Lũ Người Quỷ Ám - Chương 52
3
Bà Varvara tới bằng chiếc xe tứ mã, có Dasa Satova và hai người hầu tháp tùng. Phép lạ này xảy ra rất đơn giản: sau cái ngày gặp ông Xtepan, anh Anixim trở lại thành phố. Anh ghé vào thăm bè bạn ở khu nhà tôi tớ của bà Varvara và kể lại rằng anh đã gặp ông Xtepan đơn độc trong làng, rằng vài dân quê thấy ông lội bộ, rằng sau đó ông rời Xpaxov đi Uktievo, lần này có chị Xofia theo bầu bạn. Vì những người tôi tớ biết rằng chủ mình đang rất lo lắng và dò hỏi mọi nơi để tìm kiếm ông bạn chạy trốn của bà, họ mới tức tốc báo cáo với chủ những gì Anixim vừa kể. Bà cho gọi anh vào và lắng nghe tự sự, đặc biệt chú tâm chi tiết ông Xtepan ngồi xe với chị Xofia làm bạn đi Uxtievo. Nghe xong bà tức tốc lên đường tới Uxtievo. Bà không biết tí gì về việc ông Xtepan đau ốm cả.
Cái giọng nghiêm nghị và kẻ cả của bà chế ngự luôn những chủ nhà. Bà chỉ dừng lại để dò hỏi, vì bà đinh ninh rằng bây giờ ông Xtepan đã ở Xpaxov lâu rồi; nhưng khi biết rằng ông chưa đi, bà xúc động mãnh liệt bước vào nhà. Chợt thấy chị Xofia bấy giờ hiện ra ở hành lang, bà Varvara hét lên:
- Này, ông ấy đâu? Cái bản mặt chai lì của chị làm cho tôi biết ngay chị là hạng đàn bà nào. Xéo đi cho khuất mắt bà, con tiện tì! Tôi muốn chị đi khỏi nhà ngay lập tức! Tôi muốn chị ta đi khỏi đây. Mây người hãy nhớ lời tôi, tôi sẽ bỏ tù chị ta suốt đời. Trong lúc đợi giải về nhà lao tỉnh, tôi muốn mấy người giữ chị ta trong một nhà khác. Còn ông chủ nhà - tôi cấm không cho ai vào lúc tôi ở trong này. Tôi là bà Varvara Xtavroghina và tôi chiếm cứ cả nhà. Chị kia, chị sẽ phải tính sổ với tôi!
Tiếng nói quen thuộc của bà Varvara làm ông Xtepan sửng sốt vô cùng. Ông run lên. Nhưng bà đã bước vào trong bức màn rồi và lấy chân khều chiếc ghế. Ngả mình xuống lưng ghế, đôi mắt bà giận tức long lên sòng sọc, bà hét Dasa:
- Ta muốn cháu ra khỏi đây một lúc. Đi đi và đợi ở phòng kia. Cái gì mà tò mò vậy? Ra đi và khép cửa lại!
Bà giữ im lặng một lúc nhìn chằm chặp vào mặt ông như thế con diều chực vồ gà con. Đột nhiên bà ném vào mặt ông những lời mỉa mai dữ dằn:
- Sao, ông mạnh giỏi chứ? Gớm, du dương quá nhỉ?
Ông thì thào vô vọng, chẳng nhận biết mình nói gì:
- Này bà, tôi đã tìm thấy đời sống đích thực của nước Nga và tôi sẽ rao giảng Phúc Âm.
Bà vặn tay kêu trời:
- Ôi, người gì có thể lì lợm và bạc bẽo như vậy? Ông làm hạ phẩm giá tôi không đủ hay sao mà còn lẹo tẹo với -
ôi, ông là tên già phóng đãng mất
nết.
- Bà này...
Tiếng ông lạc hẳn và chẳng nói được lời nào nữa, ông chỉ khiếp sợ nhìn bà.
- Chị ta là ai?
- Bà ấy là một thiên thần - đối với tôi còn hơn là một thiên thần nữa. Vì suốt cả đêm, bà ấy - ôi, bà làm ơn
đừng hét như vậy; đừng làm bà ấy kinh sợ, bà này,
bà...
Thình lình bà Varvara nhảy chồm dậy, và hét lên lanh lảnh:
- Nước! Nước!
Ông tỉnh lại, nhưng bà vẫn còn run và mặt tái nhợt khi nhìn thấy gương mặt nhăn nhó của ông. Bấy giờ bà mới nhận ra mức độ bệnh tình của ông. Bà gọi:
- Dasa!
Rồi thì thầm với nàng:
- Cho rước bác sĩ ngay tức khắc, rước Jalxfis. Cho Egorưtr đi liền. Bảo nó thuê ngựa ở đây và đánh chiếc xe
ngựa khác ở nhà trở lại đây với bác sĩ. Bảo nó là tôi muốn nó trở lại đây trước đêm
nay.
Dasa vội vã ra và thi hành những gì bà căn dặn. Ông Xtepan nhìn bà đăm đăm. Môi ông run lên. Bà bảo, cố trấn tĩnh ông như thể ông là một đứa trẻ con:
- Ông này, ông hãy đợi đã, đợi nhé, Dasa sẽ trở lại và - ối. Trời ơi! Ở, bà chủ nhà. Vào đây nào - mau lên,
trời
hỡi!
Bà nóng nảy chạy đi tìm bà chủ nhà.
- Tôi muốn chị ta trở lại đây! Chị đàn bà nọ đấy! Tôi muốn chị ta trở lại đây ngay lập tức!
May thay chị Xofia vừa mới rời khỏi nhà với chiếc va li và cái tay nải đựng Thánh kinh. Người ta nhận ra chị và đưa chị trở lại. Chị sợ điếng hồn đến nỗi chân tay run lẩy bẩy. Bà Varvara chộp lấy tay chị như con diều sốt gà con và mạnh mẽ lôi chị về phía giường ông Xtepan.
- Đây, chị ta đây - ông có chị ta đây. Ông biết đó, tôi có ăn thịt ăn thà gì chị ta đâu. Tôi biết chắc mà, ông
tưởng là tôi ăn thịt sống chị ta không
bằng!
Ông chụp bàn tay bà Varvara, áp vào mắt mình mà khóc. Ông khóc nức nở từng cơn và điên cuồng. Bà nổi điên hét lên:
- Ôi ông ơi, bình tĩnh lại, ối ông ơi. Ôi, ông là kẻ làm tan nát lòng tôi, mãi mãi là kẻ...
Sau cùng, ông Xtepan gắng gượng nói với chị Xofia.
- Bạn yêu dấu, bà làm ơn đợi ngoài kia một chút nhá? Tôi có đôi điều phải nói ở đây.
Chị Xofia vội vã ra khỏi phòng. Ông thở hào hển:
- Em yêu, mình ơi!
- Khoan đã, ông Xtepan - ông nghỉ một chút đã. Nước cho ông đây này. Nhưng khoan đã, tôi bảo mà!
Bà Varvara ngồi lại xuống ghế. Ông nắm lấy tay bà siết chặt. Bà không để cho ông nói nhiều. Ông kéo bàn tay bà lên môi mình và hôn nó. Bà cắn răng nhìn ra góc phòng.
- Anh đã yêu em!
Sau cùng ông thốt lên những lời mà bà chưa hề nghe ông nói bao giờ, và cũng chưa hề nghe ông nói với giọng như vậy nữa.
Bà “hứ...” để trả lời.
- Anh đã yêu em trọn đời, suốt hai mươi năm!
Bà vẫn lặng thinh. Đôi phút trôi qua. Thình lình bà thì thầm dọa nạt:
- Nhưng nó cũng không ngăn ông xịt nước hoa cùng mình, khi sửa soạn đến gặp Dasa..
Ông Xtepan nhìn bà cuống cuồng sợ hãi.
- Đeo cravat mới nữa...
Lại im lặng chừng hai phút.
- Và ông còn nhớ điếu xì gà hôm đó không?
Ông Xtepan nói đớt đát trong nỗi sợ sệt:
- Mình ơi!
- Điếu xì gà nọ, vào buổi tối, bên cửa sổ, trăng sáng vằng vặc - sau khi rời nhà mát, trong trại Xcvoresniki,
ông có nhớ không? Hả ông? - Bà hét lên. Bà nhỏm dậy, chụp lấy tai gối ông đang kê đầu mà lắc. - Bầy giờ ông
nhớ không, ông là người vô tích sự, thất thường, vô liêm sỉ. Luôn luôn vô trách nhiệm kinh khủng! - bà giận
dữ nói rít, gắng gượng không hét lên. Sau cùng bà buông tai gối ra, vùi mặt trong bàn tay, ngồi co trên
chiếc ghế. - Đủ rồi! - bà cắt ngang, ngồi thẳng dậy - Hai mươi năm qua rồi, không bắt lại được. Chính ta mới
điên
khùng.
- Anh đã yêu em..
Bà lại thót dậy:
- Ông còn lải nhải đã yêu, đã yêu bao lâu nữa? Như vậy đủ rồi! Và nếu ông không ngủ ngay đi, thì tôi... Ông cần
nghỉ ngơi. Tôi muốn ông ngủ ngay tức khắc. Nhắm mắt lại đi ông. Trời hỡi, có lẽ ông muốn ăn? Ông ăn được gì
nào? Ông ăn cái gì hả? Trời hỡi, chị đàn bà đâu rồi? Chị ta trốn ở đâu
hả?
Lại bắt đầu nhốn nháo, nhưng ông Xtepan thì thào ông muốn ngủ chừng một tiếng đồng hồ - rồi cháo, trà - cuối cùng, tôi rất sung sướng”. Ông duỗi thẳng người ra trông như ngủ thực (có thể ông làm bộ). Bà Varvara đợi một lúc, rồi đứng dậy và rón rén bước qua tấm màn ngăn.
Bà ở ngay trong phòng chủ nhà, đuổi những người chủ nhà ra, và bảo Dasa gọi chị đàn bà kia. Rồi cuộc thẩm vấn cứng rắn bắt đầu:
- Này chị, chị hãy kể mọi chuyện tôi nghe. Được, đến đây - ngồi xuống đi, kề tôi này.
- Cháu gặp ông Verkhovenxki...
- Khoan đã - im đi. Tôi cảnh cáo chị trước - nếu tôi thấy chị nói gạt tôi hay ngay cả chị cố giấu giếm điều gì,
tôi sẽ lôi đầu chị ra dù chị có chạy đằng trời cũng không thoát khỏi tay tôi, chừng đó chị đừng trách tôi.
Rồi sao
nữa?
Chị Xofia vừa thở hổn hển vừa nói:
- Cháu gặp ông Verkhovenxki, ngay khi cháu tới Khatovo, thưa bà...
- Khoan đã - câm mồm lại. Đừng bù lu bù loa như vậy. Bắt đầu kể chị đang làm nghề ngỗng gì, ở đâu?
Chị Xofia kể vắn tắt về đời mình, bắt đầu từ Sevastopol. Bà Varvara im lặng ngồi ngay ngắn trong chiếc ghế, lạnh lùng lắng tai nghe và nhìn chòng chọc vào mắt chị Xofiakhi chị nói.
- Chị sợ tôi hay sợ cái gì vậy? Sao chị cứ cúi gằm mặt xuống đất thế? Tôi thích người dám nhìn thẳng vào mặt
tôi, không sợ sệt đối đáp với tôi. Nào - tiếp
đi.
Chị Xofia kể lại chuyện gặp gỡ của ông Xtepan và chị, về những quyển kinh Thánh, về chuyện ông Xtepan mời người đàn bà nhà quê uống rượu...
Bà Varvara khuyến khích chị:
- Được lắm, đừng bỏ sót gì cả.
Sau cùng, chị Xofia kể ông Xtepan và chị đi xe tới đây thế nào và ông Xtepan, ngay bây giờ ốm nặng, mà cứ nói huyên thuyên ra sao, và trên đường tới đây, ông đã kể với chị “chuyện đời ông, từ lúc bé thơ bà hiểu đó, và ông cứ kể hàng giờ không ngừng nghỉ.”
- Ông kể chuyện gì về đời ông?
Mặt chị Xtepan thừ ra và thình lình chị lại lắp bắp:
- Thưa bà, cháu không thể nhắc lại được - cháu không biết sao mà kể... - Rồi chị rơm rớm nước mắt: - Dù sao, nó
cũng khó hiểu đối với
cháu.
- Chị nói láo. Chị phải hiểu cái gì chứ.
- Thưa bà, ông cứ nói tới thiếu phụ tóc nâu đẹp đẽ nào đó. Chị Xofia nói, mặt đỏ bừng khi chị nhìn mớ tóc hung
hung của bà Varvara và cho rằng bà không thể nào là người đẹp “tóc nâu” nồng nàn của ông
Xtepan.
- Tóc nâu hả? Vậy, ông thực sự kể gì với chị?
- Rằng thiếu phụ ấy, rất giàu sang danh vọng, đã si ông - tôi muốn nói ông Verkhovenxki - suốt đời, trong hai
mươi năm trường, nhưng thiếu phụ chẳng hề dám ngỏ lời bao giờ và xấu hổ nữa, bà biết chứ, vì thiếu phụ quá
béo.
Bà Varvara trầm ngâm nhưng quả quyết nói ngang:
- Ôi, đồ điên.
Chị Xofia đã khóc thực sự.
- Thưa bà, cháu không thể kể chuyện cho khôn ngoan, vì chính cháu rất sợ hãi ông và cháu không thể hiểu nổi một
nhà quí phái thông minh như
thế...
- Đần độn như chị mà phán đoán thông minh cái nỗi gì.
- Thế ông có cầu hôn với chị không?
Chị Xofia run bắn lên.
Bà Varvara lên giọng:
- Ông có si tình chị không? Nói đi! Ông có xin cưới chị không?
Chị Xofia quả quyết nhìn vào mặt bà Varvara và nói:
- Vâng, thưa bà, ông gần như vậy - nhưng cháu không coi đó là hệ trọng. Thưa bà, chỉ vì ông đang bệnh.
- Chị tên gì?
- Thưa bà, Xofia.
- Này chị Xofia, tôi báo cho chị biết, ông ta là người đê tiện, vô trách nhiệm nhất trên đời này. Trời thần ơi!
Chắc chị cho rằng tôi là con quái
vật.
Chị Xofia trố mắt nhìn bà Varvara.
- Ừ, một con quái vật và một người độc đoán đã đầu độc đời ông, đúng không?
- Thưa bà, làm sao cháu dám, vì chính bà cũng đang khóc?
Thật vậy, bà Varvara nước mắt lưng tròng.
- Được lắm, được, ngồi xuống đây và đừng sợ. Chị hãy nhìn vào mắt tôi một lần nữa. Chị này, sao chị lại đỏ mặt
hả? Dasa - vào đây mà nhìn chị này này. Dasa, hãy nói cho dì biết, cháu có cho rằng chị này có tấm lòng tinh
khiết
không?
Và trước sự ngạc nhiên (có lẽ kinh hoàng của chị Xofia), bà Varvara thình lình tát yêu vào má chị.
- Khờ khạo như chị thật đáng thương. Lớn đầu mà còn dại. Thôi bỏ qua đi. Tôi sẽ chăm lo cho chị. Tôi thấy những
chuyện này là vớ vẩn. Bây giờ chị có thể tạm sống ở cạnh đây và tôi bao cho tất cả - cơm ăn nữa - và đợi đây
cho đến khi tôi cho người tới
đón.
Chị Xofia rụt rè ấp úng là chị phải vội đi đâu đó.
Chị chẳng vội đi đâu cả? Tôi sẽ mua hết tất cả sách của chị, vậy chị cứ ở lại đây và nghỉ ngơi. Đừng nói năng lôi thôi nữa. Chị biết nếu tôi không tới đây thì dù sao chị cũng không bỏ ông, phải vậy không?
Chị Xofia nói nhỏ nhẹ nhưng chắc nịch và lau nước mắt:
- Cháu không bao giờ bỏ ông, cho dù vì bất cứ cái gì trên đời này.
Bác sĩ Jalxfis mãi nửa đêm mới tới. Ông ta dáng người nhỏ thó, đã già, rất khả kính và là bác sĩ nhiều kinh nghiệm trong nghề. Gần đây ông bỏ nhiệm sở của nhà nước vì cảm thấy thượng cấp ngăn cản ước vọng của mình. Tức thì bà Varvara bảo bọc ông ngay. Ông kĩ lưỡng khám bệnh cho ông Xtepan và hỏi bệnh nhân nhiều điều. Rồi ông thận trọng bảo cho bà Varvara biết rằng “tình trạng con bệnh nguy ngập vì hậu quả của biến chứng” và rằng bà phải sẵn sàng đón chờ mọi chuyện “luôn cả trường hợp tệ lậu nhất”. Bà Varvara, trong hai mươi năm không hề nghĩ ngợi tới điều gì hệ trọng hay dứt khoát có thể dính dáng với ông Xtepan Verkhovenxki, bây giờ cảm thấy choáng váng và mặt mày thất sắc.
- Bộ không chút hi vọng nào sao?
- Thưa bà, tôi không nói là không có hi vọng, tuy nhiên...
Đêm đó bà không đi ngủ, chỉ ngồi và đợi sáng. Ngay khi bệnh nhân vừa mở mắt - cho tới bây giờ ông vẫn tỉnh táo không hôn mê, dù rằng mỗi giờ ông mỗi trở nên suy yếu hơn lúc trước - bà nói ngay với một giọng quyết định nhất từ trước tới nay:
- Anh Xtepan, phải tiên liệu mọi việc mới được. Tôi đã cho rước linh mục. Anh phải làm tròn bổn phận mình.
Biết được niềm tin vô thần của ông, bà rất e sợ ông sẽ chối từ. Ông kinh ngạc vô cùng nhìn bà. Bà tưởng ông có ý từ chối mới la lên:
- Vớ vẩn! Vớ vẩn! Không phải trò đùa đâu. Chúng ta đã khùng bấy lâu nay đủ rồi!
- Nhưng... chẳng lẽ tôi bệnh trọng đến thế sao?
Ông lơ đãng ưng chịu. Nói chung, khi sau này bà Varvara kể lại làm tôi kinh ngạc, thì ông Xtepan cho đến phút cuối cùng cũng không sợ chết. Có lẽ ông không tin rằng mình chết và tưởng chừng cơn đau yếu của mình chỉ là qua loa. Ông xưng tội và chịu phép xức dầu thánh rất mau mắn. Mọi người, kể cả chị Xofia và những tôi tớ, đều vào chúc phúc bên giường ông khi ông chịu phép xức dầu. Tất cả cố cầm nước mắt khi nhìn gương mặt gầy, hốc hác, tái mét và đôi môi co giật của ông.
- Thưa quí bạn, tôi chỉ ngạc nhiên cho quí bạn phải quá bận bịu như vậy vì tôi. Chắc chắn mai này tôi sẽ ngồi
dậy và chúng tôi sẽ lên đường... Tất cả buổi lễ này mà tôi, dĩ nhiên, tỏ hết lòng thành kính, chỉ
là...
Bà Varvara ngăn vị linh mục lại, khi ông định cởi áo tế:
- Thưa cha, con xin cha ở lại với bệnh nhân. Khi họ bưng trà vào, con mong sao cha dạy bảo những vấn đề về
Thiên Chúa, để nâng đỡ đức tin của bệnh
nhân.
Trong lúc vị linh mục nói, mọi người ngồi hay đứng quanh giường bệnh nhân. Vị linh mục cầm tách trà cất tiếng nói trơn tru:
- Trong thời đại tội lỗi đầy rẫy này, đức tin vào Đấng Tối cao là chỗ trú ẩn duy nhất cho loài người giữa những
thăng trầm và khổ nhọc của cuộc sống, cũng như nó là niềm hi vọng duy nhất về hạnh phúc vĩnh cửu hứa hẹn cho
những người thiện
tâm...
Đột nhiên ông Xtepan sực hồi tỉnh và khẽ mỉm cười:
- Thưa cha, con xin cảm tạ cha, cha rất tốt, nhưng...
Bà Varvara nhỏm dậy và kêu lên:
- Chẳng có nhưng nhị gì cả. Ôi, thưa cha, ông ta là hạng người... hạng người - mà cha phải làm lại tất cả mọi
sự chỉ trong một tiếng đồng hồ, xưng tội và đủ thứ... Ông ta là hạng người như vậy
đó.
Ông Xtepan cố giấu nụ cười.
- Thưa quí bạn, nguyên sự kiện Ngài là người duy nhất có thể thương yêu vĩnh viễn cũng đủ khiến tôi cần Chúa.
Không biết ông đã thực sự tìm thấy đức tin hay nghi lễ long trọng của phép xức dầu gây xúc động trong ông và đánh thức bản tính nghệ sĩ của ông, mà ông phát ngôn chắc nịch và với sự xác tín vĩ đại, tôi nghe nói lại như vậy, cả một số điều trái ngược hẳn với niềm tin xưa của ông.
- Sự bất tử của tôi đã là cần thiết chỉ vì Chúa không muốn làm điều gì bất công và dập tắt ngọn lửa yêu thương
một lần nhen nhóm trong tim tôi. Và còn cái gì quí giá hơn là tình yêu? Tình yêu cao cả hơn sự sống - tình
yêu là tột đỉnh của sự sống, vậy sự sống sao lại không lệ thuộc vào tình yêu cho được? Bởi lẽ tôi bắt đầu
yêu Ngài và tràn ngập hạnh phúc vì tình yêu này, sao Ngài lại có thể dập tắt tôi và hạnh phúc của tôi mà
biến tôi thành con số không? Nếu Chúa hiện hữu, vậy tôi, tôi cũng bất tử. Đó là biểu tượng tín ngưỡng của
tôi.
Bà Varvara van nài:
- Có Chúa thật - tin tôi đi, anh Xtepan, tôi biết mà. Riêng một lần này, xin anh hãy bỏ những trò ngông cuồng
của anh
đi.
Bà dường như chẳng hoàn toàn hiểu hết về biểu tượng “tín ngưỡng” của ông.
Ông lại tiếp, càng lúc càng hăng say:
- Bà này, từ lúc tôi... hiểu rằng, bà biết không, về sự đưa má bên kia, tôi - ờ, đồng thời tôi hiểu được một
điều khác hơn... Tôi đã dối trá trọn đời, vâng, trọn đời tôi! Và tôi muốn... Nhưng, tôi chắc chắn mai đây ta
sẽ lên
đường.
Bà Varvara khóc. Mắt ông Xtepan đảo quanh như tìm kiếm ai. Bà chộp tay chị Xofia và lôi chị tới giường.
- Chị ta ở đây, ở đây này.
Ông cười hoan lạc. Ông kêu lên với nghị lực tràn đầy:
- Ôi, tôi ước gì sống lại cuộc đời của tôi! Mỗi phứt mỗi giây của đời sống phải là hạnh phúc - vâng phải vậy!
Vâng, bổn phận của con người chính là nhìn thấy được hạnh phúc. Điều này là luật lệ - luật ngầm, nhưng thực
sự. Ôi, tôi muốn gặp Piot’r con tôi... và tất cả... và Satov
nữa!
Tưởng tôi cũng nên lưu ý nơi đây, không một ai trong họ, kể cả Dasa, em gái Satov, hay bà Varvara, cả luôn bác sĩ Jalxfis, người ở thành phố tới sau cùng, biết số phận Satov ra sao.
Ông Xtepan xúc động mỗi lúc một thêm mãnh liệt, điều này làm tàn lực ông càng thêm suy giảm.
- Chỉ nguyên sự nhận thức vững bền rằng có một cái gì vô cùng công chính và hạnh phúc hơn tôi, cũng đủ làm tôi tràn đầy niềm vui và hãnh diện vô biên, dù cho tôi là ai và dù cho tôi đã làm những gì! Hơn là cần hạnh phúc cho riêng mình, con người rất cần biết và tin vào mọi giây phút trong đời, rằng ở đâu đó có một hạnh phúc tuyệt đối và bảo đảm cho mọi người, kể luôn cả chính mình. Toàn bộ qui luật của sự tồn tại nhân loại là để sao cho con người luôn luôn có một cái gì lớn lao vô biên để tôn thờ. Nếu bị tước đoạt cái lớn lao vô biên này, con người sẽ không còn muốn sống và sẽ chết trong tuyệt vọng. Cái vô cùng và vô biên cũng cần cho con người chẳng khác nào cái hành tinh tí teo trên đó con người sống... A, các bạn ơi, hoan hô Tư tưởng Vĩ đại, Tư tưởng vĩnh cửu, vô biên! Mọi người, dù là ai, cũng cần phải cúi đầu trước sự kiện là Tư tưởng Vĩ đại hiện hữu. Dù kẻ ngu si nhất cũng cần một cái gì to tát. Piot’r - ồ, tôi muốn gặp lại tất cả họ biết chừng nào! Họ không biết rằng Tư tưởng Vĩ đại vĩnh cửu cũng ở trong họ nữa!
Bác sĩ Jalxfis, nãy giờ ra ngoài, bước vào đúng lúc này, ông hoảng kinh lên. Ông giải tán buổi họp, bảo mọi người ra ngoài và khẩn khoản không nên để bệnh nhân quá xúc động.
Ba hôm sau, ông Xtepan Verkhovenxki mất, trong tình trạng hoàn toàn hôn mê. Ông ra đi âm thầm như cây nến lụn bấc. Bà Varvara cho hát cầu hồn, và kế đến bà cho đưa xác người bạn đáng thương về dinh cơ Xcvoresniki. Ông được chôn trong nghĩa địa ở đó, và một phiến cẩm thạch dựng lên đánh dấu mộ ông. Bia và hàng rào sẽ làm vào mùa xuân tới.
Cuộc hành trình của bà Varvara tới Uxtievo kéo dài đã tám ngày. Bà trở lại thành phố, có chị Xofia ngồi bên trong xe với bà, và dường như chị ở lại với bà vô hạn định. Tôi phải lưu ý nơi đây, khi ông Xtepan sau cùng mê man - việc xảy ra ngay buổi sáng hồm đó - bà Varvara tức tốc cho đưa chị Xofia ra khỏi nhà và đích thân lo việc săn sóc ông cho đến phút lâm chung. Nhưng bà cho gọi chị ngay khi ông thở hơi cuối cùng. Và bà không muốn nghe bất cứ lời phản đối nào của chị Xofia; chị ta rất hoảng hốt trước sự đề nghị - hay đúng hơn là một mệnh lệnh - của bà Varvara mời chị đến định cư ở dinh cơ Xcvoresniki mãi mãi.
- Vớ vẩn không! Chính tôi sẽ đi khắp nơi với chị để rao bán kinh Phúc Âm. Bây giờ tôi chẳng còn một ai ở trên
đời
này.
Bác sĩ Jalxfis nhận xét:
- Nhưng bà còn cậu con trai.
- Tôi không có đứa con nào cả!
Bà Varvara nói một cách đanh thép. Và câu này dường như là một lời tiên tri.