thét và ngồi dậy được. Khi cơn giận dữ và những tiếng nức nở dịu xuống, cô chăm chú quan sát quanh mình. Cách cô chừng 3 mét về bên phải có một hốc nhỏ ở ngay chỗ tiếp giáp giữa tường và nền đất. Cô nén cơn nức nở và bắt đầu trườn về cái hốc. Ánh nến không chiếu sáng tới phần này của căn phòng, nên cô phải nằm xuống và cúi đầu để nhìn kỹ hơn. Cái hốc to hơn quả bóng rổ một chút, ăn sâu xuống dưới tường giống như một lỗ mèo chui. Những rãnh song song trên nền đất khiến cô rùng mình. Cô xua vội hình ảnh người phụ nữ cào đất trong cơn hoảng loạn đến nỗi bong cả móng tay.
Có lẽ cô có thể nhìn thấy bên ngoài bằng cách chui đầu qua bên kia? Ít ra cũng để biết được cô đang ở đâu, có gì xung quanh. Nhưng với đôi tay bị trói quặt sau lưng và hai cổ chân bị buộc chặt, nếu cố trườn, hay chỉ đơn giản nếu cô không có chỗ bấu víu để ngoi lên, thì cô sẽ bị kẹt đầu và hai vai dưới bức tường trong cái hốc đang há miệng kia. Quả là đầy rủi ro.
Juliette trườn như một con sâu tiến vào bóng tối dưới bức tường. Cô uốn người để nằm ngửa và cố ngẩng đầu lên bên kia tường. Đầu cô chạm vào một viên đá.
Không có gì ở phía bên kia.
Cô chợt run lên vì nhận ra sự thật hiển nhiên cái ngục tối này không có cửa ra vào cũng không có cửa sổ, còn các bức tường bị chặn bằng nhiều tấn đá! Cô bị giam giữ dưới lòng đất, trong một thế giới không lối thoát, một vũ trụ chết chóc.
Nỗi khiếp sợ lại xâm chiếm cô.
Rồi một tiếng két vang lên trong phòng. Ở đâu đó bên trên, một cánh cửa sập vừa mới mở ra.
“Đúng rồi! Trên trần!” Juliette thầm kêu lên.
Trần nhà tối om, cô không thể phân biệt nổi bất cứ thứ gì. Ý nghĩ có thể có một lối thoát khiến cô thở phào, cô không hoàn toàn bị tách biệt với thế giới, còn có một điểm tiếp xúc, một khả năng chạy trốn. Nhưng niềm vui thật ngắn ngủi. Có tiếng vải sột soạt, hẳn là có một động tác chân hoặc tay ở đằng sau một cô, và nỗi khiếp sợ dâng lên ngay lập tức. Cô bị kẹt đầu trong một cái lỗ hẹp, không thể nhìn thấy gì diễn ra phía dưới vai mình, còn kẻ bắt cóc đứng ngay ở đó, bên cạnh cô, và có lẽ đang thỏa mãn nhìn cô cố uốn mình.
Như một tiếng chuông báo tử, giọng nói bất ngờ vọng xuống từ trần nhà, ngọt ngào nhưng đầy sự tàn bạo khủng khiếp.
- Đã đến lúc dành cho hai chúng ta em yêu ạ.
Juliette vặn vẹo người để chui ra khỏi cái hốc, cơn hoảng loạn trào dâng trong cô cùng với nước mắt, và một tấm màn kinh hoàng đập vào mắt cô giống như một cơn bão hủy diệt.
***
Joshua Brolin bắt đầu uống trà để cai thuốc lá.
Lý do lắt léo hơn thế một chút nhưng đó là cách lý giải của anh khi bị cảnh báo là đang uống quá nhiều thứ nước nóng và thơm như vậy. Trong mùa hè - hai tháng trước đây anh đã vứt bao thuốc Winston cuối cùng đi và thề sẽ không bao giờ hút lại nữa. Những ngày đầu tiên thật đau đớn, theo nghĩa đen của từ này, và Brolin tự hỏi liệu rốt cuộc cảm thấy cháy phổi vì cai thuốc có ít độc hại hơn hút thuốc không. Sau đó anh nhanh chóng nhận ra rằng với một người đã nghiện lâu năm, thứ nhớ nhất không phải là bản thân điếu thuốc lá, mà là động tác quen thuộc hàng ngày kẹp điếu nicotin giữa các ngón tay. Lại phải học thói quen thường ngày với một bàn tay tự do. một bàn tay tự do bất bình thường, nặng hàng tấn ở đầu cánh tay. Chỉ riêng việc nhớ tới cốc cà phê mà anh uống trong lúc cầm một điều thuốc trên tay, cứ rít một hơi thuốc lại làm một ngụm cà phê nóng bỏng, đã khiến anh phải chịu đựng cơn stress kinh khủng. Phải đợi tới khi trong 30 tuổi, Brolin mới phát hiện ra rằng anh chỉ chịu đựng được vì café với điều kiện ngập trong khói nicotin. Và để bỏ khỏi thuốc lá, anh thay cappuccino bằng trà. Phải thật thơm, cùng với hoa quả rừng nếu có thể được, mặc dù còn rất khó kiếm quả khô.
Anh uống một ngụm trà nóng rồi đặt cốc xuống trang bìa bằng các tông của tập báo cáo khám nghiệm tử thi.
Ánh mắt anh dừng lại trên một tấm ảnh chụp tử thi trước khi khám nghiệm. Khó mà tưởng tượng được rằng đây là một cô gái trẻ, vì cô đã bị biến dạng do khí sinh ra trong quá trình thối rữa và do rất nhiều tổng các vết thương vì bị ngâm lâu trong nước. Khuôn mặt sưng phồng, da ngả màu nâu và xanh lục, mí mắt phồng to như hạt dẻ texas, môi sưng và vều ra như thể đang định ban tặng nụ hôn cuối cùng. Rất nhiều sinh vật biển đã rỉa cái xác, tạo thành vô số vệt sưng đỏ trên da. Xác được vớt khỏi nước trước đó hơn hai giờ nhưng không có chút nấm màu nâu nào xuất hiện trong lỗ mũi và miệng. Đó là dấu hiệu đặc trưng mà Brolin biết vì đã thấy trong các vụ án khác ở FBI. Trên thực tế, rêu là một hỗn hợp của không khí, nước và chất nhầy ở phế quản, được hình thành khi nạn nhân hít thở trong nước, điều này chứng tỏ rõ ràng rằng nạn nhân chết do bị dìm. Thế nhưng loại nấm đó lại không xuất hiện ở nạn nhân này.
Đỉa.
Lần này, nạn nhân không chết vì các vết thương. Không trực tiếp. Sát thủ đã thay đổi cách hành động.
Nhưng thứ thu hút sự chú ý của Brolin nhất là hình loang lổ mà axit tạo nên trên trán nạn nhân, axit hoặc một chất khác đã ăn mòn da mạnh như xút hay vôi.
“Quỷ thật sao hắn lại làm thế nhỉ?” chàng thanh tra trẻ tự hỏi. ”Tại sao hắn lại đốt cháy trán các nạn nhân? Đây là một phần của nghi thức chăng? Có lẽ hắn chặt đôi bàn tay để lấy làm chiến lợi phẩm, để sau đó sung sướng ngắm nhìn chúng, thậm chí có thể sờ vào chúng, dùng chúng để vuốt ve cơ thể, dùng chúng như vật thay thế, vừa điều khiển người khác, vừa buộc người khác phải vuốt ve mình. Rất có thể như vậy, nhưng tại sao hắn lại không chặt tay của nạn nhân mới nhất? Cô gái này có gì khác so với hai cô trước?
Với nạn nhân mới nhất, hắn hành động bằng cách khác. Hắn không tra tấn cô đến chết, mà làm cho ngạt thở từ từ, điều này không hề được mong muốn hơn.
Brolin nhấc cốc lên để xem còn trà không. Cốc rỗng không “giống như đầu mình lúc này”. Anh tự nhủ và đưa mắt tìm xem mình đã đặt ấm trà ở đâu.
Khoảng chục người được huy động tham gia cuộc điều tra, trong đó có các kỹ thuật viên của phòng thí nghiệm, chuyên gia pháp y khám nghiệm tử thi để tìm cách buộc từng chi tiết nhỏ nhất phải lên tiếng, và 4 thanh tra cảnh sát phụ trách việc thu thập tối đa thông tin về các nạn nhân. Nhưng họ không thấy bóng dáng của kẻ tình nghi. Brolin đã cho kiểm tra tất cả các bệnh viện tâm thần trong vùng, nhưng không ai trong số các bệnh nhân điều trị ở đó trong vòng 12 tháng gần đây có nét giống với hung thủ mà họ đang tìm. Dù sao đây cũng chỉ là biện pháp hão huyền nhằm làm cấp trên yên tâm chứ không phải để tìm ra một kẻ tình nghi nào đó.
Do thu được một lượng nhỏ tinh dịch trên cơ thể nạn nhân thứ nhất, các điều tra viên có được mẫu gen của hung thủ. Nhưng việc so sánh nó với dữ liệu gen lại không đem lại kết quả nào, hung thủ không nằm trong danh sách này.
Brolin nhìn thấy ấm trà trên một cái giá chất đầy hồ sơ. Anh đứng dậy rót trà và nhấp từng ngụm nhỏ.
Trong hai năm ở FBI, anh đã học được cách dựng lại tâm lý kẻ giết người bằng cách phân tích các dữ liệu của vụ án. Nhưng khó khăn chủ yếu trong nghệ thuật này là khi cái xác được tìm thấy sau một thời gian dài ngâm trong nước. Người ta không thể rút ra bất cứ kết luận nào từ tình trạng của xác, và nhất là không thể khám nghiệm hiện trường mà hung thủ đã xóa đi trước khi vứt xác. Xác trôi trên sông có thể được tìm thấy cách nơi bị vứt xuống nước vài cây số. Và thời gian ngâm trong nước đã xóa đi hầu như mọi dấu vết, mọi vết tinh dịch, máu, tóc của tên tội phạm. Nhưng ít ra cách làm này cũng cho thấy một mức độ xảo quyệt nhất định, hung thủ biết rằng hắn có thể bị bắt vì một chi tiết nhỏ nhất. Hắn hành động có tổ chức và suy nghĩ.
Brolin lại gần chiếc bảng đen đầy những ghi chép của anh về kẻ giết người. Anh tổng hợp nhanh tất cả các điểm quan trọng mà anh đã ghi về vụ án giết 3 người này.
Anh đọc to tóm tắt những gì anh biết.
- Hung thủ là một người da trắng, một kẻ giết người hàng loạt chuyên tấn công những người cùng màu da với hắn, hầu như không có ngoại lệ. Tính chất tàn bạo cho thấy một ảo ảnh được hình thành trong thời gian dài và được làm chủ tương đối tốt, hung thủ có thể gặp rủi ro nhưng không bị lộ mặt. Hơn nữa, hắn đủ khả năng khống chế nạn nhân và làm chủ bản thân để đi đến cưỡng hiếp. Tồi tệ hơn, nhiều vết tụ máu và thương tổn tự vệ ở phần trên cánh tay nạn nhân là những bằng chứng về sự hung bạo của hắn, và có lẽ tôi nghiêng về phía các hành vi tra tấn trong khi cưỡng hiếp, có vẻ như rất đúng với tính cách hung thủ. Như vậy, hắn ở vào độ tuổi khá chín để chế ngự được các xung năng của mình tới một mức độ nào đó. Nhưng bạo lực mà hắn sử dụng là đặc trưng của một cơn điên dại, một mối hận thù chất chứa trong hắn suốt nhiều năm. Thế nhưng lại chưa từng có trường hợp nào như vậy trong kho dữ liệu tin học.
Từ khi được giao phụ trách cuộc điều tra, Brolin đã chuyển dữ liệu về hai vụ giết người cho chương trình VICAP(4). Chương trình này có nhiệm vụ thu thập tất cả các yếu tố của các vụ trọng án trên lãnh thổ Mỹ và cung cấp cho cảnh sát trên cả nước một cơ sở dữ liệu cho phép kiểm chứng thông tin. Bằng cách này nếu một kẻ giết người đã phạm tội ở Illinois hai năm trước đây và chặt tay các nạn nhân, thì chương trình VICAP sẽ cho phép Brolin ngay lập tức biết được thông tin và lần theo đường đi của kẻ giết người hàng loạt từ bang này sang bang khác. Nhưng trong chương trình không hề có dữ liệu liên quan đến một “kẻ chặt tay” nào đó.
(4) Là chương trình giúp điều tra các vụ trọng án do FBI lập ra.
Brolin khoanh vùng độ tuổi mà anh đã viết trên bảng 23-28 tuổi.
“Nhiều khả năng là 23, 25. Hắn có thời gian đủ dài để lặp đi lặp lại các vụ án trong đầu, nhưng có lẽ không thể tự kìm nén được trong nhiều năm. Hắn to khỏe, vì hắn khống chế được những phụ nữ tương đối thể thao. Đây là những nạn nhân ít nguy cơ tính cách, nghề nghiệp và bạn bè của họ không thuộc diện gây nguy hiểm, ngược lại với một gái điếm chẳng hạn. Và vẫn theo những gì người ta biết, họ bị bắt cóc ở những nơi cũng có nguy cơ thấp, người thì trên một con phố khá đông đúc trong khu tư sản, người thì trong bãi đỗ xe của một hộp đêm thời thượng và đông khách lui tới. Thế nhưng lại không có nhân chứng. Hung thủ chấp nhận rủi ro, hắn đùa cợt. Dường như hắn rất tự tin và bản thân có tổ chức, hẳn là hắn đã lên kế hoạch bắt cóc khá lâu trước đó. Trong cơn stress cao độ, nhưng lại tự tin tới mức nghĩ rằng mình không thể bị tóm. Dần dà, hắn sẽ gặp nhiều rủi ro hơn và sẽ phạm ra nhiều sai lầm. Nhưng hắn sẽ phạm sau bao nhiêu nạn nhân? Nạn nhân nguy cơ thấp trong một môi trường nguy cơ thấp, điều này cũng chứng tỏ rõ về một độ chín nào đó. Hắn không hành động theo sự thôi thúc của bản năng, hắn phải bị hoàn cảnh kích động rất nhiều, và luôn giữ được máu lạnh. Tiến đến gần nạn nhân là việc làm quan trọng với hắn, giai đoạn tán tỉnh khiến hắn thỏa mãn cao độ. Hắn phải nói chuyện với cô gái, tán tỉnh cô, có thể khi đó hắn đã tưởng tượng ra điều mình sẽ làm với cô. Chính lúc ấy, hắn bắt đầu tìm cách chiếm đoạt cô gái”.
Viên thanh tra viết ”25 tuổi + hoặc -” lên tấm bảng veleda.
Tất cả những yếu tố này đã vạch ra các hướng điều tra, và theo lời khuyên của Brolin, cảnh sát đã tập trung phần lớn thời gian vào việc thẩm phấn các nhân viên của hộp đêm, cũng như các khách quen. Nhưng không thu được kết quả gì.
Đằng xa, trong một căn phòng khác, một người nổi cáu vì bị buộc tội và hét to rằng anh ta vô tội. Brolin uống hết cốc trà và trở lại bàn làm việc.
“Kẻ bất lương đó rất thích tán tỉnh các nạn nhân hoặc ít nhất là trò chuyện với họ, tôi dám chắc như thế. Thêm nữa hắn không giết người theo một chu kỳ chính xác, khoảng cách giữa hai vụ đầu tiên là năm tuần, rồi hai tuần sau hắn tiếp tục gây án lần thứ 3. Hắn rút ngắn thời gian giữa hai vụ án.”
Nghĩ đến đây, Brolin cảm thấy vô cùng khó chịu anh biết rằng điều này không có ý nghĩa gì cả, bọn giết người hàng loạt có thể gây nhiều vụ án trong khoảng thời gian ngắn và sau đó bước vào giai đoạn “nghỉ ngơi”. Nhưng cũng có những kẻ lại giết người ngày càng thường xuyên hơn, do khao khát vô độ của chúng chỉ có thể dừng lại khi bị bắt hoặc chết. Điều mà anh hi vọng lúc này là tận dụng được tối đa thời gian để khai thác những chi tiết nhỏ nhặt nhất và tóm được kẻ bệnh hoạn đó trước khi hắn phạm thêm một tội ác mới không thể cứu vãn.
Lại còn thủ đoạn luôn luôn vứt xác xuống nước nữa…
“Tên sát nhân này biết là hắn bị vây đuổi, hắn biết rõ điều đó, và hắn không muốn bị bắt, bởi vì hắn muốn tiếp tục gây án thêm lần nữa, hắn sẽ lại tiếp tục, vì hắn có nhu cầu đó.”
Brolin lắc đầu chầm chậm vì nỗi tức giận âm ỉ. Anh đang xem các bức ảnh về nạn nhân mới nhất thì chuông điện thoại reo.
- Thanh tra Brolin nghe đây, anh nhấc máy nói.
- Joshua, tôi là Carl Dimestro. Có tin mới liên quan đến các khám nghiệm giải phẫu bệnh học.
Carl Dimestro làm việc ở phòng thí nghiệm của cảnh sát khoa học trong một tòa nhà lớn. Anh tạm thời phụ trách ban sinh học với sự cộng tác của đội ngũ bác sĩ pháp y.
- Đã xác định được danh tính nạn nhân phải không? Brolin vội hỏi.
- Không mọi người đang nghiên cứu hồ sơ về răng của nạn nhân. Nhưng chúng tôi có một thứ cho cậu, tôi đã tìm thấy tảo trong các mô.
- Thấy gì? Brolin vừa hỏi vừa cố nhớ lại những bài giảng về tội phạm học ở Quantico.
- Thấy tảo. Một loại tảo chứa silic chỉ thấy được qua kính hiển vị, loại tảo này sống ở tất cả các nơi có nước, dù là nước ngọt hay nước mặn. Nạn nhân có nước trong phổi, nhưng điều này không nói lên gì cả, tuy nhiên kết quả khám nghiệm bằng kính hiển vi cho thấy có tảo ở ngay trong các mô của phổi, gan và tim. Tức là nạn nhân đã hít nước vào trước khi chết. Ngoài nguyên nhân ngạt, còn có thêm chẩn đoán bị dìm chết, đúng là cô gái chết vì lũ đỉa, nhưng hung thủ đã đẩy nhanh hành động vào lúc cuối bằng cách dìm đầu cô gái vào nước. Dù sao cũng có một điều chắc chắn đó không phải là nước từ vòi mà là nước ở một nguồn nước tự nhiên, có cả hệ động thực vật.
Brolin chờ đợi một phát hiện quan trọng, một cái gì đó có sức thuyết phục để ít ra cũng có thể mở cho một hướng điều tra. Nhưng bằng chứng này chỉ khẳng định việc nạn nhân bị tra tấn trước khi chết, một hành động man rợ đặc trưng của đao phủ Portland. Hơi thất vọng, anh chỉ ngồi yên lặng.
- Nhưng chưa hết, bác sĩ Dimestro nói tiếp, loại tảo đó có thể cung cấp cho chúng ta những thông tin rất thú vị khác.
Brolin không đánh giá cao Carl Dimesstro vì anh chàng bác sĩ này thường thích thú với những chi tiết dù là nhỏ nhất thấy được qua kính hiển vi, ngay cả khi chi tiết đó không hề khiến cuộc điều tra tiến triển.
- Phải lưu ý rằng mỗi loại tảo có một cấu trúc riêng và hoàn toàn khác biệt tùy theo địa điểm nơi thu được chúng.
- Đợi một chút, Brolin cắt ngang, có nghĩa là anh có thể biết liệu nước nơi người ta vớt được xác nạn nhân có phải chính là nước mà nạn nhân đã hít vào không?
- Đúng thế bằng cách phân tích tảo. Mà trong trường hợp này tảo quan sát được trong các mô không giống với loại tảo thu được khi khám nghiệm tử thi. Tôi có thể đảm bảo với cậu rằng nạn nhân không bị dìm chết ở gần nơi người ta tìm thấy cái xác. Hơn nữa, tôi có thể khẳng định đến 70% rằng không phải trong nước sông Tuilatin, vì loại tảo trong mô có cấu trúc khác xa với tảo sống ở sông này. Carl Dimestro nói bằng giọng căng thẳng, lộ rõ vẻ mệt mỏi.
- Có nghĩa là nếu lấy một ít nước trong phần lớn sông hồ quanh sông Tualatin, rồi đem so sánh, anh có thể tìm được địa điểm chính xác nơi cô gái bị dìm chết phải không?
Không chút do dự, anh chàng bác sĩ khẳng định ngay. Giọng nói của anh đã thay đổi, trở nên trầm hơn.
- Tôi cùng với trợ lý Peter đã tới phía nam Portland để lấy tối đa các mẫu nước của các hồ ao và sông cách sông Tualatin dưới 30km. Cuối cùng thì việc so sánh các mẫu tảo đã cho kết quả. Tôi đã tìm thấy loại nước mà nạn nhân hít vào. Đó là nước của một cái ao rất nhỏ ở phía đông nam Stafford.
Brolin không nói được gì. Đầu tiên anh thất vọng nhưng giờ đây anh bị bất ngờ. Công việc cần cù của hai nhân viên phòng thí nghiệm trong khoảng thời gian ngắn lại rất quan trọng.
- Nhưng…chắc chắn chứ? Anh ấp úng.
- Đáng tin đến 95%.
- Tuyệt vời, Carl ạ, cậu làm việc tốt lắm, thật đấy, giờ thì cố nghỉ ngơi một chút đi, các cậu rất ứng đáng.
- Quả là tôi không hề ngủ suốt đêm qua. Chúng tôi đã đi lấy mẫu cả ngày hôm qua đến tận tối, rồi phân tích tất cả cho đến tận chiều nay. Chúng tôi rất may mắn khi tới đúng cái ao ấy. Đó là một nơi hẻo lánh giữa rừng, một chấm nhỏ trên bản đồ của vùng. Tôi sẽ chuẩn bị cho cậu một hồ sơ đầy đủ cùng với các kết luận của tôi.
- Hãy ngủ lấy vài giờ đi đã, hồ sơ có thể đợi đến mai. Nhưng cho tôi tên cái ao đi, tôi muốn đến nhìn qua một lượt.
Brolin đặt máy xuống sau khi chúc mừng Carl Dimestro thêm một lần nữa vì công việc mà anh đã hoàn thành. Anh suy nghĩ rất nhanh, hết hợp năng lực về tội phạm học của mình với những gì anh biết về vụ án đang điều tra.
Cái xác đã được chuyển từ một nơi tới một nơi khác đó chính là lý do vì sao không có nấm rêu trên môi, nước sông đã làm trôi chúng.
Không phải ngẫu nhiên mà hung thủ di chuyển xác nạn nhân. Một kẻ sát nhân không thể làm điều đó mà không có lý do xác đáng. Nếu như hắn đã dìm chết cô gái trong một cái ao nơi không người qua lại, tại sao hắn lại chấp nhận rủi ro, chuyển xác qua chặng đường nhiều km để vứt xuống một con sông khác, tức là mạo hiểm hơn nhiều? Tại sao không để xác lại ở chính cái ao đó, ở giữa rừng nơi sẽ rất lâu sau mới có thể có người phát hiện ra?
Bởi vì có mối liên hệ cái ao với hung thủ! Bởi vì người ta có thể gắn kết cái ao với hung thủ.
Đó là một hướng không nên bỏ qua.
Joshua Brolin đứng dậy, cầm lấy áo vest và bấm 4 số của tổng đài. Phòng điều tra tội phạm. một phụ nữ nhấc máy trả lời.
- Cathy, thanh tra Brolin đây. Hãy báo cho cảnh sát trưởng quận Clackamas rằng tôi sẽ tới gặp họ, hãy đề nghị họ cho một chiếc xe đón tôi ở lối vào Staffford. Cảm ơn Cathy.
Anh vừa tìm ra một hướng. Một hướng dẫn anh tới hiện trường, đó chính là điều anh thiếu khi ở FBI. Có lẽ một ngày nào đó anh sẽ nhìn nhận thất bại ở Vụ như điều tốt nhất đã xảy đến với anh.
Cuộc điều tra đang tiến triển, và Brolin ngập tràn háo hức khi bước ra khỏi phòng làm việc. Cảm giác đang đi đúng hướng, sẽ có điều gì đó xảy ra, khiến anh thêm hào hứng. Anh không hề nghi ngờ về những sự kiện sẽ diễn ra. Một nỗi kinh hoàng đang từ từ nảy sinh.