Lồng Chim (Bird Box) - Chương 12

23

Giây phút cánh cửa đóng lại sau lưng, Tom sự hãi hơn anh đã nghĩ.

Ở ngoài này, những sinh vật gần hơn.

Khi mình đi ra đường, Tom nghĩ, đủ xa ngôi nhà, chúng có tấn công mình không?

Anh tưởng tượng những bàn tay lạnh buốt nắm lấy bàn tay mình. Họng anh bị cắt. Cổ gãy. Tâm trí anh tan biến.

Nhưng Tom biết rất rõ rằng không có tin tức nào miêu tả người bị tấn công.

Đó là cách để nghĩ, anh quyết định trong khi vẫn đứng trên mái hiên cửa trước. Buộc triết lí này hằn sâu hơn vào tâm trí, tìm cách cho nó bén rễ, anh hít thở, thật chậm. Khi anh làm thế, những cảm giác khác trào lên.

Một trong số đó là cảm giác tự do, buông thả, có chút bất cần.

Tom đã ở ngoài trời kể từ khi đến ngôi nhà đó. Anh ra giếng lấy nước thường xuyên như bất kì ai. Anh mang chất thải ra hố. Nhưng lần này khác. Không khí đem lại một cảm giác khác. Ngay trước khi anh và Jules thống nhất xuất phát, một làn gió thổi lướt qua họ. Nó mơn man trên cổ anh. Khuỷu tay. Môi. Đó là cảm giác lạ lùng nhất mà anh từng biết. Điều đó làm anh bình tĩnh. Khi những sinh vật ẩn nấp sau mọi thân cây và biển đường trong trí tưởng tượng hiếu kì của anh, bầu không khí rộng mở, sạch sẽ làm anh ngây ngất.

Giá như chỉ trong giây lát.

“Anh sẵn sàng chưa, Jules?,” anh hỏi.

“Rồi.”

Giống như những người mù thực sự, họ gõ gậy xuống mặt đất trước chân. Họ bước đi từ mái hiên. Đi được khoảng một mét, Tom cảm thấy mình không đi trên bê tông nữa. Đám cỏ dưới chân làm anh có cảm giác như ngôi nhà đã biến mất. Anh đã ra đến biển. Yếu đuối. Trong một giây, anh không chắc mình có thể làm việc này.

Vì thế anh nghĩ đến con gái anh.

Robin. Bố sẽ đi tìm vài con chó cho chúng ta.

Điều đó có tác dụng. Nó giúp anh.

Chiếc chổi sượt qua thứ gì đó giống như lề đường và Tom bước lên con đường bê tông. Anh dừng lại và quỳ xuống đó. Vẫn quỳ, anh dò dẫm tìm một góc bãi cỏ. Anh tìm thấy nó. Sau đó, anh lấy một cọc gỗ nhỏ trong túi vải thô ra và cắm xuống đất.

“Jules,” anh nói, “tôi đã đánh dấu bãi cỏ trước nhà. Chúng ta có thể cần dấu hiệu để tìm được đường về.”

Khi đứng dậy và quay người, Tom đâm sầm vào mui ô tô.

“Tom,” Jules gọi, “anh ổn chứ?”

Tom đứng vững lại.

“Không sao,” anh nói, “tôi nghĩ mình vừa đâm vào chiếc Wangoneer của Cheryl. Tôi cảm thấy tấm gỗ.”

Tiếng giày và gậy của Jules dẫn Tom đi xa khỏi chiếc xe.

Trong một tình huống khác, khi mặt trời rọi lên mi mắt, không có băng bịt mắt và mũ bảo hiểm cản trở, Tom biết rằng mình sẽ đi qua một thế giới màu hồng đào và cam. Đôi mắt nhắm của anh sẽ nhìn thấy màu sắc thay đổi cùng mây trời, trôi theo bóng của những ngọn cây và tán lá. Nhưng ngày hôm nay anh chỉ thấy màu đen. Và đâu đó trong đêm tối, anh hình dung ra Robin, con gái anh. Nhỏ bé, ngây thơ, rạng rỡ. Con bé đang động viên anh, bước đi đi bố, đi xa hơn khỏi ngôi nhà, đến với những thứ có thể giúp đỡ mọi người còn ở trong.

“Chết tiệt!,” Jules kêu lên. Tom nghe thấy anh ấy ngã xuống đường.

“Jules!”

Tom đông cứng người.

“Jules, chuyện gì thế?”

“Tôi vấp phải cái gì đó. Anh có cảm thấy nó không? Hình như là một cái vali.”

Tom dùng chổi khua một vòng cung rộng. Sợi chổi chạm vào một vật. Tom bò về phía nó. Đặt cái chổi bên cạnh trên vỉa hè nóng bỏng, anh dùng hai tay để cảm nhận xem thứ gì đang nằm giữa đường. Anh không mất nhiều thời gian để biết nó là cái gì.

“Đó là một cái xác, Jules.”

Tom có thể nghe thấy Jules đứng lên.

“Một phụ nữ, tôi nghĩ thế,” Tom nói. Rồi anh nhanh chóng rút tay khỏi mặt cô ấy.

Anh đứng lên và hai người tiếp tục đi.

Có cảm giác việc này diễn ra quá nhanh. Mọi thứ đang chuyển động quá nhanh. Trong thế giới cũ, việc phát hiện ra một cái xác trên phố sẽ phải mất nhiều giờ đồng hồ để người ta tiếp nhận.

Vậy mà họ đã tiếp tục đi.

Họ vượt qua một bãi cỏ cho đến khi chạm vào vài bụi cây. Đằng sau bụi cây là một ngôi nhà.

“Đây rồi,” Jules nói. “Một ô cửa sổ. Tôi đang sờ vào kính cửa sổ.”

Lần theo giọng nói, Tom đến gần Jules bên cửa sổ. Họ sờ dọc bức tường gạch của ngôi nhà cho đến khi tìm thấy cửa chính. Jules gõ cửa. Anh nói xin chào. Anh lại gõ. Họ đợi. Tom nói. Anh lo rằng trong thế giới im lặng này, tiếng nói của anh có thể thu hút thứ gì đó. Nhưng anh thấy mình cũng không còn lựa chọn nào khác. Anh giải thích cho người có thể đang ở trong nhà rằng họ không có ý định gây hại, rằng họ đến đây để tìm thêm đồ cung ứng, bất cứ thứ gì có thể giúp. Jules lại gõ. Họ lại đợi. Bên trong không có động tĩnh.

“Vào thôi,” Jules nói.

“Đồng ý.”

Họ quay lại cửa sổ. Tom lấy một cái khăn nhỏ từ trong túi vải ra. Anh quấn nó quanh nắm tay. Sau đó, anh đấm vào kính. Tay anh không chạm phải vải. Không vỏ thùng các tông. Không gỗ. Anh biết điều này có nghĩa là ai đó đã từng sống ở đây mà không có sự bảo vệ.

Có lẽ họ đã rời thị trấn này trước khi mọi chuyện trở nên thực sự tồi tệ. Có lẽ họ đang an toàn ở đâu đó.

Tom gọi với vào trong nhà qua cửa sổ vỡ kính.

“Có ai ở đây không?”

Không có câu trả lời, Jules dọn dẹp kính. Sau đó, anh giúp Tom bò vào trong. Ở bên trong, Tom hất đổ cái gì đó. Nó rơi uỵch xuống đất. Jules bò vào qua cửa sổ ngay sau anh.

Họ nghe thấy tiếng nhạc, tiếng đàn piano, trong căn phòng mà họ đang đứng.

Tom giơ chổi lên để tự vệ nhưng Jules nói với anh.

“Tôi đã làm đấy, Tom ạ!” anh thú nhận. “Tôi xin lỗi, cái chổi của tôi va phải chiếc đàn.”

Tom thở hổn hển. Cả hai im lặng khi anh bình tĩnh lại.

“Chúng ta không thể mở mắt ra ở đây,” Jules thì thào.

“Tôi biết,” Tom nói. “Có gió thổi qua. Một cửa sổ khác đang mơt.” Anh rất muốn mở mắt ra. Nhưng ngôi nhà này không an toàn. “Nhưng chúng ta đã ở đây,” Tom nói. “Hãy lấy bất cứ thứ gì có thể.”

Tuy nhiên, tầng một gần như không có gì hữu ích. Họ lùng sục chạn ở trong bếp. Tom khua tay quanh một cái giá cho đến khi anh tìm thấy một ít pin. Vài cây nến nhỏ. Bút. Khi đặt những vật đó vào túi, anh thông báo cho Jules biết.

“Đi thôi,” Tom nói.

“Tầng trên thì sao?”

“Tôi không thích ở đây. Và nếu có đồ ăn thì chúng chỉ ở dưới này thôi.”

Họ dùng chổi tìm đường đến cửa chính, mở khóa và bước ra ngoài lần nữa. Họ không trở ra phố. Thay vào đó, họ đi qua bãi cỏ đến ngôi nhà bên cạnh, cách xa nhà mình thêm một nhà.

Trên mái hiên thứ hai, họ lặp lại thủ tục vừa nãy. Họ gõ cửa. Tự giới thiệu mình. Họ đợi. Khi không nghe thấy tiếng động bên trong, họ phá vỡ cửa sổ. Lần này, Jules làm việc đó.

Nắm đấm của anh chạm vào lớp bảo vệ yếu ớt. Anh nghĩ nó là bìa các tông.

“Ở đây có thể có người,” anh thì thầm.

Họ đợi phản ứng đối với tiếng ồn mình đã gây ra. Nhưng không có. Tom gọi. Anh nói với vào trong nhà rằng họ là hàng xóm. Rằng họ đang tìm kiếm động vật và có thể đổi lại bằng cách cung cấp chỗ ở. Không hồi đáp. Jules dọn kính và giúp Tom chui qua cửa sổ.

Vào bên trong, họ chỉnh lại bìa các tông.

Họ dùng chổi kiểm tra ngôi nhà. Việc này mất nhiều giờ. Dựa lưng vào nhau để di chuyển, họ xoay chổi thành những vòng cung. Tom dẫn đường cho Jules đi theo. Mọi việc đã xong, khi họ tin rằng ngôi nhà trống không, cửa sổ đã che kín và những cánh cửa đã khóa, Tom tuyên bố ngôi nhà an toàn.

Cả hai người hiểu chuyện gì sẽ phải xảy ra tiếp theo.

Họ sẽ cởi mũ bảo hiểm, tháo băng bịt mắt và mở mắt ra. Họ đã không nhìn thấy bất kì thứ gì ngoài nội thất ngôi nhà họ đang ở trong rất nhiều tháng nay.

Jules làm trước. Tom nghe thấy tiếng cởi dây mũ bảo hiểm. Rồi anh làm theo. Sau khi đẩy băng bịt mắt lên trán, Tom quay người, mắt vẫn nhắm, đối mặt với Jules.

“Sẵn sàng chưa?”

“Sẵn sàng.”

Hai người đàn ông mở mắt.

Ngày xưa, khi còn là một đứa trẻ, Tom và một người bạn đã lẻn vào nhà hàng xóm qua cửa sau không khóa. Việc đó diễn ra không có kế hoạch, lịch trình. Họ chỉ muốn xem xem mình có thể làm được việc đó hay không. Nhưng họ đã làm được nhiều hơn mình hi vọng, họ trốn trong chạn bếp, buộc phải đợi cho đến khi bữa tối kết thúc. Khi họ thoát ra ngoài lần nữa, bạn anh hỏi anh cảm thấy thế nào.

“Bẩn thỉu,” lúc đó anh đã nói thế.

Bây giờ, mở mắt trong nhà của một người xa lạ, anh cảm thấy y như vậy.

Đây không phải nhà họ. Nhưng họ đang ở trong đó. Đây không phải đồ đạc của họ. Nhưng chúng có thể trở thành đồ đạc của họ. Một gia đình đã sống ở đây. Họ có một đứa con. Tom nhận ra một vài đồ chơi. Một tấm ảnh cho anh biết rằng đó là một cậu con trai. Mái tóc sáng màu và nụ cười trẻ thơ nhắc Tom nhớ đến Robin. Ở một khía cạnh nào đó, mọi thứ Tom đã gặp kể từ khi Robin qua đời đều nhắc anh nhớ về con bé. Và ở đây, trong nhà của một người xa lạ, anh hình dung ra cách họ từng sống. Đứa trẻ kể cho bố mẹ những thứ nó nghe thấy ở trường. Bố đọc tin tức mới nhất trên báo. Mẹ gọi đứa bé vào nhà. Tất cả bọn họ, cùng nhau ngồi trên đi văng, xem tin tức, sợ hãi, khi người bố choàng qua vai đứa con trai và nắm lấy tay người mẹ.

Robin.

Không có dấu hiệu của vật nuôi. Không có đồ chơi bị gặm nhấm và bỏ quên. Không có ổ cho mèo. Và không có mùi chó. Nhưng chính sự vắng bóng con người làm Tom suy nghĩ.

“Tom,” Jules nói. “Anh kiểm tra tầng trên. Tôi sẽ tiếp tục dưới này.”

“Được.”

Đứng ở chân cầu thang, Tom nhìn lên. Anh lôi băng bịt mắt từ trong túi ra và buộc nó lại quanh mắt. Bất chấp việc họ đã kiểm tra ngôi nhà, Tom không thể buộc mình trèo lên cầu thang khi mắt vẫn đang mở.

Họ đã kiểm tra kĩ chưa?

Anh dùng chổi để dò đường lên. Vai anh va vào những tấm ảnh đang treo. Anh nghĩ đến bức ảnh của George, treo trên tường ở nhà. Mũi giày anh vấp vào một bậc thang và anh loạng choạng đổ người về phía trước. Dưới tay anh là thảm. Anh đứng thẳng dậy. Lại rất nhiều bậc thang. Nhiều đến mức anh cảm thấy phi lý, như thể anh đã bước lên tận nóc nhà rồi.

Cuối cùng, đuôi chổi báo cho anh biết rằng mình đã đi hết cầu thang. Nhưng tâm trí anh vẫn ở phía sau cái chổi và anh lại lảo đảo, lần này đổ vào một bức tường. Tầng hai hoàn toàn yên ắng. Anh quỳ gối và đặt chổi bên cạnh mình. Sau đó, anh mờ túi vải và lục đèn pin. Anh tìm thấy nó. Anh đứng lên, dùng chổi dò đường tiếp. Quay sang phải, cổ tay anh hất đổ thứ gì đó cứng và lạnh. Anh dừng lại và sờ soạng. Nó làm bằng thủy tinh, anh nghĩ. Một bình hoa, mùi rất kinh khủng. Anh chưa bao giờ ngửi thấy trước đây. Tay anh chạm phải một đám lá khô giòn. Từ từ lần theo cành, anh nhận ra chúng là những bông hoa. Có lẽ là hoa hồng. Đã héo từ lâu. Anh lại quay sang bên trái. Mùi hoa hồng héo tan đi khi anh đối mặt với mùi gì đó nặng hơn nhiều.

Anh dừng lại ở hành lang. Làm thế nào mà anh và Jules lại bỏ qua mùi này?

“Xin chào?”

Không ai trả lời. Tom che mũi và mồm bằng tay còn rảnh. Cái mùi hôi thối này thật kinh khủng. Anh tiếp tục đi dọc hành lang. Đến một cánh cửa bên phải, Tom mở ra và bước vào. Đó là phòng tắm. Tiếng đuôi chổi vọng lại trên nền gạch. Có mùi ẩm mốc của máy bơm không dùng. Anh chọc vào màn tắm và kiểm tra bồn tắm bằng chổi. Sau đó, anh tìm thấy tủ thuốc. Có những lọ thuốc. Tom cho chúng vào túi. Anh quỳ gối và lục qua kệ tủ bên dưới chậu rửa. Anh nghe thấy thứ gì đó sau lưng và quay người.

Anh đang đối mặt với bồn tắm.

Mày vừa kiểm tra rồi. Chẳng có gì trong đó cả.

Một tay đặt lên kệ tủ phòng tắm sau lưng. Tay kia từ từ giơ chổi lên. Anh giữ nó trước mặt mình, vẫn đang bịt mắt.

“Có ai ở đây với tôi không?”

Anh nhích lên trước, về phía bồn tắm.

Anh khua chổi một lần. Rồi lần thứ hai.

Bụng anh nhộn nhào. Nóng. Cái mùi kia.

Tom lao về phía trước và quơ chổi tán loạn trên bồn tắm. Anh kiểm tra trần nhà phía trên nó. Rồi anh lùi lại, để chổi rơi xuống sàn phòng tắm, nó chạm vào thứ gì đó và tạo ra âm thanh giống như anh đã nghe thấy khi quỳ trước cái tủ.

Anh nhanh chóng tìm thấy một chai nhựa. Nhưng nó trống rỗng.

Tom thở dài.

Anh ra khỏi phòng tắm và tiếp tục đi dọc hành lang. Rất nhanh, anh gặp một cánh cửa khác. Cánh cửa này đóng. Anh có thể loáng thoáng nghe tiếng Jules di chuyển ở tầng dưới. Tom hít thở sâu và mở cửa. Phòng này lạnh. Cái chổi nói với anh rằng có thứ gì đó trước mặt. Anh sờ và phát hiện ra một cái đệm. Nó là một cái đệm bé. Không hề mở mắt, anh biết rằng đây là phòng cậu con trai. Anh đóng cửa lại, lục soát toàn bộ căn phòng bằng chổi, rồi bật điện.

Sau đó anh cởi băng bịt mắt và mở mắt ra.

Huy chương treo trên tường. Những đội thể thao của địa phương. Một cái là của sở thú. Ga trải giường in hình các xe đua Công thức 1. Không khí trong phòng này ngột ngạt vì lâu không ai dùng. Do điện sáng, anh cất đèn pin vào túi. Tìm kiếm một lúc anh biết rằng ở đây chẳng có cái gì sử dụng được. Anh nghĩ đến phòng ngủ của Robin.

Anh nhắm mắt lại và bỏ đi.

Càng đi sâu vào hành lang, cái mùi đó càng khủng khiếp hơn. Anh không thể không bịt miệng lại. Ở cuối hành lang, anh gặp một bức tường. Khi anh quay người, cái chổi chạm vào một cánh cửa sau lưng. Tom đông cứng người khi cánh cửa từ từ mở ra.

Mày và Jules đã kiểm tra căn phòng này chưa? Đã làm chưa?

“Xin chào?”

Không ai trả lời. Tom từ từ bước vào. Anh bật đèn lên và lần dò những bức tường có cửa sổ. Anh tìm thấy hai cửa sổ. Cả hai đều được gia cố bằng gỗ chắc chắn. Căn phòng này rộng rãi.

Đây là phòng ngủ chính.

Anh đi ngang phòng. Mùi ở đây mạnh đến mức cứ như thể nó hữu hình, như anh có thể chạm vào nó. Cái chổi dẫn anh đến thứ giống như là tủ tường. Quần áo. Áo khoác. Anh nghĩ sẽ mang chúng theo. Anh nghĩ về mùa đông họ sẽ nhanh chóng phải đối mặt.

Quay người, anh phát hiện một cánh cửa nhỏ hơn. Phòng tắm thứ hai. Anh kiểm tra tủ thuốc và ngăn kéo tủ lần nữa. Có thêm những chai thuốc, kem đánh răng, bàn chải đánh răng. Anh mò mẫm cửa sổ. Anh thấy một cái được che kín bằng gỗ. Anh dùng chổi để lần đường ra khỏi phòng tắm. Anh đóng cánh cửa lại sau lưng.

Tin là mình đã kiểm tra các cửa sổ, tin là mình an toàn, đứng cạnh tủ, Tom mở mắt ra.

Một đứa trẻ đang ngồi trên giường, nhìn thẳng vào anh.

Tom nhắm mắt lại.

Có phải những sinh vật kia có hình dáng như thế không?

Mày không an toàn! MÀY KHÔNG AN TOÀN!

Tim anh đập thình thịch. Anh đã nhìn thấy gì? Đó là một khuôn mặt. Một khuôn mặt già nua? Không, đó là khuôn mặt trẻ con. Trẻ con? Nhưng thối rữa. Anh muốn gọi Jules. Nhưng mắt anh càng nhắm lâu, hình ảnh đó càng trở nên rõ ràng hơn.

Đó là cậu bé, trong tấm ảnh ở tầng dưới.

Anh lại mở mắt.

Cậu bé đang mặc com lê. Dựa vào đầu giường tối màu, khuôn mặt nó quay về phía Tom một cách bất thường. Mắt cậu bé đang mở. Miệng trễ xuống. Đôi tay khoanh trong lòng.

Con chết đói ở đây, Tom nghĩ. Trong phòng ngủ của bố mẹ.

Tom bịt miệng và mũi, bước về phía cậu bé, so sánh cậu bé với bức ảnh. Cậu bé trông như bị ướp xác. Teo tóp.

Con đã chết ở đây bao lâu rồi? Cơ hội cứu con ra khỏi đây gần như thế nào?

Anh nhìn chằm chằm vào đôi mắt chết lặng của cậu bé.

Robin, anh nghĩ. Bố xin lỗi.

“Tom!” Jules hét vọng lên.

Tom quay người.

Anh rời phòng và bước ra hành lang.

“Jules! Anh ổn chứ?”

“Ổn! Ổn! Xuống đây nhanh lên! Tôi tìm thấy một con chó này.”

Tom giằng xé. Người cha trong anh không muốn để cậu bé ở lại. Robin nằm trong mộ đằng sau ngôi nhà mà anh đã rời khỏi rất lâu trước đây.

“Nếu ta biết con ở đây,” Tom nói, quay về phía phòng ngủ chính, “Ta đã đến sớm hơn.”

Rồi anh quay người và chạy ra cầu thang.

Jules tìm thấy một con chó.

Anh gặp Jules ở chân cầu thang. Trước khi Tom có cơ hội kể với anh về cậu bé, Jules đã bước qua phòng bếp, kể về thứ mình vừa tìm thấy. Ở đầu cầu thang tầng hầm, Jules chỉ và bảo Tom nhìn. Thật kĩ.

Ở chân cầu thang, nằm ngửa, là cặp bố mẹ. Họ ăn mặc như thể chuẩn bị đi nhà thờ. Quần áo bị xé ở vai. Trên ngực người mẹ là một mảnh giấy xé từ sổ. Ai đó đã viết bằng bút đánh dấu: YÊN NGHỈ.

“Tôi nghĩ cậu bé viết cái đó,” Tom nói. “Cậu bé đã đặt họ ở đây.”

“Họ hẳn đã chết đói,” Jules nói. “Không có đồ ăn. Tôi không biết nó sống nhờ cái gì.”

Jules chỉ qua cặp bố mẹ. Tom ngồi xổm và nhìn thấy một chú chó husky đang khom mình giữa những cái áo khoác lông mắc trên giá treo quần áo.

Nó gầy giơ xương. Tom nghĩ rằng nó đã sống nhờ vào cặp bố mẹ đã chết.

Jules bỏ một ít thịt từ túi vải ra, xé một miếng và ném vào chỗ con chó. Lúc đầu, con chó đi ra từ từ. Sau đó, nó ăn ngấu nghiến.

“Nó có thân thiện không?” Tom lặng lẽ nói.

“Tôi phát hiện,” Jules nói, “Rằng chó sẽ nhanh chóng trở thành bạn của người cho nó ăn.”

Jules cẩn thận ném thêm thịt xuống cầu thang. Anh hào hứng nói.

Nhưng cần phải tốn công với con chó. Và tốn thời gian.

Hai người dành phần còn lại của ngày hôm đó ở trong nhà. Jules đã làm thân được với con chó bằng cách cho nó ăn. Trong lúc Jules làm việc đó, Tom lục lọi những nơi Jules đã lục. Nhiều thứ họ đã có ở nhà. Anh không tìm thấy danh bạ. Không thức ăn.

Jules, hiểu biết về chó nhiều hơn Tom, nói với anh rằng họ chưa sẵn sàng để đi. Rằng chú chó còn quá thất thường, vẫn chưa tin tưởng anh ấy.

Tom nghĩ về mười hai giờ anh đã cam kết với mọi người trong nhà là họ sẽ trở lại. Dường như có một chiếc đồng hồ đang điểm tích tắc.

Cuối cùng, Jules nói với Tom anh nghĩ rằng chú chó đã sẵn sàng rời khỏi ngôi nhà.

“Vậy thì đi thôi,” Tom nói. “Chúng ta sẽ tiếp tục làm quen với nó trong lúc đi. Chúng ta không thể ngủ ở đây, với cái mùi chết chóc này.”

Jules đồng ý. Nhưng phải mất một lúc họ mới buộc được dây vào cổ con chó. Thời gian lại trôi đi. Khi Jules xích được nó, Tom quyết định mặc xác mười hai tiếng đồng hồ, một buổi chiều đã mang đến cho họ một con chó, ai biết buổi sáng ngày mai sẽ mang đến cái gì.

Đồng hồ vẫn đang điểm tích tắc.

Ở tiền sảnh, họ buộc băng bịt mắt và đội lại mũ bảo hiểm. Sau đó, Tom mở khóa cửa và họ ra khỏi ngôi nhà đó. Giờ Tom dùng chổi, còn Jules dùng chú chó. Con husky thở phì phò.

Vưọt qua bãi cỏ, cách xa Malorie, Don, Cheryl, Felix và Olympia hơn, họ đi đến ngôi nhà khác.

Tom hi vọng họ có thể nghỉ qua đêm ở ngôi nhà này. Nếu cửa sổ được bảo vệ, nếu việc lục soát mang đến cho họ sự tin tưởng và nếu mùi của chết chóc không chào đón họ.

24

Cơn đau ở vai Malorie thật rõ ràng, thật chi tiết đến mức cô có thể mường tượng dáng hình nó trong tâm trí. Cô có thể thấy nó chuyển động khi vai cô chuyển động. Nó không còn là sự nhói buốt ban đầu. Giờ cơn đau bén nhọn, âm ỉ và nhức nhối. Màu nhờ nhờ của tình trạng suy sụp chứ không còn là sự bùng nổ các sắc độ khi va chạm. Cô hình dung đáy thuyền bây giờ trông như thế nào. Nước tiểu. Nước. Máu. Bọn trẻ hỏi cô có ổn không. Cô nói mình ổn. Nhưng chúng biết khi nào người khác nói dối. Malorie đã đào tạo chúng nhiều thứ hơn cả ngôn từ.

Ngay lúc này, cô không khóc nhưng cô đã từng khóc. Nước mắt câm nín sau băng bịt mắt. Câm nín với cô. Nhưng bọn trẻ có thể nghe được thanh âm của sự lặng im.

Được rồi, các con, cô thường nói, khi họ ngồi quanh bàn ăn. Nhắm mắt lại.

Chúng nhắm mắt.

Mẹ đang làm gì?

Mẹ đang mỉm cười.

Đúng rồi, Girl. Làm sao con biết?

Hơi thở của Mẹ khác đi khi Mẹ mỉm cười, Mẹ ạ.

Và ngày tiếp theo họ làm lại điều đó.

Mẹ đang khóc, Mẹ ạ!

Đúng rồi. Tại sao mẹ lại khóc?

Mẹ đang buồn.

Đó không phải lí do duy nhất.

Mẹ đang sợ!

Đúng thế. Hãy thử một cái khác.

Giờ nước đang trở nên lạnh hơn. Malorie cảm thấy nước bắn tung tóe theo mỗi nhịp chèo nặng nhọc.

“Mẹ,” thằng bé gọi.

“Cái gì?”

Cô ngay lập tức cảm thấy lo lắng trước giọng nói của nó.

“Mẹ ổn không?”

“Con đã hỏi mẹ câu đó rồi.”

“Nhưng nghe mẹ có vẻ không ổn.”

“Mẹ nói mẹ ổn. Tức là mẹ ổn. Đừng hỏi nhiều.”

“Nhưng,” đứa con gái nói, “tiếng mẹ thở khác lắm!”

Cô biết. Cô biết. Quá sức, cô nghĩ.

“Chỉ vì mẹ đang chèo thuyền thôi,” cô nói dối.

Đã bao lần cô đặt câu hỏi với nghĩa vụ làm mẹ của mình khi cô huấn luyện bọn trẻ trở thành những cỗ máy biết nghe lời? Với Malorie, việc chứng kiến chúng lớn lên phần nào làm cô hoảng sợ. Giống như cô bị bỏ lại một mình nuôi hai đứa trẻ đột biến gen. Những quái vật nhỏ. Những sinh vật có khả năng nghe thấy một nụ cười. Có thể nói rằng cô đang sợ hay không trước cả khi cô nhận ra.

Vết thương ở vai rất đau. Nhiều năm qua, Malorie vẫn sợ bị một vết thương nặng như thế này. Có những lần tương tự. Những lúc nguy hiểm đến tính mạng. Ngã xuống cầu thang tầng hầm khi bọn trẻ lên hai. Trượt chân trong lúc bê thùng nước giếng trở về nhà rồi đập đầu vào một hòn đá. Cô nghĩ mình đã làm gãy cổ tay một lần. Vỡ một chiếc răng. Thật khó để nhớ chân cô trông thế nào khi không có những vết bầm dập. Và giờ da thịt trên vai có cảm giác như đang bị xé khỏi cơ thể cô. Cô muốn neo thuyền lại. Cô muốn tìm một bệnh viện. Chạy trên phố, gào thét, tôi cần một bác sĩ, tôi cần một bác sĩ, TÔI CẦN MỘT BÁC SĨ NẾU KHÔNG TÔI SẼ CHẾT VÀ BỌN TRẺ SẼ CHẾT VÌ KHÔNG CÓ TÔI.

“Mẹ ơi,” con bé gọi.

“Gì thế?”

“Chúng ta đang đi sai hướng.”

“Cái gì?”

Càng kiệt sức, cô càng cố dùng cánh tay khỏe. Giờ cô đang chèo ngược dòng mà không hề hay biết.

Đột nhiên, bàn tay của thằng bé ấp lên bàn tay cô. Lúc đầu Malorie giật ra, sau đó cô hiểu ý. Ngón tay nó đặt trên ngón tay cô, nó chuyển động, cùng cô, như lúc quay cần múc nước giếng.

Vậy là trong thế giới lạnh lẽo, đau đớn này, khi lắng nghe thấy sự vật lộn của cô, thằng bé giúp cô chèo thuyền.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3