Lồng Chim (Bird Box) - Chương 04
7
Riverbridge.
Có một lần, rất nhiều năm về trước, Malorie đã đến khu vực này để tham gia một bữa tiệc đón năm mới. Cô hầu như không nhớ tên của cô gái tổ chức bữa tiệc. Marcy gì đó. Hoặc có lẽ là Maribel. Shannon quen cô ấy và tối hôm đó, Shannon lái xe. Đường đến Riverbridge ngập trong tuyết. Tuyết xám bẩn thỉu phủ kín hai bên đường. Có người lấy đá trên nóc nhà pha với đồ uống. Có người gần như cởi trần viết chữ “Năm 2009” trên tuyết. Giờ đang là giữa tháng Bảy, cao điểm mùa hè và Malorie đang lái xe. Sợ hãi, cô độc và đau buồn.
Lái xe kiểu này thật khổ sở. Đi với tốc độ không hơn mười lăm dặm một tiếng, Malorie hoảng loạn tìm biển chỉ đường, trông chừng để tránh các xe khác. Cô nhắm mắt, rồi lại mở mắt, trong khi vẫn đang lái xe.
Đường phố tuyệt nhiên không một bóng người. Mọi căn nhà cô đi qua đều dùng chăn và ván gỗ che kín cửa sổ. Mặt trước các cửa hàng vắng hoe. Bãi đỗ xe của các siêu thị trống trơn. Cô ngay lập tức quay lại nhìn đường, đi theo lộ trình đánh dấu trên bản đồ đặt bên cạnh. Cô cảm thấy bàn tay mình mềm oặt trên vô lăng. Mắt cô nhức nhối vì khóc quá nhiều. Cô cảm thấy tội lỗi khủng khiếp vì đã để lại xác chị mình trên sàn phòng tắm ở nhà.
Cô không chôn chị ấy. Cô cứ thế bỏ đi.
Bệnh viện không trả lời điện thoại, nhà tang lễ cũng thế. Malorie choàng chiếc khăn màu xanh và vàng mà Shannon yêu thích.
Đài hoạt động phập phù. Một người đàn ông đang nói đến khả năng về một cuộc chiến tranh. Anh ta nói loài người phải đoàn kết với nhau nhưng rồi đó chỉ là những lời sáo rỗng. Cô vượt qua một chiếc xe bị bỏ lại bên đường, cửa xe đang mở. Một chiếc áo khoác treo trên ghế hành khách chạm xuống đường. Malorie nhanh chóng quay đầu nhìn phía trước. Rồi cô nhắm mắt. Rồi cô lại mở mắt.
Đài đang hoạt động. Người đàn ông đó vẫn đang nói về chiến tranh. Có thứ gì đó di chuyển ở bên phải và cô liếc nó qua đuôi mắt. Cô không nhìn nó. Cô nhắm mắt phải. Phía trước, ở giữa đường, một con chim đáp xuống và rồi lại bay lên. Khi Malorie đi đến chỗ đó, cô thấy con chim bị thu hút bởi một con chó chết. Malorie lái xe qua nó. Chiếc xe nảy lên; đầu cô đập vào nóc xe, vali kêu lạch cạch ở ghế sau. Cô run lẩy bẩy. Con chó trông không chỉ chết rồi, nó còn có vẻ méo mó. Cô nhắm mắt. Cô lại mở mắt.
Một con chim, có lẽ chính con chim đó, kêu trên bầu trời. Malorie đi qua phố Roundtree. Phố Ballam. Horton. Cô biết mình đã đến gần. Có thứ gì đó vụt qua bên trái cô. Cô nhắm mắt trái. Cô lướt qua một chiếc xe tải chở thư trống không và thư từ nằm tung tóe trên nền bê tông. Một con chim bay quá thấp, suýt nữa đâm vào kính chắn. Cô hét lên, nhắm cả hai mắt, rồi lại mở ra. Khi mở mắt, cô nhìn thấy biển chỉ đường mình đang tìm kiếm.
Shillingham.
Cô rẽ phải, nhấn phanh khi rẽ vào góc cua dẫn đến đường Shillingham. Cô không cần kiểm tra bản đồ để tìm số nhà 273. Nó đã ở trong đầu cô suốt cả quãng đường.
Ngoài một vài chiếc xe đỗ trước nhà bên tay phải, cả con phố vắng hoe. Khu dân cư này thuộc vùng ngoại ô, bình dân. Hầu hết các nhà đều giống nhau. Những bãi cỏ đã mọc quá cao. Mọi cửa sổ đều bị che kín. Malorie háo hức nhìn ngôi nhà có xe đỗ trước cửa và biết rằng nó chính là ngôi nhà mình đang tìm.
Cô nhắm mắt lại và nhấn phanh.
Xe dừng lại và cô thở hổn hển, hình ảnh mờ ảo của ngôi nhà vẫn ở trong đầu.
Gara ở bên phải. Cánh cửa gara màu xám đang đóng. Mái nhà lợp ngói nâu nằm trên những bức tường gạch trắng. Cửa ra vào màu nâu đậm hơn. Các cửa sổ đều được che kín. Và có một gác mái.
Gồng mình, mắt vẫn nhắm, Malorie quay người và nắm lấy tay cầm của vali. Ngôi nhà có lẽ cách chỗ cô đang đứng một mét rưỡi. Cô biết thế vì mình đang không đứng gần lề đường. Cô không quan tâm. Cố gắng làm mình bình tĩnh lại, cô hít vào thật sâu, thở ra từ từ. Chiếc vali nằm bên cạnh, trên ghế hành khách. Mắt nhắm, cô lắng nghe. Không nghe thấy tiếng động gì bên ngoài xe, cô mở cửa ghế lái và bước ra bên ngoài, với lấy đồ đạc của mình.
Đứa bé đạp trong bụng cô.
Malorie thở hổn hển, loạng choạng với vali hành lý. Cô suýt mở mắt để nhìn xuống bụng. Thay vào đó, cô đưa tay xoa bụng.
“Chúng ta ở đây rồi,” cô thì thầm.
Cô nắm lấy vali và mò mẫm, cẩn thận bước về phía bãi cỏ trước nhà. Khi cảm thấy cỏ dưới đế giày, cô đi nhanh hơn, lướt qua những bụi cỏ thấp. Gai đâm vào cổ tay và hông cô. Cô lùi lại, lắng nghe và cảm nhận nền bê tông dưới đế giày, thận trọng bước đến nơi cô nghĩ là cửa ra vào.
Cô đã đúng. Đặt vali xuống, cô dò dẫm dọc tường tìm chuông cửa. Cô bấm chuông.
Ban đầu, không có ai trả lời. Cô tuyệt vọng cảm thấy rằng mình đã đến bước đường cùng. Cô lái xe xa đến thế, đương đầu với cả thế giới này, chả vì cái gì sao? Cô bấm chuông lần nữa. Rồi lần nữa. Lần nữa. Vẫn không ai trả lời. Cô gõ rồi bấn loạn đập vào cánh cửa.
Không ai trả lời.
Rồi… cô nghe thấy những tiếng thầm thì từ bên trong.
Ôi Chúa tôi! Có người đang ở đây! Có người ở nhà!
“Xin chào!,” cô gọi khẽ. Tiếng nói của chính cô trên con phố vắng lặng làm cô sợ hãi. “Xin chào! Tôi đọc được mẩu tin trên báo!”
Im lặng. Malorie đợi, lắng nghe. Rồi ai đó gọi cô.
“Cô là ai?” Một người đàn ông hỏi. “Cô từ đâu đến?”
Malorie cảm thấy nhẹ nhõm và tràn trề hi vọng. Cô muốn khóc.
“Tên tôi là Malorie! Tôi lái xe từ Westcourt đến!”
Sau đó là một khoảng lặng và, “Cô có nhắm mắt không?”
Đó là giọng của một người đàn ông khác.
“Có. Mắt tôi đang nhắm.”
“Cô đã nhắm mắt lâu chưa?”
Hãy để tôi vào đi! Cô nghĩ. ĐỂ TÔI VÀO!
“Không,” cô trả lời. “Hoặc có. Tôi lái xe từ Westcourt đến. Tôi nhắm mắt nhiều hết mức có thể.”
Cô nghe thấy tiếng rì rầm. Ai đó nổi giận. Người ta đang tranh cãi có cho cô vào hay không.
“Tôi chưa nhìn thấy cái gì!” Cô nói. “Tôi thề. Tôi an toàn. Tôi đang nhắm mắt. Làm ơn. Tôi đã đọc mẩu tin trên báo.”
“Cứ nhắm mắt,” cuối cùng một người đàn ông nói. “Chúng tôi đang mở cửa. Khi cửa mở, cô sẽ đi vào trong nhanh hết mức có thể. Được chứ?”
“Được. Vâng. Được.”
Cô đợi. Không khí tĩnh lặng và êm ả. Không có gì xảy ra. Rồi cô nghe thấy tiếng cửa bật mở. Cô bước nhanh về phía trước. Những bàn tay thò ra và kéo cô vào trong. Cánh cửa đóng sập lại sau lưng cô.
“Giờ đợi đã,” một người phụ nữ nói. “Chúng tôi cần kiểm tra xung quanh. Chúng tôi cần biết rằng chỉ có mình cô đi vào.”
MaJorie đứng nhắm mắt và lắng nghe. Có vẻ như họ đang mò mẫm dọc những bức tường bằng chổi. Mấy đôi tay đang chạm vào vai, cổ và chân cô. Lúc này, có một người đứng sau lưng cô. Cô nghe thấy tiếng những ngón tay trên cánh cửa đóng.
“Được rồi,” một người đàn ông nói. “Chúng ta ổn cả.”
Khi Malorie mở mắt, cô thấy năm người đang đứng xếp hàng trước mặt mình. Vai kề vai, họ lấp kín sảnh đợi. Cô nhìn họ chằm chằm. Họ nhìn cô chằm chằm. Một người trong số họ đội một cái mũ giống như mũ bảo hiểm. Cánh tay anh ấy bọc kín bằng những thứ trông như bông và băng. Bút, bút chì và những vật nhọn khác thò ra từ dải băng trông như phiên bản vũ khí thời Trung cổ của một đứa trẻ. Hai người đang cầm chổi.
“Xin chào,” người đàn ông này nói. “Tên tôi là Tom. Tất nhiên cô hiểu được vì sao chúng tôi phải trả lời qua cửa như vậy. Bất kì thứ gì cũng có thể lẩn vào trong này cùng cô.”
Cho dù Tom đội mũ bảo hiểm, Malorie nhìn ra anh có mái tóc nâu vàng. Nét mặt cương nghị. Đôi mắt xanh ánh lên vẻ thông minh. Anh không cao hơn Malorie nhiều. Anh không cạo râu và bộ râu ấy có màu hung hung.
“Tôi hiểu,” Malorie nói.
“Westcourt,” Tom nói, bước về phía cô. “Đó là một quãng đường đáng kể. Cô đã làm một việc vô cùng dũng cảm. Sao cô không ngồi xuống để chúng ta có thể nói về những thứ cô nhìn thấy dọc đường?”
Malorie gật đầu nhưng cô không nhúc nhích. Cô nắm vali chặt đến mức những khớp ngón tay trắng bệch và đau nhói. Một người đàn ông cao to hơn đến gần cô.
“Nào,” anh ấy nói, “để tôi đỡ cái này cho cô.”
“Cám ơn.”
“Tên tôi là Jules. Tôi đã ở đây hai tháng rồi. Đa số chúng tôi đều thế. Tom và Don đến sớm hơn một chút.”
Mái tóc đen ngắn của Jules hơi bẩn. Như thể anh đã làm việc ngoài trời. Anh có vẻ tử tế.
Malorie nhìn từng người một trong nhà. Có một phụ nữ và bốn người đàn ông.
“Tôi là Don,” Don nói. Tóc anh cũng màu đen. Dài hơn một chút. Anh mặc quần đen, áo sơ mi kiểu cổ điển màu tím, tay áo cuộn lên đến tận khuỷu. Anh có vẻ già hơn Malorie, tầm hai bảy, hai tám tuổi. “Cô dọa chúng tôi sợ phát khiếp. Chẳng có ai gõ cửa trong nhiều tuần rồi.”
“Tôi rất xin lỗi.”
“Đừng lo,” người đàn ông thứ tư nói. “Chúng tôi cũng từng làm như chị. Tôi là Felix.”
Felix trông mệt mỏi. Malorie nghĩ cậu còn trẻ. Hai mốt, hai hai tuổi. Chiếc mũi dài và mái tóc nâu dày khiến cậu trông giống như một nhân vật hoạt hình. Cậu cao như Jules nhưng gầy hơn.
“Còn tôi là Cheryl,” người phụ nữ nói, đưa tay về phía cô. Malorie bắt tay chị ấy.
Vẻ mặt của Cheryl kém hoan nghênh hơn Tom và Felix. Mái tóc nâu che bớt một phần khuôn mặt. Chị mặc một chiếc áo sát nách. Chị cũng có vẻ vừa làm việc.
“Jules, anh giúp tôi bỏ thứ này ra được chứ?” Tom nói. Anh đang cố gắng cởi mũ bảo hiểm, nhưng bộ giáp toàn thân tự chế đang cản trở. Jules giúp anh.
Chiếc mũ được bỏ đi, Malorie nhìn anh kĩ hơn. Mái tóc màu vàng cát rối bù trên khuôn mặt trắng trẻo. Những vết tàn nhang mờ mờ điểm tô làn da anh. Hàm râu quai nón lưa thưa nhưng ria mép thì dày hơn. Chiếc áo sơ mi cổ điển đơn giản và chiếc quần màu nâu khiến Malorie nhớ đến một người thầy của mình.
Lần đầu tiên nhìn thấy anh, cô hầu như không nhận ra anh đang chú ý đến bụng mình.
“Tôi không có ý tọc mạch nhưng hình như cô đang mang thai?”
“Vâng,” cô yếu ớt nói, sợ rằng đây sẽ là một gánh nặng.
“Ôi chết tiệt,” Cheryl la lên. “Cô hẳn là đang đùa tôi.”
“Cheryl,” Tom nói, “cô đang làm cô ấy sợ đấy.”
“Nghe này, Malorie phải không?” Cheryl nói. “Tôi không định tỏ ra độc địa đâu nhưng để một phụ nữ mang thai bước vào ngôi nhà này thực sự là cả một trách nhiệm.”
Malorie im lặng. Cô nhìn từ khuôn mặt này sang khuôn mặt khác, chú ý biểu hiện của họ. Họ dường như đang nghiền ngẫm, cân nhắc xem có đủ khả năng cưu mang một người sắp sinh nở hay không. Đột nhiên, Malorie nhận ra rằng cô đã không tính đến điều đó. Trên đường lái xe đến nơi này, cô đã không nghĩ rằng mình sẽ sinh con ở đây.
Nước mắt lại lăn dài.
Cheryl lắc đầu và chấp nhận, bước đến gần cô.
“Chúa tôi,” cô lên tiếng. “Đến đây.”
“Tôi không chỉ có một mình,” Malorie đáp lại. “Tôi ở cùng chị gái Shannon. Bây giờ, chị ấy chết rồi. Tôi đã bỏ chị ấy lại.”
Cô đang khóc. Qua làn nước mắt mờ mờ, cô thấy bốn người đàn ông đang quan sát mình. Họ có vẻ cảm thông. Ngay lập tức, Malorie nhận ra rằng mỗi người đều có nỗi đau riêng.
“Thôi nào,” Tom nói. “Để tôi dẫn cô đi xem nhà. Cô có thể dùng phòng ngủ ở đầu cầu thang. Tôi sẽ ngủ dưới đây.”
“Không được,” Malorie phản bác. “Tôi không thể giành phòng của bất kì ai.”
“Tôi quyết thế đấy,” Tom nói. “Cheryl ngủ ở cuối hành lang trên đó. Phòng Felix ở cạnh phòng cô. Dẫu sao thì, cô đang mang thai. Chúng tôi sẽ giúp cô hết sức có thể.”
Họ đang đi dọc hành lang. Họ qua phòng ngủ ở bên trái. Rồi nhà vệ sinh. Malorie thấy hình ảnh phản chiếu của mình trong gương và nhanh chóng ngoảnh đi. Ở bên trái, cô thấy bếp. Trên mặt quầy bếp là những thùng nước lớn.
“Đây là phòng khách. Chúng tôi dành rất nhiều thời gian ở đây,” Tom nói.
Malorie quay lại thấy anh đang khua tay chỉ về căn phòng lớn hơn. Có một chiếc đi văng. Một chiếc bàn vuông nhỏ, trên đó đặt điện thoại. Đèn. Ghế bành. Thảm. Lịch được vẽ bằng bút đánh dấu trên khoảng trống giữa các bức tranh treo tường, cửa sổ đều được che kín bằng chăn đen.
MaJorie ngẩng lên khi một chú chó đột nhiên chạy vào phòng. Đó là một chú chó giống collie. Nó nhìn cô thăm dò trước khi lại gần chân cô và đợi cô nựng nó.
“Đây là Victor,” Jules nói. “Nó sáu tuổi rồi. Tôi nuôi nó từ khi còn bé.”
Malorie nựng chú chó. Cô nghĩ Shannon sẽ thích nó. Sau đó, Jules rời khỏi phòng, mang vali của cô lên cầu thang trải thảm. Tranh ảnh treo dọc những bức tường dài. Một số là ảnh, một số là tranh nghệ thuật. Ở cuối cầu thang, cô dõi theo anh đang bước vào phòng ngủ. Đứng từ chỗ này cô cũng có thể thấy cái chăn đang che cửa sổ.
Cheryl đưa cô đến đi văng. Malorie ngồi xuống, kiệt sức vì đau buồn và sốc. Cheryl và Don cho biết họ sẽ chuẩn bị thức ăn.
“Đồ ăn đóng hộp,” Felix nói. “Ngày tôi đến chúng tôi đã chạy đi gom góp một vòng. Đó là thời điểm ngay trước khi vụ tai nạn đầu tiên ở Upper Peninsula được đưa tin. Người đàn ông ở cửa hàng nghĩ chúng tôi bị điên. Chúng tôi có đủ thức ăn dự trữ cho ba tháng nữa.”
“Giờ thì ít hơn một chút rồi,” Don giải thích, biến mất vào trong bếp. Malorie tự hỏi liệu ý anh có phải là giờ đã nhiều miệng ăn hơn bởi sự xuất hiện của mình hay không.
Sau đó, ngồi bên cạnh cô trên đi văng, Tom hỏi cô đã nhìn thấy gì trên đường lái xe đến đây. Anh tò mò về mọi thứ. Tom là kiểu người sẽ sử dụng bất kì thông tin nào cô cung cấp và cô cảm thấy như những chi tiết vụn vặt cô nhớ được chẳng có ích gì. Cô kể với anh về con chó chết. Xe chở thư. Những cửa hàng, con phố vắng tanh và chiếc xe bị bỏ hoang với chiếc áo khoác.
“Có vài chuyện tôi cần phải nói với cô,” Tom nói. “Thứ nhất là, ngôi nhà này không thuộc về bất kì ai ở đây. Chủ nhà đã chết. Tôi sẽ giải thích điều đó với cô sau. Không có mạng. Mạng mất kể từ khi chúng tôi đến đây. Chúng tôi khá chắc rằng nhân viên công ty viễn thông đã nghỉ làm. Hoặc họ chết rồi. Thư từ không đến nữa và cũng không có báo. Mới đây cô có kiểm tra điện thoại di động không? Điện thoại của chúng tôi đã dừng hoạt động ba tuần trước. Nhưng vẫn còn đường dây cố định, nếu cô có thể tin vào sự may mắn đó, mặc dù tôi không biết chúng ta sẽ gọi cho ai.”
Cheryl bước vào phòng, mang theo một đĩa cà rốt và đậu, cùng với một cốc nước nhỏ.
“Điện thoại cố định vẫn hoạt động,” Tom nói, “điện còn cũng vì thế. Nhà máy điện địa phương chạy bằng thủy điện. Tôi không thể nói với cô liệu nó có dừng hoạt động trong một ngày hay vĩnh viễn không nhưng nếu công nhân nhà máy để cổng mở đúng cách, chúng ta sẽ luôn có điện thôi. Điều này có nghĩa là dòng sông cung cấp điện cho ngôi nhà này. Cô có biết có một dòng sông sau lưng chúng ta không? Ngăn chặn thảm họa, miễn là nó còn chảy, chúng ta có thể gặp may. Chúng ta có thể sống sót. Liệu đó có phải đòi hỏi quá đáng? Chắc thế. Nhưng khi cô ra giếng lấy nước và đó là nước chúng ta dùng cho mọi việc, cô có thể nghe thấy tiếng sông chảy phía sau, cách chúng ta khoảng bảy mươi mét. Ở đây không còn nước máy. Nó đã dừng lại không lâu sau khi tôi đến đây. Trong nhà tắm, chúng tôi dùng thùng và thay phiên mang thùng chất thải đến hố xí. Đó là những cái hố chúng tôi đào trong rừng. Tất nhiên, chúng tôi làm tất cả những việc này trong lúc bịt mắt.”
Jules đi xuống cầu thang. Victor theo sau anh ấy.
“Đồ đạc của cô xong rồi,” anh ấy nói, gật đầu với Malorie.
“Cám ơn,” giọng cô khe khẽ.
Tom chỉ vào hộp giấy trên chiếc bàn nhỏ kê sát tường.
“Khăn bịt mắt ở đó. Cô có thể dùng bất kì cái nào và khi nào cô muốn.”
Họ đều đang nhìn cô. Cheryl ngồi trên tay ghế bành. Don đứng ở lối vào bếp. Jules quỳ gối bên cạnh Victor ở cầu thang. Felix đứng ở cửa sổ.
Họ đều đau buồn, Malorie nghĩ. Những con người nàg đã trải qua những điều kinh khủng, giống mình.
Uống cốc nước Cheryl đưa, Malorie quay sang Tom. Cô không thể dứt khỏi suy nghĩ về Shannon. Nhưng cô cố gắng, mệt mỏi nói với Tom.
“Cái thứ tôi thấy anh đội lúc tôi đến là cái gì thế?”
“Cái áo giáp à?”
“Đúng rồi.”
“Tôi vẫn còn chưa chắc,” Tom mỉm cười nói. “Tôi đang cố gắng tạo ra một bộ đồ. Thứ gì đó bảo vệ nhiều hơn là chỉ đôi mắt. Chúng tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu một trong những thứ đó chạm vào chúng ta.”
Malone nhìn những người khác trong nhà. Rồi quay lại nhìn Tom.
“Các anh tin rằng có những sinh vật ngoài kia?”
“Phải,” Tom nói. “George, chủ ngôi nhà này, đã nhìn thấy chúng. Ngay trước khi anh ấy chết.”
Malorie không biết nói gì. Theo bản năng cô đưa một tay lên bụng.
“Tôi không định dọa cô,” Tom nói. “Và tôi sẽ kể chuyện của George sớm thôi. Nhưng đài đã bắt đầu nói giống như thế. Tôi nghĩ bây giờ điều đó đã được công nhận. Thứ gì đó sống đang tấn công chúng ta. Chỉ cần nhìn một trong số chúng trong một giây, thậm chí ít hơn, là ta sẽ đi đời.”
Mọi thứ trong phòng có vẻ trở nên tối tăm hơn đối với Malorie. Cô cảm thấy choáng váng, quay cuồng.
“Cho dù chúng là cái gì,” Tom tiếp tục, “đầu óc của chúng ta không thể hiểu được. Chúng có vẻ giống như một sinh thể vô định. Thứ gì đó quá phức tạp để chúng ta nắm bắt được. Cô hiểu không?”
Những lời nói của Tom đột nhiên khiến Malorie đầu váng mắt hoa. Victor thở hồng hộc bên chân Jules. Cheryl hỏi cô có ổn không. Tom vẫn đang nói.
Sinh thể… Vô định… đầu óc chúng ta có giới hạn, Malorie… những thứ này… chúng vượt xa cả nó… cao hơn nó… ngoài tầm với… ngoài…
Nhưng rồi, Malorie ngất xỉu.
8
Malorie tỉnh dậy trong phòng ngủ mới. Phòng tối om. Trong giây phút sung sướng cuối cùng mà cô cảm nhận được, Malorie thức giấc với ý nghĩ rằng mọi tin tức về sinh vật lạ và sự điên rồ này chỉ là ác mộng. Mơ màng, cô nhớ ra Riverbridge, Tom, Victor, quãng đường lái xe nhưng không thứ gì rõ ràng cho đến khi cô nhìn chằm chằm lên trần nhà và nhận ra rằng mình chưa từng thức giấc trong căn phòng này trước đây.
Shannon đã chết.
Từ từ ngồi dậy trên giường, cô nhìn ra cửa sổ. Tấm chăn đen bị đóng đinh vào tường, bảo vệ cô an toàn khỏi thế giới bên ngoài. Cuối giường có một bàn trang điểm. Màu hồng của nó đã phai nhưng gương trông vẫn sạch. Trong gương, cô có vẻ nhợt nhạt hơn bình thường. Bởi vậy, mái tóc đen của cô thậm chí trông còn đen hơn. Ở chân gương là đinh, vít, búa và một cái tua vít. Ngoại trừ chiếc giường, những thứ khác là đồ đạc thêm vào.
Cô quăng chân qua mép đệm, nhỏm dậy và thấy trên sàn nhà trải thảm xám, còn một chiếc chăn đen thứ hai gấp gọn gàng. Để dự phòng, cô nghĩ. Bên cạnh nó là một chồng sách nhỏ.
Quay mặt ra cửa phòng ngủ, Malorie nghe thấy tiếng nói vọng lên từ tầng dưới. Cô chưa biết rõ những người này và không thể nhận ra ai đang nói trừ Cheryl, người phụ nữ duy nhất hay Tom, giọng nói sẽ dẫn dắt cô nhiều năm sau.
Khi cô đứng lên, tấm thảm thô ráp và cũ kĩ dưới chân. Cô đi ngang phòng và ngó ra hành lang. Cô cảm thấy ổn. Được nghỉ ngơi. Đầu không còn váng vất nữa. Mặc nguyên quần áo lúc bị ngất tối qua, Malorie xuống cầu thang để đến phòng khách.
Ngay trước khi bước xuống sàn nhà gỗ, Jules đi qua, mang theo một chồng quần áo.
“Chào,” anh nói và gật đầu. Malorie dõi theo khi anh đi đến phòng tắm ở hành lang. Ở đó, cô nghe thấy anh nhúng quần áo vào thùng nước.
Khi đi về phía bếp, cô thấy Cheryl và Don đứng bên chậu rửa bát. Malorie bước vào bếp khi Don nhấc cốc ra từ thùng. Cheryl nghe thấy cô và quay người lại.
“Tối qua, cô làm chúng tôi lo quá,” chị ấy nói. “Cô đã cảm thấy khỏe hơn chưa?”
Giờ mới nhận ra rằng mình đã ngất tối hôm qua, Malorie hơi đỏ mặt.
“À, tôi ổn. Chỉ là quá nhiều chuyện phải tiếp nhận.”
“Với chúng tôi cũng thế,” Don đồng tình. “Nhưng cô sẽ quen thôi. Rất nhanh, cô sẽ nói rằng chúng ta đang sống một cuộc đời xa hoa.”
“Đừng châm biếm,” Cheryl hòa hoãn nói.
“Tôi không có ý thế,” Don giải thích. “Tôi thích ở đây.”
Malorie giật bắn người khi Victor liếm tay cô. Khi quỳ xuống nựng nó, cô nghe thấy tiếng nhạc từ phòng ăn. Cô đi ngang bếp và ngó vào bên trong. Căn phòng không người, nhưng đài đang bật.
Cô quay lại với Cheryl và Don ở chỗ chậu rửa bát. Đi qua họ là cửa xuống tầng hầm. Malorie định hỏi về nó thì nghe thấy tiếng Felix từ phòng khách. Cậu ấy đang đọc lại địa chỉ ngôi nhà.
“… Hai trăm bảy mươi ba Shillingham… tên tôi là Felix… Chúng tôi đang tìm những người còn sống… sống sót…”
Malorie ló đầu vào phòng khách. Felix đang dùng điện thoại bàn.
“Cậu ấy gọi các số điện thoại một cách ngẫu nhiên.”
Malorie nhảy lên, lần này là giọng Tom, cũng đang ngó vào phòng khách như cô.
“Chúng ta không có danh bạ à?” cô hỏi.
“Không. Điều đó thường xuyên làm tôi phát cáu.”
Felix đang quay một số khác. Tom, đang cầm một mẩu giấy và bút chì, hỏi. “Muốn đi xem hầm với tôi không?”
Malorie theo anh đi qua bếp.
“Anh đang đi kiểm đồ dự trữ à?” Don hỏi khi Tom mở cửa hầm.
“Phải.”
“Cho tôi biết số lượng nhé.”
“Chắc chắn rồi.”
Tom bước vào trước. Malorie theo anh xuống những bậc thang gỗ. Mặt sàn hầm là nền đất. Trong bóng tối, cô có thể ngửi và cảm thấy đất dưới bàn chân trần.
Căn phòng đột nhiên bừng sáng khi Tom kéo sợi dây nối với bóng đèn. Malorie hốt hoảng với những gì mình đang nhìn thấy. Chỗ này giống nhà kho hơn là hầm. Dường như những giá gỗ vô tận đều đang chất đầy đồ hộp. Từ trần xuống đến sàn nhà bẩn thỉu, nơi này giống một nhà kho.
“George làm tất cả những thứ này,” Tom nói, khua tay chỉ các đồ gỗ. “Anh ấy thực sự luôn đi trước thời đại.”
Ở bên trái, chỉ được đèn chiếu sáng một phần, Malorie thấy một tấm rèm treo trong suốt. Phía sau nó là máy giặt và máy sấy.
“Trông có vẻ nhiều đồ ăn,” Tom nói, khoát tay về phía những cái hộp. “Nhưng không phải. Và không ai lo lắng về việc chúng ta còn bao nhiêu đồ ăn bằng Don.”
“Các anh kiểm tra thường xuyên không?” Malorie hỏi.
“Tuần một lần. Nhưng thỉnh thoảng, khi thấy bồn chồn, tôi sẽ xuống đây và kiểm tra lại lần nữa ngay ngày hôm sau.”
“Ở đây khá mát mẻ.”
“Đúng vậy. Một tầng hầm giữ mát kiểu cổ điển. Nó thật lí tưởng.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta hết đồ ăn?”
Tom quay sang đối diện với cô. Nét mặt anh dịu dàng trong ánh điện.
“Thì chúng ta đi lấy thêm. Vơ vét ở các cửa hàng thực phẩm. Những ngôi nhà khác. Làm bất cứ việc gì có thể.”
“Đúng thế,” Malorie gật đầu đồng tình.
Trong lúc Tom đánh dấu lên tờ giấy, Malorie nghiên cứu căn hầm.
“Tôi đoán đây là căn phòng an toàn nhất trong nhà nhỉ?,” cô hỏi.
“Tôi lại không nghĩ thế. Tôi nghĩ gác mái an toàn hơn.”
“Tại sao?”
“Cô có để ý cái khóa trên đường xuống đây không? Cánh cửa này quá cũ rồi. Nó vẫn khóa được nhưng không chắc chắn. Có lẽ căn hầm này được xây trước, nhiều năm trước khi họ quyết định xây thêm ngôi nhà. Nhưng cánh cửa gác mái… then cửa đó cực kì chắc chắn. Nếu chúng ta cần nơi trú ẩn an toàn, nếu một trong những thứ đó lọt vào nhà, tôi dám nói rằng gác mái là nơi chúng ta muốn đến.”
Theo phản xạ Malorie ngước nhìn lên. Cô xoa vai.
Nếu chúng ta cần nơi trú ẩn an toàn.
“Dựa trên số thực phẩm còn lại,” Tom nói, “chúng ta có thể sống thêm ba đến bốn tháng nữa. Nghe thì có vẻ nhiều nhặn đấy nhưng ở đây thời gian trôi nhanh lắm. Ngày lại ngày díu lại với nhau. Đó là lí do bọn tôi bắt đầu vẽ lịch trên tường phòng khách. Cô biết đấy, ở một khía cạnh nào đó, thời gian không còn có ý nghĩa nữa. Nhưng đó là một trong những thứ chúng ta còn có thể níu giữ để cuộc sống giống như trước.”
“Sự chảy trôi của thời gian.”
“Đúng thế. Và những gì chúng ta làm với nó.”
Malorie lại gần chiếc ghế gỗ thấp và ngồi xuống. Tom vẫn đang ghi chép.
“Tôi sẽ chỉ cho cô tất cả các việc vặt khi chúng ta quay lại tầng trên,” Tom vừa nói vừa chỉ tay vào khoảng trống giữa kệ với tấm rèm treo. “Cô có nhìn thấy cái đó không?”
Malorie nhìn theo nhưng không chắc anh muốn nói đến cái gì.
“Lại đây.”
Tom đi cùng cô đến bức tường, nơi có vài viên gạch bị vỡ, bên trong là đất.
“Tôi không thể nói liệu cái này làm mình sợ hay thích,” anh tiếp tục.
“Ý anh là gì?”
“À, mặt đất bị lộ ra. Điều đó có nghĩa là chúng ta có thể đào? Xây một đường hầm? Một hầm chứa thứ hai? Thêm phòng? Hay đó là một cách khác để xâm nhập vào nhà?”
Mắt Tom sáng và sắc sảo trong ánh sáng căn hầm.
“Vấn đề là,” anh nói, “nếu như những sinh vật này thực sự muốn xâm nhập vào nhà… chúng sẽ chẳng gặp khó khăn gì. Và nếu thế thì tôi đoán chúng đã làm rồi.”
Malorie nhìn chằm chằm vào khoảng đất ở trên tường. Cô tưởng tượng mình đang bầu bì, lồm cồm bò qua đường hầm. Cô tưởng tượng ra những con sâu.
Sau một thoáng im lặng, cô hỏi, “Anh làm gì trước khi chuyện này xảy ra?”
“Nghề nghiệp của tôi ấy à? Tôi là giáo viên. Lớp tám.”
Malorie gật đầu. “Tôi thực sự nghĩ anh giống giáo viên.”
“Cô biết gì không? Tôi đã nghe câu đó trước đây. Rất nhiều lần! Tôi thích điều đó.” Anh vờ chỉnh cổ áo. “Cả lớp, hôm nay chúng ta sẽ học tất tàn tật về đồ hộp. Vì vậy, các em, trật tự nào.”
Malorie cười phá lên.
“Cô làm nghề gì?,” Tom hỏi.
“Tôi vẫn chưa đi làm,” Malorie đáp lại.
“Chị gái cô mất rồi à?” Tom nhẹ nhàng nói.
“Vâng.”
“Tôi rất tiếc.” Anh nói. “Tôi đã mất con gái.”
“Ôi, Chúa ơi, Tom.”
Tom dừng lại, như thể cân nhắc có nên kể tiếp với Malorie không. Rồi anh tiếp tục. “Mẹ Robin mất trong lúc sinh nở. Xét tình trạng hiện nay của cô, nói với cô chuyện này thật tàn nhẫn. Nhưng nếu chúng ta muốn hiểu nhau, cô cần biết chuyện này. Robin là một đứa trẻ tuyệt vời. Thông minh hơn cha nó ở tuổi lên tám. Con bé thích những thứ kì lạ. Như là đọc hướng dẫn đồ chơi chứ không chỉ chơi nó. Những dòng thông tin cuối phim thay vì bộ phim. Cách viết một đoạn văn. Một biểu cảm trên khuôn mặt tôi. Con bé thường nói với tôi rằng đối với nó, tôi giống như mặt trời, bởi vì mái tóc tôi. Tôi hỏi con bé rằng tôi có tỏa sáng như mặt trời không và con bé trả lời, ‘Không, bố ạ, bố tỏa sáng giống với mặt trăng hơn, khi bầu trời ngoài kia tăm tối.’
Khi những tin tức này lên chương trình thời sự và mọi người bắt đầu tiếp nhận nó một cách nghiêm túc, tôi tuyên bố rằng mình sẽ không sống trong sợ hãi. Tôi cố gắng hết sức duy trì cuộc sống thường ngày, và tôi đặc biệt muốn truyền ý nghĩ đó đến Robin. Con bé đã nghe thấy vài điều ở trường. Tôi chỉ không muốn con bé sợ hãi. Nhưng, sau một thời gian, tôi không thể giả vờ được nữa. Không lâu sau, phụ huynh bắt đầu không đưa con đến trường. Rồi trường học cũng đóng cửa. Tạm thời. Hoặc cho đến khi họ lấy được lòng tin của cộng đồng rằng họ có thể tiếp tục cho con trẻ một môi trường an toàn. Đó là những ngày đen tối, Malorie ạ. Tôi cũng là giáo viên, cô biết đấy và trường tôi dạy đóng cửa cùng lúc đó. Vì thế bố con tôi đột nhiên có rất nhiều thời gian ở bên nhau. Tôi được chứng kiến con bé lớn lên ra sao. Suy nghĩ của con bé cũng rất trưởng thành. Nhưng dù sao, nó vẫn còn quá nhỏ để hiểu câu chuyện trên bản tin đáng sợ đến mức nào. Tôi làm hết sức mình để giấu con bé những câu chuyện đó, nhưng đôi khi, người cha trong tôi không thể chịu đựng được mà lơ là cảnh giác.
Tin tức trên đài trở nên quá tải đối với Robin. Con bé bắt đầu gặp ác mộng. Tôi dành rất nhiều thời gian để làm con bé bình tĩnh lại. Tôi luôn cảm thấy mình đang nói dối con bé. Bố con tôi đồng ý rằng không ai nhìn ra cửa sổ nữa và con bé sẽ không ra ngoài mà chưa được tôi cho phép. Bằng cách nào đó, tôi phải khiến con bé cùng lúc tin rằng mọi thứ an toàn và rất không an toàn.
Con bé bắt đầu ngủ cùng tôi nhưng vào một buổi sáng, tôi thức dậy và phát hiện con bé không còn ở đó. Đêm hôm trước, con bé đã bày tỏ mong muốn mọi chuyện trở về như cũ. Con bé nói rằng nó muốn gặp mẹ, người nó chưa từng biết mặt. Điều đó làm tôi đau đớn, nhìn con bé như thế, tám tuổi đầu và nói rằng cuộc đời thật không công bàng. Khi tôi thức dậy và không tìm thấy con bé, tôi tự nhủ rằng Robin chỉ là đang quen dần với chuyện này. Cuộc sống mới này. Nhưng tôi nghĩ có lẽ con bé đã đánh mất một phần tuổi thơ vào đêm hôm trước, khi nó nhận ra, trước khi tôi nhận ra, rằng chuyện đang tiếp diễn bên ngoài ngôi nhà của chúng tôi nghiêm trọng đến mức nào.”
Tom dừng lại. Anh nhìn sàn nhà.
“Tôi tìm thấy con bé trong bồn tắm, Malorie ạ. Nổi bồng bềnh. Cổ tay nhỏ nhắn của con bé bị khứa bởi con dao cạo râu mà nó đã nhìn tôi cạo râu cả nghìn lần. Nước đỏ ngầu. Máu tràn ra cả mép bồn tắm. Máu dính cả lên tường. Đó là một đứa trẻ. Tám tuổi đầu. Con bé đã nhìn ra ngoài ư? Hay con bé cứ thế tự quyết định làm việc này? Tôi sẽ không bao giờ biết câu trả lời.”
Malorie đưa tay về phía Tom và ôm lấy anh.
Nhưng anh không khóc. Thay vào đó, một lát sau, anh bước đến những giá đồ và bắt đằu đánh dấu lên giấy.
Malorie nghĩ đến Shannon. Chị ấy cũng chết trong phòng tắm. Chị ấy cũng tự kết liễu cuộc đời mình.
Khi Tom xong việc, anh hỏi Malorie đã sẵn sàng trở lại tầng trên chưa. Khi anh với lấy sợi dây công tắc bóng đèn, anh thấy cô đang nhìn mảng đất trên tường.
“Đáng sợ, hay không?,” anh hỏi.
“Sợ.”
“Ừm, đừng như thế. Đó chỉ là một trong những nỗi sợ của thế giới cổ đại truyền lại.”
“Đó là cái gì?”
“Nỗi sợ tầng hầm.”
Malorie gật đầu.
Sau đó Tom kéo dây và ánh sáng vụt tắt.