Lũ Người Quỷ Ám - Chương 20
7
Satov bắt đầu, giọng gần như đe dọa, người trườn tới trước trên ghế, mắt sáng rực, tay phải giơ lên trước mặt, ngón trở chỉ lên trên. Có vẻ như chính anh ta cũng không nhận ra thái độ của mình. Anh ta nói:
- Anh có biết dân tộc nào là dân tộc độc nhất trên thế giới cưu mang Thượng đế không? Dân tộc có thiên chức cải
tạo và cứu vớt thế giới nhân danh Thượng đế mới, dân tộc đơn độc nắm chìa khóa của đời sống và Thế giới mới.
Anh có biết dân tộc đó tên là gì
không?
- Qua cách diễn tả của anh, tôi phải trả lời anh ngay đó là dân tộc Nga, không cần phải lưỡng lự lựa chọn gì cả.
Satov lại nóng mặt:
- Đó, đúng là anh đang cười - cái giống người gì đây!
- Anh hãy bình tĩnh, tôi xin anh. Tôi không cười; thực ra tôi mong đợi anh nói ra một điều như thế.
- Một điều như thế? Nghe như chính anh cũng không hiểu “như thế” là như thế nào.
- Tôi hiểu rất rõ. Huống chi tôi thấy quá rõ những gì anh muốn đi tới. Mọi điều anh nói, kể cả từ ngữ “dân tộc
cưu mang Thượng đế”, cũng chỉ là cái kết luận của cuộc đối thoại giữa chúng ta hơn hai năm về trước, lúc ở
nước ngoài, ngay trước khi anh từ giã để đi Mĩ. Ít ra, qua những gì tôi còn
nhớ...
- Từ ngữ đó là của anh chứ hoàn toàn không phải của tôi. Đó là lời của chính anh chứ không phải là cái kết luận
trong cuộc đối thoại giữa chúng ta. Giữa chúng ta không có cuộc đối thoại nào cả, chỉ có một ông thầy nói
những lời mênh mông và một môn đồ như một xác chết sống dậy. Anh là ông thầy và tôi là môn đồ
đó.
- Nhưng nếu tôi nhớ không nhầm, sau khi nghe những lời của tôi, anh đã nhập hội, và mãi về sau này anh mới bỏ
đi Mĩ
châu.
- Phải, ở Mĩ châu, tôi đã viết thư cho anh về chuyện đó. Tôi đã viết cho anh về mọi chuyện. Phải, tôi đã không
thể dứt ra được những gì đã đeo đẳng tôi từ thuở nhỏ, như không thể dứt cái băng ở một vết thương đông cứng
mà không làm chảy máu. Tất cả những hân hoan của thời thơ ấu là ở đó, tất cả nước mắt của thù hận là ở đó...
Thật khó mà thay đổi được thần tượng. Khi đó tôi không tin anh, bởi vì tôi đã không muốn tin, và tôi cứ bám
lấy cái đồ rác rưởi kia. Nhưng hạt giống vẫn nằm đó và nảy mầm. Anh hãy nói với tôi sự thật: thực ra anh đã
không đọc hết bức thư của tôi ở Mĩ châu gửi về phải không? Có thể anh đã không đọc tí nào phải
không?
- Sáu trang tôi đã đọc ba: hai trang đầu và trang cuối, và chỉ lướt qua những trang giữa. Tuy nhiên, lúc nào
tôi cũng
định...
Satov xua tay gạt đi:
- À, tôi cóc cần - bỏ đi! Điều bây giờ làm tôi chán nản là ngay anh cũng không tin những gì khi đó chính anh
nói ra về dân tộc
Nga.
Bằng một giọng khó hiểu, Nicolai nói:
- Khi đó không phải tôi đùa bỡn anh, bây giờ cũng thế. Tôi đã cố thuyết phục anh, nhưng có lẽ tôi cồn muốn
thuyết phục chính tôi nhiều
hơn.
Anh đã không đùa bỡn! Ở Mĩ châu, ba tháng tôi nằm ổ rơm bên cạnh tên Kirillov không may kia và rồi tôi khám phá ra rằng, đồng thời - có lẽ cùng một ngày - với việc gieo rắc những tư tưởng về Thượng đế và nước Nga đó vào người tôi, anh đã đầu độc trí óc của Kirillov, kẻ điên khùng bất hạnh kia. Anh đã in sâu đủ loại dối trá và chuyện bá láp khác vào đầu óc của hắn và đưa hắn tới bên bờ sự mất trí. Bây giờ anh cứ đi mà nhìn hắn mà xem; đi mà chiêm ngưỡng công trình sáng tạo của anh, mặc dù tôi biết anh đã gặp hắn rồi.
- Trước hết, anh cho tôi được nói cho anh biết rằng mới chỉ một lúc trước đây, Kirillov quả quyết với tôi là
anh ta hạnh phúc và thiện hảo. Bây giờ, còn giả thuyết của anh cho rằng những chuyện kia xảy ra đồng thời,
điều đó cũng gần đúng. Nhưng thế đã sao? Tôi nhắc lại, tôi đã không đánh lừa bất cứ anh hay
hắn.
- Có phải anh là một kẻ vô thần không? Bây giờ anh là một kẻ vô thần, phải không?
- Đúng.
- Và khi đó?
- Khi đó tôi cũng chẳng kém bây giờ.
Satov lầm thầm một cách phẫn nộ:
- Lúc bắt đầu cuộc nói chuyện của chúng ta, không phải vì tôi mà tôi đã đòi hỏi anh phải kính trọng. Một người
thông minh như anh đáng lẽ phải hiểu ngay điều
đó.
- Tôi không hề đứng dậy và bỏ về sau lời nói đầu tiên của anh. Tôi vẫn ngồi đây một cách lặng lẽ, lắng nghe
những câu hỏi của anh, những lời la lối của anh, và cố gắng trả lời anh. Điều đó chứng tỏ, cho đến bây giờ,
tôi không hề thiếu kính trọng đối với
anh.
Satov xua tay và ngắt lời:
- Anh có nhớ cái câu của chính anh: “Một người Nga không thể vô thần. Khi nào trở thành vô thần, kẻ đó không
còn là người Nga nữa”. Anh nhớ
không?
- Cái gì? - Nicolai hỏi, như thể muốn Satov nhắc lại những gì vừa nói.
- Anh hỏi “cái gì” à? Anh quên rồi ư? Quên sao được cái nhận xét tinh tế vô cùng đó, cái đặc tính chính yếu của
tinh thần Nga mà anh tiên đoán đó. Không lẽ nào anh đã quên được chuyện ấy. Để tôi nhắc anh thêm. Anh còn
nói: “Một người không theo Chính giáo Nga không thể nào là một người Nga
được”.
Tôi tưởng đó là một quan niệm của người theo chủ nghĩa Đại Nga.
- Không, những người theo chủ nghĩa Đại Nga ngày nay chối bỏ quan niệm ấy. Ngày nay, người ta đã trở nên quá
thông minh. Nhưng anh đã đi xa hơn, anh đã tin rằng Thiên chúa giáo La Mã không còn thuộc Cơ Đốc giáo nữa.
Anh khăng khăng rằng La Mã đã tuyên xưng một Chúa bị sa ngã trước lần cám dỗ thứ ba của quỉ sứ. Khi loan báo
trước thế giới rằng Chúa không thể ở mãi trên trái đất mà không có một vương quốc trần thế, Thiên Chúa giáo
thực sự đã tuyên xưng kẻ phản Chúa và do đó đưa Tây phương đến sự hủy hoại. Anh đã nói rằng nước Pháp sở dĩ
bị khổ ải như bây giờ là vì lỗi lầm của Thiên Chúa giáo, bởi vì Pháp đã chối bỏ Thượng đế La Mã suy tàn kia
mà không tìm được một Thượng đế khấc để thay thế. Đó là những gì lúc ấy anh đã nói. Tôi nhớ cuộc đối thoại
với anh một cách rất rành
mạch.
Nicolai nói một cách rất nghiêm trang:
- Nếu tôi còn tin, tôi chắc bây giờ tôi vẫn nhắc lại được. Tôi đã không nói dối khi tôi nói như một kẻ có lòng
tin. Nhưng tôi quả quyết rằng việc nhắc lại những tin tưởng cũ của tôi như thế gây cho tôi một dư vị khó
chịu, cho nên tôi rất cám ơn anh nếu anh chịu bỏ qua chuyện đó đi. Anh nghĩ có được
không?
Satov kêu lên, hoàn toàn không đếm xỉa đến lời yêu cầu của Nicolai:
- Nếu anh còn tin! Có phải chính anh là người đã nói rằng dù cho chứng minh được bằng toán học là Chân lí ở bên
ngoài Chúa, anh cũng vẫn muốn thà chọn Chúa ở bên ngoài Chân lí còn hơn? Anh có nói như thế hay là
không?
Nicolai nói, hơi cao giọng hơn:
- Khoan đã. Anh để tôi hỏi lại anh một câu. Thực sự, mục đích của cuộc chất vấn nóng nảy và thù nghịch này là
gì?
- Cuộc chất vấn đã gần xong và trong đời anh, anh sẽ không bao giờ còn bị nó quấy rầy nữa.
- Anh vẫn một mực rằng chúng ta ở bên ngoài không gian và thời gian...
- Im mồm! Tôi biết tôi đần độn và vụng về, tên tôi có thể bị đem ra bêu riếu. Anh có cho tôi nhắc lại điểm
chính trong tư tưởng của anh ngày xưa không? Chỉ một vài lời - chỉ là cái kết luận
thôi!
- Nếu chỉ là cái kết luận thì anh tiếp tục đi, nhắc lại đi.
Nicolai định liếc đồng hồ nhưng lại thôi. Satov một lần nữa lại trườn tới trước và lại giơ ngón tay trở lên một lúc. Anh ta bắt đầu nói, giọng như đọc kinh, nhưng đồng thời nhìn chăm chăm vào Nicolai.
- Không một dân tộc đơn độc nào, cho tới nay, đã đặt đời sống của họ trên căn bản lí trí và khoa học, trừ một
đôi lúc ngắn ngủi và do sự điên rồ. Trong chính cái bản chất của nó, xã hội chủ nghĩa là một chủ nghĩa vô
thần - ngay trong lời tuyên bố đầu tiên, nó đã xác nhận rằng nó là một tổ chức không có Thượng đế; nghĩa là,
một xã hội chỉ đặt nền móng trên những nguyên tắc của lí trí và khoa học. Nhưng lí trí và khoa học từ trước
tới nay vẫn chỉ giữ một phận sự phụ thuộc trong đời sống các dân tộc và cho tới ngày tận thế cũng vẫn vậy.
Các dân tộc được hình thành và chuyển động bởi một sức mạnh khác mà nguồn gốc không rõ và không giải thích
được. Sức mạnh đó là cái ý chí không sờn muốn đạt tới một mục đích và đồng thời, phủ nhận mục đích đó. Đó là
sức mạnh của một sự xác nhận không ngừng và không lay chuyển của đời sống và một sự phủ nhận cái chết. Đó là
tinh thần của đời sống, là “dòng đời” theo như lời Thánh kinh gọi, nó có thể khô cạn đi như sách Khải huyền
đe dọa. Và triết gia cho rằng nó đặt trên căn bản một nguyên tắc thẩm mĩ, những triết gia khác thì bảo
nguyên tắc luân lí, nhưng tôi gọi đó giản dị là sự tìm kiếm Thượng đế. Mục tiêu của bất cứ phong trào quốc
gia nào, trong bất cứ dân tộc nào, ở bất cứ thời đại nào, cũng chỉ là một sự tìm kiếm Thượng đế, Thượng đế
cho riêng họ, Thượng đế quốc gia - trên hết, Thượng đế phải là của riêng họ - và tìm kiếm niềm tin nơi
Người, như vị Thượng đế thực sự và duy nhất. Thượng đế là một nhân cách tổng hợp của cả dân tộc từ lúc khởi
hiện cho đến khi chung cuộc. Mọi dân tộc, hay dù một số đi nữa, cũng không bao giờ cùng có chung một Thượng
đế; mỗi dân tộc luôn luôn có Thượng đế riêng của họ. Khi các Thượng đế trở thành chung, đó là dấu hiệu các
dân tộc thế nào cũng biến mất. Khi các Thượng đế thành chung, Thượng đế chết; và niềm tin nơi họ chết theo
cùng các quốc gia biến dị. Một dân tộc càng sinh động, Thượng đế của họ càng độc đáo và đặc thù. Chưa bao
giờ từng có một dân tộc không có tôn giáo, nghĩa là, không có một ý niệm về thiện và ác. Mỗi dân tộc có ý
niệm thiện ác riêng của họ và có cái thiện cái ác riêng của họ. Khi nhiều dân tộc bắt đầu có chung những ý
niệm thiện ác, những dân tộc đó chết dần và rồi sự khác biệt thiện và ác nhạt nhòa rồi biến mất. Lí trí chưa
bao giờ xác định được thiện và ác hay ngaỵ cả phân biệt được chúng, dù chỉ một cách phỏng chừng mà thôi.
Trái lại, lí trí đã luôn luôn lầm lộn chúng một cách xấu hổ và thảm hại. Về phần khoa học, câu trả lời của
nó luôn luôn đặt căn bản trên sức mạnh thô bạo. Đó là cái xảo diệu đặc biệt của khoa học giả hiệu, cái tai
họa khủng khiếp của nhân loại, một tai họa tệ hại hơn bệnh dịch, nạn đói, và chiến tranh mà chúng ta biết
cho đến ngày nay. Kiến thức nửa vời là một hung thần không có tiền thân, một hung thần có những mục sư và nô
lệ riêng, một hung thần được thờ phụng với mối sợ hãi và sự nịnh bợ chưa từng có và làm cho chính khoa học
phải khúm núm và luồn cúi. Phải, đó là tất cả những lời của chính anh, Nicolai ạ, trừ cái nhận xét về kiến
thức nửa vời là của tôi. Bởi vì tôi chính là kiến thức nửa vời và tôi ghét cái kiến thức nửa vời hơn bất cứ
cái gì khác. Nhưng tôi đã chẳng sửa đổi bất cứ tư tưởng nào của anh, ngay cả thay đổi một chữ trong những
lời anh nói cũng
không.
Nicolai nói một cách thận trọng:
- Tôi không tin đó đúng là những lời nói của tôi. Anh đã nhập tâm một cách hăm hở và trong sự hăm hở anh đã vô tình làm sai lạc đi. Sự kiện là anh đã xào nấu lại làm Thượng đế chỉ còn là một biểu hiện quốc gia...
Anh bỗng trở nên chăm chứ theo dõi Satov, không hẳn vì những lời của Satov mà chính con người anh ta.
Satov la lên:
- Như thế nghĩa là bây giờ tôi thu hẹp Thượng đế vào hàng một biểu hiện quốc gia phải không? Ngược lại là đằng khác: tôi nâng quốc gia lên hàng Thượng đế. Vả lại, có khi nào ngược lại không? Một quốc gia làm thành thân thể của Thượng đế của nó. Một quốc gia chỉ là một quốc gia chừng nào nó có Thượng đế riêng của nó và loại trừ tất cả những Thượng đế khác một cách không đội trời chung; chừng nào nó tin rằng với sự giúp đỡ của Thượng đế của nó, nó sẽ chinh phục và hủy diệt tất cả những Thượng đế khác. Mọi quốc gia lớn đã tin như vậy ngay từ thuở khai thiên lập địa - ít ra là những nước còn lưu danh, những nước đã cầm đầu nhân loại. Không thể chối bỏ sự kiện đó. Những người Do Thái đã sống chỉ để chờ Thượng đế thật ra đời và họ đã để lại Thượng đế thật cho thế giới. Những người Hi Lạp thờ phụng thiên nhiên và truyền lại tôn giáo của họ cho thế giới, tức triết lí và nghệ thuật của họ. La Mã đã sùng bái nhà nước và để lại ý niệm nhà nước như một tặng vật cho các quốc gia. Nước Pháp, trong suốt lịch sử lâu dài, không làm được trò trống gì ngoài việc thể hiện và khai triển ý niệm về Thượng đế La Mã, và nếu nước Pháp bây giờ có đổi sang chủ nghĩa vô thần - mà họ gọi là xã hội chủ nghĩa - chỉ vì chủ nghĩa vô thần khỏe mạnh hơn thiên chúa giáo La Mã. Nếu một dân tộc vĩ đại không tin rằng riêng nó độc quyền nắm được chân lí, nếu nó không tin rằng riêng nó có thiên chức và có thể cải tạo cũng như cứu vớt toàn thế giới qua chân lí nó đang nắm, nó tức khắc không còn là một dân tộc vĩ đại nữa và chỉ còn là một tên gọi nhân chủng. Nhưng chỉ có một chân lý duy nhất, do đó chỉ có một dân tộc duy nhất có thể nắm được, và với chân lí đó, nắm được Thượng đế thật và duy nhất, mặc dù những dân tộc khác có thể cũng có Thượng đế, đặc biệt riêng của họ, dù có vĩ đại đi nữa. Và dân tộc cưu mang Thượng đế duy nhất là dân tộc Nga và - và anh có thực coi tôi như một thằng ngu không, Nicolai? - Anh ta bỗng hét lên như người khùng. - Một thằng ngu không phân biệt được những luận điệu tầm thường cổ lỗ thịnh hành ở các lò chủ nghĩa Đại Nga tại Moskva với tiếng nói hoàn toàn mới - tiếng nói sau chót, chân thật, và duy nhất về sự đổi mới cùng tái sinh... Và bây giờ anh có coi những lời tôi nói là buồn cười tôi cũng bất cần. Tôi cần gì phải để ý xem anh có hiểu tôi không, anh có hiểu một chữ, một câu nào của tôi không. Ôi, ngay lúc này, sao tôi ghê tởm cái vẻ kẻ cả và cái cười của anh thế!
Anh ta nhảy nhổm khỏi ghế. Trên mép nước bọt sùi ra. Nicolai không nhúc nhích, nói một cách lặng lẽ và nghiêm trang:
- Anh đã hiểu lầm, Satov ạ. Những lời nói nóng bỏng của anh đã khơi động những kí ức rất mạnh mẽ trong đầu tôi.
Qua những lời của anh, tôi nhận ra cái tâm trạng của chính tôi hai năm về trước và giờ này tôi sẽ không bảo
anh, như mới vừa bảo anh đây, là anh đã xuyên tạc những tư tưởng của tôi ngày trước. Thực vậy, tôi có cảm
tưởng rằng không những thế, nó còn mạnh mẽ hơn, tuyệt đối hơn. Và tôi cam đoan với anh lần thứ ba rằng tôi
rất sung sướng nếu tôi có thể đồng ý mọi điều anh nói bây giờ, đồng ý không sót một lời. Tuy
nhiên...
- Tuy nhiên anh cần một con thỏ phải không?
- Cái gì?
Satov ngồi xuống trở lại, cười một cách thù nghịch.
- Tôi nhắc lại một trong những thành ngữ ghê tởm của anh: “Trước khi nấu thịt thỏ, bạn phải bắt được thỏ, và
trước khi tin có Thượng đế, bạn phải tìm được một Thượng đế đã”. Đó là một trong những châm ngôn đắc ý của
anh ở Petersburg, nơi anh đã cảm thấy như nhân vật Nozdriov của Gogol, kẻ đã tuyên bố có thể bắt thỏ bằng
cách tóm chân sau của
nó.
- Không, Nozdriov chỉ khoác lác như vậy thôi. Nhưng, anh cho tôi hỏi một điều được không? Tôi cảm thấy tôi cũng
có quyền hỏi. Anh cho tôi biết, cái con thỏ của anh đã bị bắt rồi hay vẫn còn thơ
thẩn?
Satov bỗng bát đầu run lên.
- Anh dám hỏi điều đó như thế à! Hỏi lại, hỏi khác đi.
Nicolai nhìn anh ta một cách nghiêm nghị:
- Cũng được, tôi sẽ hỏi khác đi nếu anh muốn. Tôi muốn biết chính anh, anh có tin nơi Thượng đế hay không?
Satov lầm thầm trong sự xuất thần:
- Tôi tin tưởng nơi nước Nga và Giáo hội Chính giáo Nga... Tôi tin tưởng nơi thân thể của Chúa... Tôi tin rằng
sự Tái lâm của Người sẽ xảy ra ở Nga... Tôi tin... Tôi tin
rằng...
- Nhưng Thượng đế? Anh có tin Thượng đế không?
- Tôi... Tôi sẽ tin tưởng nơi Thượng đế.
Không một thớ thịt chuyển động nơi guơng mặt của Nicolai. Satov nhìn anh với cặp mắt bốc lửa, như thể muốn đốt cháy anh với cái nhìn của mình.
Cuối cùng Satov lên tiếng:
- Tôi đã không hề nói với anh là tôi không tin nơi Thượng đế chút nào. Tôi chỉ cố nói cho anh hiểu rằng tôi chỉ
là một kẻ quấy rầy bất hạnh không hơn không kém, trong lúc này... trong lúc này. Nhưng có ai thèm để ý đến
tôi đâu mà sợ. Chính là anh, không phải tôi, mới là đáng kể. Tôi hoàn toàn chỉ là một kẻ bất tài, và tôi
không có gì để dâng hiến ngoài xương máu của tôi, như bất cứ kẻ bất tài nào khác. Nhưng xương máu của tôi mà
làm nên trò trống gì - tôi nghĩ tới anh. Tôi đã đợi anh ở đây hai năm nay và trong suốt một giờ vừa qua tôi
đã cảm thấy như tôi đã trần truồng nhảy múa trước mặt anh... Anh là người duy nhất đáng lẽ phải nêu cao ngọn
cờ...
Anh ta không nói hết nhưng, như thể tuyệt vọng, chống khuỷu tay lên bàn và lấy tay ôm đầu.
Nicolai bỗng lên tiếng:
Tôi ngạc nhiên, không biết anh có thấy lạ lùng không, là ai hình như cũng muốn dúi một cái cờ vào người tôi? Piot’r Verkhovenxki cũng tin rằng tôi là người phải nâng cao ngọn cờ của họ, hay ít nhất những lời của hắn cũng có ý như vậy. Hắn đã một mực rằng tôi có thể là một thứ Stenka Razin56 của họ, nhờ cái “khả năng phạm tội kì lạ” của tôi. Tôi nghĩ đó đúng là những lời hắn đã dùng.
- Gái gì? Nhờ cái “khả năng phạm tội kì lạ” của anh?
- Đúng.
Satov nói với một cái thở ra gay gắt:
- Hừ! Thế có đúng không? Có đúng là ở Petersburg anh có chân trong một hội bí mật chuyên làm những thú vui nhục
dục súc vật nhất không? Có đúng là anh đã có thể dạy lại cho hầu tước Sade57 hay không? Có đúng là anh
thường dụ dỗ trẻ con và lạm dụng chúng hay không? Nói lên đi, hãy can đảm đừng nói dối! - Anh ta la lên,
hoàn toàn phát điên. - Nicolai Xtavroghin không được quyền nói dối với Satov, kẻ đã tát vào mặt mình! Hãy
nói với tôi tất cả sự thật, và nếu những gì tôi nói là đúng tôi sẽ giết anh tại đây ngay bây
giờ!
- Tôi đã nói những lời ấy, nhưng tôi không bao giờ làm hại trẻ con. - Nicolai trả lời, nhưng trả lời sau một
lúc im lặng kéo dài quá lâu. Anh trở nên nhợt nhạt và cặp mắt nảy
lửa.
Satov tiếp tục một cách áp chế, không rời cặp mắt sáng rực khỏi Nicolai:
- Nhưng anh đã nói. Có đúng là anh đã nói rằng anh không thể phân biệt được về phương diện thẩm mĩ giữa một trò
chơi khoái lạc súc vật và một sự nghiệp anh hùng, dù là việc hi sinh mạng sống để phục vụ nhân loại? Có đúng
là anh đã thấy trong những cái cực đoan đó, có một vẻ đẹp ngang nhau, và một thú vui ngang
nhau?
Nicolai nói nhỏ:
- Không thể trả lời như thế được. Tôi sẽ không trả lời.
Anh dợm đứng dậy để đi nhưng lại thôi. Satov khắp người run lên, vẫn cố chấp:
- Tôi cũng không biết tại sao ác thì xấu mà thiện thì đẹp, nhưng tôi biết tại sao sự phần biệt giữa thiện và ác
trở nên mù mờ đối với những người như Nicolai Xtavroghin. Tôi có thể nói cho anh biết tại sao anh đã cưới
người đàn bà kia một cách xấu hổ, nhục nhã như thế. Anh làm vậy rõ ràng là vì cái vô ý thức và ô nhục của nó
đã đạt tới cực điểm thiên tài! À, anh không tự mãn với việc đu đưa bên bờ vực thẳm - anh phải đâm đầu xuống
mới thỏa. Anh cưới nàng là để thỏa mãn cái đam mê muốn tàn ác, cái đam mê muốn hối hận; anh phải trải qua để
hưởng cái khoái cảm tinh thần. Đó là một sự dụng tâm xâu xé thần kinh. Anh không thể dằn lòng thực hiện một
cuộc thách đố lương tri như vậy! Cứ nghĩ mà xem - Nicolai Xtavroghin với cái cô gái què, chân cao chân thấp,
một xu không có, và nửa rồ nửa dại kia! Mà này, anh có cảm thấy một sự rùng mình khoái lạc gì khi anh cắn
một cái vào tai ông tổng đốc hay không? Anh có cảm thấy gì không, hả cái nhà quí phái trẻ tuổi vô tích sự ăn
không ngồi rồi
kia?
Mặt Nicolai càng lúc càng tái nhợt hơn.
- Anh đúng là một tâm lí gia, mặc dù anh không hoàn toàn đúng về những lí đo cưới vợ của tôi. Nhưng ai đã có
thể cung cấp được cho anh những tin tức như thế đó? - Anh cười một cách gượng gạo. - Có phải do Kirillov
không? Nhưng làm sao hắn có thể biết được? Hắn đâu có tham dự gì
trong...
- Tại sao anh tái xanh như thế? - Nicolai cuối cùng cất cao giọng:
- Nhưng tóm lại anh muốn gì? Tôi đã ngồi chịu trận trước những ngọn roi của anh ít nhất nửa giờ rồi. Ít ra anh
cũng nên để tôi đi một cách lịch sự, trừ phi anh có lí do chính đáng để đối xử với tôi như thế
này.
- Lí do chính đáng à?
- Dĩ nhiên. Bây giờ ít nhất anh cũng có bổn phận giải thích cho tôi biết anh đang nhắm vào cái gì. Tôi đã chờ
đợi điều đó, nhưng cho đến bây giờ tôi không thấy có gì ngoài mối thù hận điên rồ về phần anh. Cho nên bây
giờ, xin anh làm ơn mở cổng giùm
tôi.
Anh đứng dậy. Satov nhảy xô về phía anh một cách điên cuồng, vồ lấy vai và la lên:
- Anh hãy hôn mặt đất, lấy nước mắt của anh tưới lên và xin tha thứ!
Nicolai nhìn xuống và như đang bị một nỗi đau đớn vô cùng vò xé.
- Tôi đã không giết anh, mặc dù hôm đó... Tôi đã rút tay ra...
- Nói đi, còn gì tuôn nốt đi! Anh tới để cảnh giác cho tôi sự nguy hiểm, anh đã để tôi nói; ngày mai anh sẽ
công bố cuộc hôn nhân của anh. Anh tưởng nhìn bản mặt anh tôi không trông thấy một tư tưởng mới mẻ, đáng sợ
đang chế ngự anh à? Nicolai, tại sao tôi lại tin anh suốt đời? Anh biết không, tôi chưa bao giờ nói được như
vậy với bất cứ ai khác. Tôi thường rất dè dặt, nhưng tôi đã không ngần ngại diễn tả tư tưởng vĩ đại kia
thành lời làm nó trở thành lố bịch, bởi vì tôi đang nói với Nicolai Xtavroghin. Như tôi sẽ không ngần ngại
hôn vết chân anh để lại sau khi anh ở đây ra về... Tôi không thể dứt bỏ anh khỏi trái tim tôi, Nicolai
ạ!
Nicolai lạnh lùng nói:
- Tôi rất tiếc, Satov, tôi không thể yêu anh để đáp lại.
- Tôi biết là anh không thể; tôi biết anh không nói dối. Nhưng nghe đây, tôi có thể dàn xếp mọi chuyện: tôi sẽ
bắt con thỏ cho
anh!
Nicolai không nói gì.
- Anh vô thần bởi vì anh là con của kẻ giầu có ăn không ngồi rồi. Anh đã mất khả năng phân biệt thiện và ác bởi vì anh đã mất liên lạc với dân chúng của xứ sở anh. Một thế hệ mới đang dấn bước, khai sinh ngay từ trong lòng dân tộc, và anh sẽ không nhận ra - không những anh mà cả cha con Verkhovenxki và tôi nữa cũng không bởi vì tôi cũng xuất thân từ chốn giầu có ăn không ngồi rồi: tôi là con của đầy tớ nhà anh. Hãy nghe đây Nicolai, anh hãy tìm Thượng đế bằng lao động. Đó là tinh túy của tất cả mọi sự. Hãy đi tìm Thượng đế nếu không anh sẽ tiêu tan không để lại dấu vết gì như một cái nấm mục. Hãy tìm Thượng đế qua lao động!
- Loại lao động nào?
- Công việc của một công nhân, một nông dân. Hãy từ bỏ sản nghiệp của anh - à anh cười, anh sợ rằng có một âm
mưu gì trong đó, phải không? Hay cái
gì?
Nicolai không cười. Anh nói một cách đắn đo, như thể đã đụng phải một cái gì mới lạ thực sự đáng suy ngẫm:
- Như vậy anh cho rằng có thể tìm được Thượng đế qua sự làm việc, và nhất là sự làm việc của nhà nông, có phải
thế không? - Anh ta bỗng chuyển qua một ý mới. - Nhưng, nói về sản nghiệp, anh cũng nên biết rằng tôi không
giầu có gì cả và do đó cũng không có gì nhiều để từ bỏ. Ngay đến tương lai của Maria, địa vị tôi cũng khó
bảo đảm được. Tôi đã muốn xin anh một điều là đừng bỏ mặc nàng nếu anh có thể giúp đỡ được, bởi vì anh là
người duy nhất có chút ảnh hưởng đối với trí óc đáng thương của nàng. Tôi nói thế bởi vì có ai chắc được
những gì có thể xảy
ra.:.
Satov một tay cầm một ngọn nến, một tay xua Nicolai.
- Được, được, về Maria... Để đó sau, anh khỏi cần phải nói. Nhưng nghe đây, anh hãy đi gặp Tikhon.
- Ai?
- Tikhon, trước là một giám mục. Bây giờ ông ấy đã thôi rồi, vì lí do sức khỏe, ngay trong thành phố này, ở tu
viện Đức Mẹ Đồng
Trinh.
- Tại sao tôi phải đến ông ta?
- Không có gì. Người ta đến thăm. Anh cũng đến. Có mất mát gì đâu?
Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói về ông ta, và... tôi chưa bao giờ gặp một người nào loại đó. Cám ơn anh, chắc tôi sẽ tới.
Satov soi đèn cho Nicolai xuống cầu thang:
- Lối này. Rồi, cứ đi đi. - Anh ta xô cổng mở ra.
Khi bước qua bực cổng, Nicolai lặng lẽ nói:
- Tôi sẽ không tới anh nữa đâu, Satov.
Ngoài đường trời vẫn mưa và tối đen.