Linh hồn ác - Chương 30 - 31

Những cảm xúc trái ngược xen lẫn nhau trong đầu óc và thân thể Brolin. Sự pha trộn giữa sảng khoái khiến anh nhẹ nhõm, và lo lắng khiến anh trầm xuống. Biết rằng không thể tham dự cuộc họp, Juliette đã đưa tất cả các ghi chép của mình cho Brolin để anh trình bày trước nhóm điều tra và đề nghị anh báo cô biết tình hình ngay khi có thể. Cô ngại ngùng, giống như bị treo lơ lửng trong không khí, rồi đặt một nụ hôn lên má Brolin trước khi biến mất về phía thang máy. Xét cho cùng thì chẳng phải gì ghê gớm cả, chỉ là một cử chỉ dịu dàng, cử chỉ của một cô bạn gái đối với một người mà cô ấy quý mến; nhưng nụ hôn đó làm nảy sinh trong Brolin cảm giác vô cùng ấm áp. Cảm giác ấm áp ấy nhanh chóng chìm vào mồ hôi lạnh và nỗi lo vì lá thư mới của Quạ.

- Quạ, từ nay chúng ta thống nhất gọi hắn như thế, đã gửi cho chúng ta một lá thư nữa, đại úy Chamberlin mở đầu cuộc họp.

Sĩ quan Lloyd Meats, cấp phó của ông, Bentley Cotland và cả Salhindro đều có mặt trong phòng của đại úy. Brolin từ chối cốc cà phê mà Salhindro đưa cho anh.

- Thư mới tới sáng nay, đại úy Chamberlin nói tiếp. Giống như thư trước, nó cũng được đánh trên máy vi tính bằng font chữ Times New Roman trên giấy rất bình thường. Không phát hiện được một loại sợi nào, chỉ có những vết đỏ đã khô trên giấy. Giống như thư trước, nó cũng được gửi tới trưởng bộ phận điều tra hình sự, tức là tôi, và tôi đã mở nó khi tôi tới đây sáng nay. Vừa mới nhận ra lá thư, tôi mời ngay Craig Nova ở phòng bên cạnh tới để xem xét. Tôi đã chép lại nội dung, sau đó anh ấy đi tới phòng thí nghiệm để phân tích các vết đỏ và đưa bản gốc qua hơi iode. Craig vừa gọi cho tôi, anh ấy khẳng định nó là máu khô, kết quả đầu tiên cho thấy đây là máu thuộc nhóm A âm tính. Nạn nhân trong rừng thuộc nhóm máu B âm tính.

Một cảm giác khó chịu quỷ quái xâm chiếm cả năm người, sự khác biệt về nhóm máu hàm chứa điều hiển nhiên bi thảm nhất.

- Về dấu vân tay, ông nói tiếp, không tìm thấy vết nào trên lá thư trước, vì vậy khó có khả năng lần này hắn để lại dấu vết.

- Nội dung thư là gì? Brolin hỏi.

Anh biết lá thư này hoàn toàn có thể khẳng định giả thiết của Juliette hoặc bác bỏ giả thiết đó. Anh nghẹt thở khi nghĩ rằng cô có thể đúng.

- Vâng, đây là nội dung hắn viết cho chúng ta, tôi đọc:

“Qua ta có một con đường,

Dưới những lời của ta ẩn giấu cánh cửa,

Dẫn những kẻ mù tới niềm tin,

Và các nhân chứng của người dẫn đường tới người chết.

Vực tối đen, sâu thẳm, mịt mù,

Chúng ta xuống đó, đi vào thế giới mù,

Ta đi đầu, ngươi là người kế tiếp.

Trong tầng đầu tiên bao quanh bờ vực.

Không biết la hét, chỉ toàn tiếng thở dài.”

Đại úy Chamberlin cố nén hơi thở như để không hít không khí độc hại mà những từ này tỏa vào mũi ông. Tất cả mọi người chăm chú nhìn ông, lo lắng. Tất cả, trừ Brolin đang giở liên tục một cuốn sách đặt trên đầu gối

- Còn mù mịt hơn cả lá thư thứ nhất! Salhindro thốt lên. Hắn muốn gì mới được chứ? Khinh thường chúng ta ư?

- Không.

Tất cả đều hướng về phía Brolin.

- Hắn muốn chúng ta cùng đi chung đường với hắn. Hắn sẽ chẳng là gì cả nếu không có nhân chứng, vì thế hắn hướng dẫn chúng ta đi theo bước chân hắn, hắn muốn chúng ta đi theo hắn suốt cuộc tìm kiếm của hắn. Juliette Lafayette đã tìm thấy chìa khóa của bức thư. Đó là tác phẩm Thần khúc của Dante

Meats, Salhindro, Chamberlin và cả Bentley Cotland đều tròn mắt.

Brolin dùng ngón tay trỏ đập đập vào một trang của cuốn sách.

- “Vừa tối đen, sâu thẳm, mịt mù”, anh đọc. Đây là Khúc IV của phần “Địa ngục”, tầng thứ nhất.

- Anh nói rõ hơn đi, Chamberlin yêu cầu.

- Quạ có lẽ không phải là kẻ giết người, nhưng chính hắn điều khiển kẻ giết người. Hắn là bộ não và có trong tay một kẻ chuyên thực hiện hành vi chết chóc. Mỗi lần, Quạ lại trích dẫn một đoạn khác nhau từ “Địa ngục” của Dante, Juliette cho rằng hai con người đó cố gắng đi ngược dòng sông chết để tới trung tâm của cái Ác.

- Gì cơ? Salhindro kêu lên.

- Chúng giết người để đi theo linh hồn nạn nhân dọc theo sông Acheron, sông chở người chết, để tới chỗ Dité, thần Ác.

- Những chuyện vớ vẩn này là gì thế? Chamberlin ngạc nhiên.

- Tôi nghĩ là Juliette phán đoán đúng, hung thủ và Quạ sẽ giết người ở mỗi tầng trong số chín tầng của Địa ngục. Chúng trả nợ và đi theo linh hồn nạn nhân, sau mỗi lần chúng lại tiến được gần hơn một chút với thứ mà chúng tìm kiếm.

- Thật phi lý! Cotland nổi nóng. Cảnh sát lại đi nghe những lời huyên thuyên của một sinh viên đang cần quảng cáo từ bao giờ thế?

- Anh không biết Juliette, vậy thì đừng có nói! Brolin phản ứng lại ngay mà không cần ý tứ.

Bentley Cotland giận dữ nhìn anh, cố tìm cách đáp lại đến nơi đến chốn nhưng không nghĩ ra.

- Joshua, anh là chuyên gia về tâm lý học tội phạm ở đây, đại úy Chamberlin nói. Anh nghĩ thế nào?

Brolin giơ tay cho mọi người xem những ghi chép của Juliette.

- Câu trả lời nằm trong nội dung cuốn sách và Juliette đã cảm nhận được nó. Có thể cô ấy chỉ là một sinh viên, nhưng cô ấy đã cận kề sự điên dại, dù chúng ta muốn hay không thì cô ấy cũng cảm nhận được điều đó mà loại tội phạm này có thể đã trải qua.

Anh gật đầu.

- Cô ấy có lý, anh nói tiếp. Có thể chúng giết người ở mỗi tầng trong số chín tầng địa ngục, giống như các ẩn dụ trong một đoạn thơ, mở một cánh cửa bằng cách giết một mạng người. Chúng đã đi ngược dòng sông Acheron.

- Nhưng để tới đâu? Meats hỏi, từ đầu tới giờ anh vẫn chưa phát biểu. Giết phụ nữ như vậy chẳng đi tới đâu cả! Không có cánh cửa thực nào, không có thần Ác nào ở cuối con đường!

- Không thực sự có, Brolin diễn giải, nhưng trong ảo ảnh mà chúng tự tạo ra lại đúng là như thế. Chúng phải tiến hành theo một kiểu nghi thức, có thể chúng thờ quỷ Satan hoặc không, chúng tưởng tượng mình đi ngược dòng sông Acheron theo từng linh hồn, tiếp tục giết thêm người. Nguy cơ là ở chỗ chúng rất hăng hái, nhưng không có kết quả nào thực như anh vừa nói, nên chúng biến thành tàn bạo.

- Có nghĩa là thế nào? Cotland hỏi.

- Tôi vẫn chưa biết, tất cả mới là khả năng, chúng có thể dừng gây án, nhưng cũng có thể lao vào cơn điên giết chóc, trở thành những kẻ giết người hàng loạt, tàn sát tất cả những ai trong tầm ngắm của chúng trong một khoảng thời gian rất ngắn.

- Thế kiểu hành động này đã từng xảy ra chưa? Cotland tiếp tục hỏi vì không muốn tin rằng ngoài phim ảnh ra, những chuyện như thế lại có thể có thật.

Brolin thở dài rồi nói thêm bằng giọng không âm sắc:

- Một kẻ điên cuồng đứng trên tháp bắn hạ mười sáu người bằng súng; một kẻ trầm cảm đi vào một nhà hàng rồi lia súng vào tất cả mọi người, sát hại nhiều gia đình; hay một kẻ nổ bom trong một rạp chiếu phim vào chiều thứ Bảy. Những thảm kịch này xảy ra thường xuyên, và thường thì chính Ngài Tất-cả-mọi-người xô đẩy trong cơn điên loạn. Nhưng hãy tưởng tượng khi hai con người kết hợp lại với nhau, hai kẻ tâm thần thất vọng cực độ, hãy tưởng tượng điều chúng có thể làm!

Chamberlin thêm vào:

- Những kẻ mà chúng ta đang đối mặt không sống và nghĩ như các anh và tôi, mà đó là hai kẻ có trường ý thức cũng như các giá trị đạo đức hoàn toàn khác.

Brolin xác nhận:

- Kẻ giết người kiểu này không thể có chút tình thương nào khi hắn từ từ đâm lưỡi dao vào họng nạn nhân, trong khi người ta hoàn toàn có thể khóc được nếu làm đau con mèo của mình. Nhận thức và cảm xúc của chúng không giống chúng ta.

Cotland giơ hai tay tỏ ý đầu hàng.

- Đồng ý, đồng ý… tôi hiểu rồi. Vậy chúng ta làm gì bây giờ?

- Lần này cũng vậy, hắn nhất định phải chuyển tới chúng ta một thông điệp, Brolin nhận xét.

Quay sang phía đại úy Chamberlin, anh hỏi:

“Anh có thể đọc lại lá thư được không?”

- OK… “Qua ta có một con đường, dưới những lời của ta ẩn giấu cánh cửa, dẫn những kẻ mù tới niềm tin, và các nhân chứng của người dẫn đường tới người chết.” Rồi đoạn in nghiêng: “Vực tối đen, sâu thẳm, mịt mù, chúng ta xuống đó, đi vào…”

- Đợi đã, Salhindro kêu lên. Anh đọc lại phần đầu đi.

Chamberlin đeo cặp kính hình bán nguyệt vào để nhìn rõ hơn trước khi mắt ông quá mỏi.

- “Qua ta có một con đường, dưới những lời của ta ẩn giấu cánh cửa, dẫn những kẻ mù tới niềm tin, và các nhân chứng của người dẫn đường tới người chết.”

Không nói gì, Salhindro nhảy phắt về phía chiếc điện thoại và vội vàng bấm một trong các số đã được ghi sẵn.

- Craig phải không? A, Carl. Craig có ở đó không? Ông hỏi. Vâng, tôi biết là anh ấy đang phân tích lá thư, hãy nói với anh ấy là cần tìm một loại mực vô hình. Bảo anh ấy tìm một thông điệp, không nhìn thấy bằng mắt thường, một thứ gì đó ẩn dưới nội dung lá thư.

Brolin hiểu ngay ra và vỗ tay vào trán trước sự ngây thơ của mình. “Qua ta có một con đường, dưới những lời của ta ẩn giấu cánh cửa…” Thông điệp rất rõ ràng, Quạ đã giấu một phần nội dung bằng một loại mực vô hình.

- Thật vô nghĩa! Meats kêu to, anh không thể hiểu nổi cơ chế của Quạ. Tôi cứ nghĩ là hắn muốn chúng ta trở thành nhân chứng cho các hành động của hắn cơ! Nếu như vậy thì tại sao lại giấu một nửa nội dung thư?

- Bởi vì hắn không muốn bị những kẻ ngu ngốc theo dõi, hắn muốn chúng ta phải xứng đáng, hắn kiểm tra chúng ta, hắn muốn biết liệu chúng ta có xứng đáng không! Brolin đáp. Nếu chúng ta nhầm, hắn sẽ quên chúng ta đi và sẽ chẳng còn thư từ gì nữa cả, chúng ta sẽ chỉ phát hiện ra – một cách vô tình – các xác chết sau sáu tháng mà thôi.

Họ xem xét tình hình khá lâu.

***

Ở tầng trệt tại phòng thí nghiệm của cảnh sát khoa học Portland, Craig Nova – chuyên viên tội phạm học – đặt điện thoại xuống. Anh nhìn vào tờ giấy hình chữ nhật nằm dưới quả chuông bằng thủy tinh hữu cơ. Anh rất thích thách thức kiểu này. Các đồ vật rõ ràng là thú vị hơn con người nhiều, người ta có thể khám phá chúng trong mọi lĩnh vực, phân tích đi phân tích lại cho tới khi phá vỡ được tất cả các bí mật của chúng, cho tới khi chúng không còn là bí ẩn nữa. Luôn luôn có một phương pháp, một phương thức khoa học để thu được cái mà người ta muốn, cuối cùng, mọi đồ vật đều hé lộ các bí mật của nó. Trong trường hợp xấu nhất, người ta có thể phải trải qua nhiều đêm trắng và được hỗ trợ bởi những yếu tố và con người có năng lực cao nhất, dù phải tạo ra một phương thức mới, cuối cùng người ta cũng luôn buộc được các đồ vật phải nói ra sự thật, điều mà chúng giấu kỹ bên trong. Khác hẳn với con người.

Trước khi Larry Salhindro gọi điện tới, Craig định sử dụng phương pháp làm thăng hoa các á kim hoặc kim loại bằng hơi iode, chúng sẽ bám vào các dấu vết có thể có. Mọi dấu vân tay hay vết lòng bàn tay sẽ hiện lên trên giấy. Nhưng giờ đây, khi đã biết cần tìm thứ gì, anh cảm thấy phương pháp này có nhiều rủi ro. Anh phải tìm ra một loại mực vô hình. Hơn mười hai năm thể hiện tài năng của mình trong ngành tội phạm học, Craig biết tác giả của các bức thư nặc danh có thể sáng tạo tới mức nào. Một khi không biết về loại mực được sử dụng, thì tốt hơn hết là không được mạo hiểm. Hơi iode hoàn toàn có thể xóa sạch hoặc làm biến chất một số loại “mực”, đây là một phương pháp phân tích chủ động, có nghĩa là ảnh hưởng trực tiếp lên văn bản, đối lập với các phương pháp thụ động là chỉ quan sát bức thư chứ không làm biến đổi nó.

“Tia laser Argon”, Craig tự thì thầm trong đầu. Tia laser Argon sẽ “phóng to” mọi dấu vết trên tờ giấy mà không làm thay đổi nó, lá thư vẫn được giữ nguyên.

Anh chỉnh lại bộ quần áo liền quần của mình – được thiết kế đặc biệt để không rơi ra bất cứ sợi vải nào – và đi găng trước khi cầm lá thư. Anh đi qua phòng thí nghiệm và bước vào một căn phòng tối. Cả một hệ thống máy móc phức tạp được đặt ở đây, bề thế, sáng bóng dưới ánh đèn yếu ớt và kiên nhẫn trong tiếng ù ù của hệ thống quạt gió. Craig đặt lá thư lên một tấm kính chống phản chiếu và đứng sau một chiếc bàn điều khiển. Anh chỉnh độ quét ở 500 nanomet rồi cho máy vận hành. Một chổi ánh sáng chụm bật ra ở góc 45o so với mặt lá thư, làm hiện lên tất cả các dấu vết chìm dưới dạng được phóng to.

Tiếng ù ù càng mạnh thêm và các dữ liệu nhanh chóng xuất hiện trên màn hình đặt trên bàn điều khiển. Một tia sáng xanh lục-lam làm hiện ra những đường cong và những nét không thấy được bằng mắt thường trên tờ giấy. Tia laser khiến một thứ mực trong suốt lấp loáng do hiện tượng phát quang. Một dòng chữ được viết dưới nội dung thư ban đầu.

Với nét chữ nguệch ngoạc, như được viết bởi một đứa trẻ mới tập viết, dòng chữ hiện ra trên màn hình.

***

Cuối cùng, chuông điện thoại cũng vang lên, Chamberlin nhấc máy, ông bật loa.

- Thấy rồi, Larry! Giọng nói mũi của Craig Nova vang lên trong loa. Tôi đã đưa bức thư qua tia laser Argon, độ quét 500 nanomet, tức là màu xanh lục-lam, và thấy hiện lên một dòng chữ khác do phản quang.

- Viết gì vậy?

- Không rõ lắm. Dòng chữ là “Gibbs 10”. Gã đó quả là điên, hắn viết bằng riboflavin của bã nhờn, do da tiết ra! Hẳn là hắn đã di một cái bút bi hết mực hoặc một mẩu nhựa lên da của một người rồi dùng nó để viết. Hắn sử dụng dịch tiết ra từ da người để làm mực!

- Chỉ viết thế thôi sao? Meats ngạc nhiên.

- Vâng. “Gibbs 10”.

- Có thể xét nghiệm gen từ cái chất ribofav… gì đó không? Salhindro hỏi.

- Có thể, bằng cách dùng PRC để nhân số lượng ADN lên, người ta có thể…

- Tôi không nghĩ chúng ta sẽ tìm ra ADN của Quạ mà sẽ tìm ra ADN của nạn nhân mới của, Brolin nói.

- Sao anh lại nói thế? Bentley hỏi, mặt nhăn lại vì lo âu.

- “Qua ta có một con đường, dưới những lời của ta ẩn giấu cánh cửa, dẫn những kẻ mù tới niềm tin, và các nhân chứng của người dẫn đường tới người chết.” Nếu chúng ta không mù, thì chúng ta là nhân chứng và người chết nằm ở góc số 10 cắt phố Gibbs.

Brolin lại gần bản đồ Portland treo trên tường và đưa tay tìm số 10. Anh di xuống tới tận phía Nam thành phố, đằng sau bệnh viện cũ và chỉ ngón tay vào một chú dẫn về đường xá.

- Trong một tòa nhà của công ty thoát nước, anh nói: cửa vào cống

Chương 31

Lốp xe cảnh sát lạo xạo khi vượt qua bệnh viện Shriners. Brolin cảm thấy tim mình đập mạnh trong lồng ngực. Họ đã ở rất gần. Họ đi trên phố Gibbs cho tới ngã tư cắt phố số 10, rồi Salhindro đi chậm lại. Khu này gồm nhiều nhà vườn nhỏ bỏ không, ở đó, giữa những bụi cây nhỏ nhô lên một ngôi nhà một tầng không cửa sổ. Một tấm biển cho thấy đây là khu vực nguy hiểm cấm vào.

Salhindro định quay xe lại thì Brolin đặt tay lên vai ông.

- Anh đỗ lại ở đây. Nếu bên trong có cái mà tôi nghĩ, và nếu tôi đánh giá đúng hung thủ, thì hắn sẽ không liều lĩnh chở cái xác mà không che đậy gì tới tận ngôi nhà này. Không phải khu vực nhà vườn như ở đây. Hẳn là hắn phải đỗ xe trước cổng.

Đang quan sát kỹ con đường mấp mô, bỗng Bentley quay về phía anh thanh tra.

- Mặt đường không phải là đất, mà là nhựa đường, anh hi vọng tìm ra chỉ dẫn gì từ đây?

- Làm sao mà biết được, đầu mẩu thuốc lá, vân tay, vết máu, có thể tìm thấy bất cứ thứ gì.

Không nói gì thêm nữa, Brolin ra khỏi xe khi xe của Lloyd Meats đỗ lại đằng sau họ. Cấp phó của đại úy trề môi khi thấy ngôi nhà của công ty thoát nước.

- Thật đáng sợ. Anh nói qua khe môi.

Salhindro cầm lấy bộ đàm trong xe.

- Trung tâm, đây là đơn vị 4-01, mã số 10-23. Chúng tôi thực hiện 10-85.

Trong nội bộ cảnh sát Portland, mã số 10-23 có nghĩa là đơn vị đang ở hiện trường và 10-85 có nghĩa là đơn vị sắp triển khai khám nghiệm an ninh hiện trường. Mã số 10-85 thường được sử dụng khi các cảnh sát vừa mới tới một nơi nhạy cảm và họ không biết liệu kẻ tấn công, kẻ giết người hay tội phạm nào khác đang có mặt ở đó hay không. Đây là một tín hiệu cảnh báo sớm, nếu không nhận được tin tức trong vòng năm phút sau đó, trung tâm sẽ cử đội ngũ tăng cường đến với mã số tối cao: tình huống 10-0, người đang gặp nguy hiểm. 10-0 là mã số có khả năng biến đội ngũ cảnh sát thành anh em chỉ sau vài giây.

- Đã nhận 4-01, hãy thận trọng.

Chiếc xe thứ ba mà họ đang chờ đợi nhanh chóng tới nơi. Craig Nova cùng với các trợ lý của mình là Scott Scacci và một người tên là Paul Launders chui chiếc xe chất đầy vali bằng nhôm.

- Craig, tôi muốn anh xem xét tỉ mỉ con đường dẫn tới ngôi nhà, ít nhất là đoạn cuối trước cửa vào, có khả năng hung thủ đã đỗ lại ở đó một lúc, Brolin giải thích.

Craig Nova gật đầu và quay về phía trợ lý của mình, anh này cũng gật đầu rồi đi về phía sau xe lấy ra hai chiếc vali to, mặt trên vali phản chiếu ánh mặt trời buổi trưa gay gắt. Craig đưa cho Brolin một bộ áo liền quần màu trắng được thiết kế đặc biệt để không làm rơi ra bất cứ sợi vải nào có thể làm nhiễm bẩn hiện trường vụ án.

- Hãy đưa một bộ cho Larry, anh ấy sẽ cùng vào với chúng ta, Brolin nói.

- Thế còn tôi? Bentley ngạc nhiên hỏi. Tôi cũng phải đi theo các anh, sẽ rất có ích cho tôi.

Brolin nghiến răng, “rất có ích cho tôi,” anh làu bàu nhắc lại. “Mọi thứ đều khiến người ta nghĩ rằng sắp phát hiện ra cái xác của một phụ nữ bị giết, còn hắn ta chỉ nghĩ đến khía cạnh có ích cho hắn!” Là đứa con ông cháu cha được Piston SA thả dù vào vị trí chưởng lý dù không có tí tư chất nào, Bentley Cotlandland xuất hiện đột ngột trước mắt Brolin như một kẻ thiểu năng trí tuệ luôn muốn ngoi lên với nụ cười ác thú. Anh thanh tra thầm tin rằng con đường công danh của Bentley sẽ không bao giờ cân xứng với cái tôi của anh ta và vì thế anh ta sẽ càng nguy hiểm hơn, sẽ trở thành con cá mập tham lam bị thất vọng, vì thế trở nên tàn ác. Nhưng anh ta quá kém cỏi, ngay cả với ô dù che đỡ, để có thể được chấp nhận một cách lâu dài trong các tầng lớp cao ở chính quyền.

Biết là Brolin đang tức điên lên, Salhindro giải thích trong khi xỏ các túi nhựa bảo vệ giày.

- Càng ít người thì càng ít làm nhiễm bẩn

- Nhưng…

Bắt gặp ánh mắt Brolin, trợ lý chưởng lý im lặng.

- Tốt nhất là anh hãy giúp thanh tra Meats quây một sợi dây an ninh ở lối vào từ phía đường.

Bentley Cotland thở dài rồi khó nhọc gật đầu.

Brolin, Craig Nova, Scott Scacci đứng trên bậc cửa ngôi nhà. Họ đã quan sát con đường từ bãi cỏ và xem xét kỹ lưỡng mặt đất để tìm kiếm những chỉ dẫn đặc biệt tới tận chỗ cánh cửa sắt. Sau lưng họ, Paul Launders chậm chạp tiến lên từng ba mươi centimet một, mũi gí chặt xuống đất, anh lấy được vài mẫu phẩm trên mặt đường và trong các ổ gà làm trơ lớp nền của con đường. Đằng xa, Lloyd Meats, với sự giúp đỡ của Bentley, đang chăng một dải băng màu vàng để quây khu đất lại và tiếp quản vai trò liên lạc với trung tâm.

Craig đặt chiếc hòm nặng xuống bên cạnh và lấy ra chiếc đèn Polilight. Nó trông giống như một loại máy hút bụi nhỏ gọn, giống tới mức có cả một ống mềm dài.

- Kể từ bây giờ, các anh không được bỏ găng tay ra nữa và chỉ đặt tay vào những nơi mà tôi đã chiếu đèn Polilight, Craig nhắc nhở, anh lấy từ trong hòm ra ba cặp kính cứng rồi đưa cho các đồng nghiệp của mình.

Brolin cũng như Salhindro biết rất rõ các bước quy định. Đèn Polilight là một công cụ chủ yếu của cảnh sát khoa học, nhưng ánh sáng của nó mạnh đến mức có thể làm thương tổn võng mạc nếu võng mạc không được bảo vệ bằng một loại kính đã qua xử lý đặc biệt.

Craig bật đèn và tiếng ù ù của hệ thống thông gió nổi lên. Polilight là loại đèn phát ra ánh sáng đơn sắc với bước sóng có thể thay đổi, từ cực tím đến hồng ngoại, làm phát sáng các protein có trong máu, tinh dịch hoặc cả những lớp biểu bì, tức là vân tay. Khi chiếu chùm ánh sáng cực mạnh lên nền đất hoặc một địa điểm khả nghi, người ta sẽ thấy hiện ra ngay lập tức những gì mà vài giây trước đó còn rất khó thấy bằng mắt thường.

Trước cửa vào là nền sỏi nên không thể tìm thấy vết chân nào. Craig chiếu đèn Polilight lên cánh cửa rồi tay nắm cửa. Không có kết quả.

- Nếu có ai mới tới đây, chắc hắn ta có đeo găng, Craig thất vọng đứng dậy.

- Dấu vân tay có thể tồn tại bao lâu trên một bề mặt cứng trước khi biến mất? Brolin hỏi.

- Về mặt lý thuyết, có thể hàng tuần, thậm chí hàng tháng nếu không muốn nói lâu hơn nữa, với điều kiện phải bảo quản chúng khỏi mọi nguồn gây xói mòn, ánh sáng và nhiệt, vì các yếu tố này phá hủy protein của vết tay. Trên cánh cửa, tôi nghĩ rằng với các điều kiện thời tiết bên ngoài, không thể nào phát hiện được dấu vết sau vài ngày.

Scott vừa xem ổ khóa, anh gật đầu.

- Khóa đã bị phá. Rất khéo, nhưng có vết đục trong ổ, anh nói.

- OK, vào thôi. Không biết chúng ta sẽ tìm thấy gì bên trong, nhưng đúng là nếu có một nạn nhân khác thì tôi không muốn mất thêm thời gian, Brolin vừa nói vừa tiến lại gần cánh cửa.

- Anh có nghĩ là nạn nhân có thể còn sống không? Craig hỏi, lần đầu tiên anh đánh mất vẻ mặt vui tươi thường ngày.

- Tôi không biết, Meats đã gọi xe cứu thương, chắc là xe sắp tới, chúng ta chẳng thể biết được.

Brolin đặt tay lên tay nắm cửa và xoay.

Cửa không bị khóa nữa.

Vì lý do an toàn, anh thanh tra trẻ rút khẩu Glock ra khỏi bao và bước vào đầu tiên. “Mặc kệ dấu vết”, anh nghĩ.

Bàn chân anh dẫm vào khoảng đen và người anh biến mất trong căn phòng.

Vài giây sau, một đám mây ẩm ướt quấn chặt lấy anh, từ bóng tối phát ra một tiếng kêu thảm thương.