Nghệ Thuật Tinh Tế Của Việc Đếch Quan Tâm - Chương 09

Chương 9

… Và Rồi Bạn Chết

“HÃY TỰ mình tìm kiếm sự thật, và tôi sẽ gặp bạn ở đó.”

Đó là điều cuối cùng mà Josh nói với tôi. Anh nói thế một cách đầy mỉa mai, cố gắng ra vẻ sâu sắc trong khi đồng thời chế nhạo những kẻ lúc nào cũng cố tỏ ra nguy hiểm. Lúc ấy anh say rượu và phê thuốc. Và anh là một người anh em tốt của tôi.

Thời khắc biến đổi sâu sắc nhất trong cuộc đời tôi diễn ra khi tôi mười chín tuổi. Bạn tôi, Josh, dẫn tôi tới một bữa tiệc bên hồ nằm ngay ngoại ô phía bắc của thành phố Dallas, Texas. Nơi đó có những ngôi nhà cao cấp nằm trên một ngọn đồi và bên dưới ngọn đồi là một cái bể bơi, và bên dưới bể bơi là một vách đá nhìn xuống một cái hồ. Đó là một vách đá nhỏ, có lẽ cao chừng mười mét – chắc cũng đủ cao để khiến bạn suy nghĩ lại nếu như có ý định nhảy xuống, nhưng cũng đủ thấp để sự kết hợp của chất cồn và lời thách đố của bạn bè khiến cho cái ý nghĩ ấy tan đi nhanh chóng.

Ngay sau khi tới bữa tiệc, Josh và tôi cùng ngồi bên bể bơi, uống bia và nói chuyện với nhau như những thằng con trai trẻ tuổi lạc lõng vẫn thường làm. Chúng tôi hàn huyên về việc uống rượu và các ban nhạc và bọn con gái và toàn bộ mấy chuyện hay ho mà Josh làm vào hè rồi kể từ khi bỏ học ở trường nhạc. Chúng tôi nói về việc cùng nhau chơi trong một ban nhạc và chuyển tới thành phố New York – một giấc mơ bất khả thi vào thời điểm đó.

Chúng tôi khi ấy chỉ là những đứa trẻ.

“Nhảy từ trên này xuống có sao không nhỉ?” tôi hỏi sau một lúc im lặng, hất đầu về phía mỏm đá nằm ngay trên mặt hồ.

“Ừ,” Josh trả lời, “chúng nó vẫn làm thế suốt.”

“Anh có chơi không?”

Anh nhún vai. “Có thể. Để xem đã.”

Một lúc sau, Josh và tôi tách ra. Tôi bị hấp dẫn bởi một cô nàng châu Á xinh xắn thích trò chơi điện tử, mà với tôi, một đứa xì tin lập dị, thì na ná như là được trúng vé số vậy. Con bé chả có hứng thú gì với tôi sất, nhưng cô nàng cũng khá là thân thiện và vui vẻ trò chuyện với tôi, nên tôi cứ nói thôi. Sau vài cuốc bia, tôi gom đủ dũng khí để rủ nàng lên nhà trên lấy thức ăn với tôi. Cô nàng đồng ý.

Khi chúng tôi bò lên đồi, tôi va vào người Josh khi ấy đang trở xuống. Tôi hỏi anh có muốn ăn gì không, nhưng anh từ chối. Tôi hỏi anh tí nữa tôi tìm anh ở đâu. Anh mỉm cười và nói, “Hãy tự mình tìm kiếm sự thật, và tôi sẽ gặp cậu ở đó!”

Tôi gật đầu và làm mặt nghiêm chỉnh. “OK, em sẽ tìm anh ở đó,” tôi trả lời, cứ như thể ai cũng biết chính xác sự thật là gì và làm thế nào để có được nó.

Josh bật cười và đi bộ xuống đồi về phía mỏm đá. Tôi cũng cười và tiếp tục leo lên đồi về phía ngôi nhà.

Tôi không còn nhớ mình ở trong nhà bao lâu nữa. Tôi chỉ còn nhớ được rằng khi cô gái kia và tôi quay trở ra, mọi người đều đã giải tán và có tiếng còi xe cấp cứu. Bể bơi vắng tanh. Mọi người đang chạy xuống dưới đồi về phía bờ hồ bên dưới mỏm đá. Có những người đã ở dưới nước. Tôi có thể thấy vài gã đang bơi vòng quanh. Trời tối lắm và khó mà nhìn thấy được gì. Tiếng nhạc cứ vang đều đều, nhưng chẳng ai nghe cả.

Vẫn chưa thể làm nổi phép tính hai cộng hai, tôi vội vã chạy về phía bờ hồ, gặm mẩu bánh mì trong tay, tò mò việc mọi người đang tìm kiếm điều gì ở đó. Đi được nửa đường, cô nàng châu Á xinh đẹp nói với tôi, “Tớ nghĩ là có chuyện gì khiếp lắm xảy ra rồi.”

Khi tôi xuống được tới chân đồi, tôi hỏi ai đó rằng Josh đâu. Không ai nhìn tôi hay nhận ra tôi hết. Mọi người đều nhìn chăm chú vào mặt nước. Tôi hỏi lại lần nữa, và cô gái kia bắt đầu khóc lóc không ngừng.

Đấy là khi tôi cộng được hai và hai lại với nhau.

Các thợ lặn chuyên nghiệp phải mất tới ba giờ đồng hồ mới tìm được thi thể của Josh ở dưới đáy hồ. Pháp y sau đó kết luận rằng chân của anh bị chuột rút do mất nước vì rượu gây ra, cùng với tác động của việc nhảy từ trên vách đá xuống. Khi anh nhảy xuống trời quá tối, và mặt nước trong đêm, phủ một màu đen kịt. Không một ai có thể nhìn thấy anh kêu cứu từ nơi nào. Chỉ có tiếng đập nước. Chỉ có tiếng động mà thôi. Sau này cha mẹ anh nói với tôi rằng anh bơi rất kém. Tôi chẳng biết phải nói gì.

Đến mười hai tiếng sau đó tôi mới khóc được. Tôi khóc trên ô tô, trên đường về nhà ở Austin vào sáng ngày hôm sau. Tôi gọi ba và bảo với ông rằng tôi vẫn còn ở gần Dallas và tôi sẽ không có mặt kịp giờ làm việc. (Tôi làm việc cho ba mùa hè đó.) Ông hỏi, “Tại sao; có chuyện gì à? Mọi thứ có ổn không thế con?” Và đó là khi mọi thứ cứ tuôn ra: nước mắt tuôn như mưa. Rên rĩ và gào thét và xì mũi. Tôi đậu xe lại bên lề đường và ôm lấy cái điện thoại và khóc lóc như một thằng nhóc vẫn thường khóc trước mặt ba nó.

Mùa hè năm ấy tôi rơi vào trầm cảm nghiêm trọng. Tôi nghĩ là tôi đã bị trầm cảm từ trước, nhưng giờ đây là cả một mức độ mới của cảm giác vô nghĩa – nỗi buồn sâu sắc đến nỗi tôi cảm thấy đau đớn cả về thể xác. Mọi người ghé qua và cố làm tôi vui lên, và tôi sẽ ngồi đó và nghe họ nói về tất cả những điều đúng đắn và làm tất cả những việc đúng đắn; và tôi sẽ bảo với họ rằng xin cảm ơn và họ mới thật tử tế làm sao vì đã ghé qua, và tôi sẽ cố nặn ra một nụ cười và nói dối rằng tôi thấy khá hơn rồi, dù thực ra tôi chẳng cảm thấy gì hết cả.

Suốt vài tháng sau đó tôi vẫn mơ về Josh. Những giấc mơ về việc anh và tôi có những cuộc nói chuyện khó quên về sự sống và cái chết, cũng như về những điều ngẫu nhiên, vô nghĩa. Cho tới thời điểm ấy của cuộc đời tôi, tôi vẫn luôn là thằng ken thuộc tầng lớp trung lưu điển hình: lười biếng, vô trách nhiệm, sợ xã hội, và vô cùng tự ti. Josh, theo nhiều cách, là mẫu người mà tôi luôn hướng đến. Anh lớn tuổi hơn, tự tin hơn, có nhiều kinh nghiệm hơn, và được chấp nhận cũng như cởi mở hơn đối với thế giới quanh mình. Ở một trong những giấc mơ cuối cùng của tôi về Josh, tôi ngồi trong bể tắm mát-xa với anh (ừa, tôi biết chuyện này nghe kỳ lắm mà), và tôi nói điều gì đó kiểu như, “Em rất tiếc vì anh đã chết.” Anh bật cười. Tôi không nhớ chính xác lời anh nói, nhưng anh trả lời đại loại rằng, “Tại sao cậu lại quan tâm tới chuyện anh đã chết khi mà cậu vẫn sợ phải sống thế?” Tôi tỉnh giấc và rơi nước mắt.

Mùa hè ấy tôi ngồi trên chiếc đi-văng nhà mẹ, nhìn chằm chằm vào cái gọi là vực thẳm, nhìn thấy sự bất tận và hư vô không tài nào hiểu nổi nơi mà tình bạn của Josh từng ngự trị, khi mà tôi cuối cùng cũng nhận ra rằng nếu như thực sự không có lý do nào để làm bất cứ việc gì, thì cũng chẳng có lý do gì để không làm việc gì hết; rằng khi đối mặt với cái chết không thể tránh khỏi, thì chẳng có lý do gì để chùn bước trước nỗi sợ hãi hay xấu hổ hay nhục nhã của một con người, bởi vì rốt cuộc đó cũng chỉ là những điều vô nghĩa mà thôi; và rằng thông qua việc dành phần lớn quãng đời ngắn ngủi của tôi vào việc lảng tránh nỗi đau và lo lắng, tôi về cơ bản đã trốn tránh việc thực sự sống cuộc đời này.

Mùa hè năm ấy, tôi từ bỏ cần sa và thuốc lá và mấy trò chơi điện tử. Tôi từ bỏ giấc mơ về ngôi sao nhạc rock và từ bỏ trường nhạc và ghi danh vào một chương trình đại học. Tôi bắt đầu đi tập gym và giảm được nhiều cân. Tôi kết thân với những người bạn mới. Tôi có cô bạn gái đầu tiên. Lần đầu tiên trong đời tôi thật sự học hành nghiêm túc, khiến tôi nhận ra rằng tôi thực sự có thể đạt được thành tích tốt nếu mà tôi chịu khó. Mùa hè tiếp theo, tôi thử thách bản thân mình bằng việc đọc năm mươi cuốn sách trong vòng năm mươi ngày, và tôi đã làm được. Năm tiếp theo nữa, tôi chuyển tới một trường đại học nổi tiếng ở phía đầu bên kia đất nước, nơi tôi đạt hạng xuất sắc lần đầu tiên trong đời, cả về điểm số lẫn hoạt động xã hội.

Cái chết của Josh đánh dấu thời điểm rõ ràng nhất trước/sau khi tôi có thể xác định được cuộc đời mình. Trước tấn thảm kịch, tôi rụt rè, không tham vọng, mãi mãi ám ảnh và bị giới hạn bởi những điều tôi tưởng tượng ra về việc thế gian này nghĩ gì về tôi. Sau cái bi kịch ấy, tôi biến đổi thành một con người mới: có trách nhiệm, ham hiểu biết, chăm chỉ. Vẫn còn đó trong tôi những bất an và gánh nặng tư tưởng – như chúng ta vẫn luôn vậy – nhưng giờ đây tôi bận tâm tới những điều quan trọng hơn so với những nỗi bất an và gánh nặng trong lòng. Và điều ấy tạo nên một sự khác biệt hoàn toàn. Lạ thay, cái chết của một người khác cuối cùng lại mang đến cho tôi tờ giấy phép để thật sự sống. Và có lẽ thời khắc tồi tệ nhất trong cuộc đời tôi cũng chính là thời khắc mang tính bước ngoặt nhất.

Cái chết làm chúng ta sợ hãi. Và bởi vì cái chết khiến ta sợ hãi, chúng ta thường tránh phải suy nghĩ về nó, nói về nó, và đôi khi ngay cả nhận thức nó, ngay cả khi mà nó xảy đến với những người thân của mình.

Vâng, thật kỳ lạ, theo chiều ngược lại, cái chết là ánh sáng mà tại nơi đó chiếc bóng của toàn bộ ý nghĩa cuộc đời được cân đong. Nếu không có cái chết, tất cả mọi thứ đều có vẻ như thật tầm thường, mọi trải nghiệm đều thế nào cũng được, mọi thước đo và giá trị đều chỉ là con số không tròn trĩnh.

Những Điều Nằm Ngoài Bản Thân Chúng Ta

Ernest Becker(82) là một học giả bị xã hội ruồng bỏ. Vào năm 1960, ông nhận bằng tiến sĩ chuyên ngành nhân loại học; luận án tiến sĩ của ông so sánh sự khác biệt và khác thường giữa việc hành thiền trong Phật giáo với việc chữa bệnh bằng phân tâm học. Ở thời điểm đó, Thiền được nhìn nhận như là thứ chỉ dành cho giới hippie và những kẻ nghiện ma tuý, và học thuyết phân tâm học Freud được xem là một hình thức lang băm trong tâm lý học còn sót lại từ Thời kỳ Đồ đá.

Trong công việc đầu tiên của ông với tư cách là giáo sư trợ giảng, Becker nhanh chóng gia nhập vào đội ngũ lên án việc thực hành tâm thần học như một hình thức chủ nghĩa phát xít. Họ nhìn nhận việc thực hành này như là một hình thức áp bức phản khoa học chống lại những người yếu đuối và không được bảo vệ.

Vấn đề nằm ở chỗ sếp của Becker là một chuyên gia tâm thần học. Nên chuyện này giống như là bạn bước chân vào công việc đầu tiên trong đời và mạnh bạo ví sếp mình như là Hitler ấy.

Và bạn cũng có thể hình dung ra rồi đấy, ông bị đuổi việc.

Vậy nên Becker bưng những tư tưởng cấp tiến của mình tới nơi mà chúng có thể được chấp nhận: Berkeley, California. Nhưng cả ở đây nữa, ông cũng chẳng trụ được bao lâu.

Bởi không chỉ vì khuynh hướng chống đối tổ chức mới khiến Becker gặp rắc rối; mà còn bởi phương thức dạy học lạ lùng của ông nữa. Ông sẽ sử dụng các tác phẩm của Shakespeare để giảng dạy về tâm lý học, dùng giáo trình môn tâm lý học để giảng về nhân loại học, và các số liệu nhân loại học để giảng về xã hội học. Ông lên lớp với bộ trang phục của Vua Lear(83) và trình diễn mấy pha đấu kiếm và dông dài về mấy chủ đề chính trị chẳng liên quan gì mấy tới giáo án cả. Bọn sinh viên mê tít ông. Những người khác trong trường thì căm ghét ông. Chưa đầy một năm sau, ông lại bị sa thải.

Becker sau đó đặt chân đến sân trường đại học San Francisco State University, nơi ông thực sự giữ được công việc của mình lâu hơn một năm. Nhưng khi cuộc biểu tình phản đối Chiến tranh Việt Nam nổ ra trong giới sinh viên, ban giám hiệu nhà trường cầu cứu tới Vệ binh quốc gia và sự việc trở nên mang hơi hướng bạo lực. Khi mà Becker chọn đứng về phía sinh viên và công khai chỉ trích các hành động của vị chủ nhiệm khoa (lại nữa, sếp của ông lại bị so sánh với Hitler và mọi thứ), thì ông, một lần nữa, bị sa thải ngay lập tức.

Becker thay đổi công việc bốn lần trong vòng sáu năm. Và trước khi ông bị sa thải lần thứ năm, thì ông bị ung thư đại tràng. Chuẩn đoán rất đáng lo ngại. Ông dành vài năm tiếp theo nằm trên giường bệnh và chẳng có mấy hi vọng sống sót. Vì vậy, Becker quyết định viết một cuốn sách. Cuốn sách về đề tài cái chết.

Becker mất vào năm 1974. Cuốn sách The Denial of Death (tạm dịch: Sự phủ nhận cái chết) của ông, giành giải thưởng Pulitzer và trở thành một trong những công trình tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ hai mươi, làm thay đổi lĩnh vực tâm lý học và nhân loại học, đồng thời đưa ra những quan điểm triết học sâu sắc mà vẫn còn mang tầm ảnh hưởng cho tới tận ngày nay.

The Denial of Death về cơ bản đưa ra hai quan điểm:

Con người là độc nhất vô nhị ở chỗ chúng ta là loài động vật duy nhất có khả năng tưởng tượng và tư duy về bản thân một cách trừu tượng. Lũ chó không ngồi một chỗ và lo lắng về sự nghiệp của chúng. Loài mèo không nghĩ về những sai lầm của chúng trong quá khứ và tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu chúng hành động theo cách khác. Loài khỉ không tranh cãi về những triển vọng trong tương lai, cũng giống như loài cá không ở một chỗ mà băn khoăn liệu con cá khác có còn mê nó nữa không nếu như vây của nó dài ra.

Là con người, chúng ta được ban phước với cái khả năng hình dung ra bản thân mình trong những tình huống mang tính giả thuyết, suy ngẫm cả về quá khứ lẫn tương lai, tưởng tượng ra những thực tại và tình huống khác mà ở đó sự việc có thể sẽ khác đi. Và Becker cho rằng, bởi vì cái khả năng trí tuệ độc đáo này, tất cả chúng ta, ở một điểm nào đó, nhận thức được sự không thể tránh khỏi của cái chết của chính chúng ta. Bởi vì ta có thể mường tượng ra những phiên bản khác nhau của thực tại, chúng ta cũng là loài động vật duy nhất có khả năng hình dung ra một thực tại mà không có sự hiện diện của ta trong đó.

Sự nhận thức này gây ra cái mà Becker gọi là “nỗi sợ cái chết,” một nỗi lo lắng sâu sắc ẩn dưới mọi điều mà ta nghĩ hay làm.

Quan điểm thứ hai của Becker bắt đầu với giả thuyết rằng về cơ bản chúng ta có hai “bản thân.” Cái tôi thứ nhất là cái tôi thể xác – thực hiện những việc như ăn, ngủ, ngáy, và đi đồng. Cái tôi thứ hai là cái tôi ý thức – bản ngã của chúng ta, hay việc chúng ta nhìn nhận bản thân mình ra sao.

Becker biện luận rằng: Tất cả chúng ta đều nhận thức được ở một mức độ nào đó rằng thân xác của ta cuối cùng rồi sẽ chết, rằng cái chết là không thể tránh khỏi, và rằng tính chất không thể tránh khỏi của nó – ở mức độ tiềm thức – khiến cho ta sợ vãi cứt. Do đó, nhằm cân bằng tâm lý về cái sự mất mát không thể tránh được này của thân xác ta, ta cố gắng xây dựng nên một cái tôi ý thức sẽ sống mãi. Đó là lý do vì sao mà con người ta miệt mài cố gắng trong việc gắn tên của họ vào các toà nhà, trên các bức tượng, trên gáy của các cuốn sách. Đó là lý do vì sao mà ta lại buộc mình phải dành nhiều thời gian của bản thân ở bên những người khác, đặc biệt là lũ trẻ, với hi vọng rằng sự ảnh hưởng của ta – cái tôi ý thức ấy – sẽ còn trường tồn so với cái tôi thể xác của ta. Rằng chúng ta sẽ được nhớ tới và được tôn kính và được ngưỡng mộ mãi mãi về sau khi mà thân xác ta không còn tồn tại nữa.

Becker đặt tên cho cái nỗ lực này là “những dự án bất tử,” những dự án cho phép cái tôi ý thức của chúng ta sống qua cả thời điểm mà cái tôi thể xác của ta chết đi. Toàn bộ nền văn minh nhân loại, ông nói, về cơ bản là kết quả của những dự án bất tử: các thành phố và các chính phủ và các cơ cấu và các chính quyền hiện nay đều là những dự án bất tử của những người đàn ông và những người đàn bà đi trước chúng ta. Những cái tên như Jesus, Muhammad, Napoleon, và Shakespeare vẫn có sức mạnh ở hiện tại giống như thời kì mà họ còn sống, nếu không muốn nói là còn lừng lẫy hơn. Và đó là toàn bộ quan điểm. Cho dù là thông qua một kiệt tác nghệ thuật, khai phá một vùng đất mới, trở nên vô cùng giàu có, hay chỉ đơn giản là có được một gia đình lớn và yêu thương nhau sẽ được duy trì trong nhiều thế hệ, toàn bộ ý nghĩa của cuộc đời chúng ta được định hình bởi cái khao khát bẩm sinh rằng không bao giờ thực sự chết đi.

Tôn giáo, chính trị, thể thao, nghệ thuật và tiến bộ khoa học đều là kết quả của những dự án bất tử của con người. Becker cho rằng chiến tranh và cách mạng và nạn diệt chủng xảy ra khi mà dự án bất tử của một nhóm người này va chạm với dự án bất tử của một nhóm người khác. Nhiều thế kỷ đàn áp và sự đổ máu của hàng triệu người được dùng để biện minh cho sự bảo vệ dự án bất tử của một nhóm người trước nhóm khác.

Nhưng, khi mà những dự án bất tử của chúng ta thất bại, khi mà ý nghĩa của chúng bị mất đi, khi mà viễn cảnh về cái tôi ý thức sống lâu hơn cái tôi thể xác của ta không còn khả thi nữa, nỗi khiếp sợ cái chết – mối lo khủng khiếp, tuyệt vọng ấy – quay trở lại tâm trí ta. Tổn thương có thể gây ra điều này, cũng như là nỗi tủi hổ và sự chế nhạo của xã hội. Và cũng có thể là bởi, như Becker chỉ ra, bệnh tâm thần.

Nếu như mà bạn còn chưa luận ra được, thì các dự án bất tử của chúng ta chính là hệ chân giá trị của ta đó. Chúng là cái phong vũ biểu cho việc cuộc đời ta có ý nghĩa như thế nào và đáng giá ra sao. Và khi mà hệ giá trị của chúng ta sụp đổ, thì chúng ta cũng vậy, đấy là nói theo quan điểm của tâm lý học. Điều mà Becker muốn nói, tóm lại, là chúng ta đều bị chi phối bởi nỗi sợ hãi nên mới quá bận tâm tới một điều gì đó, bởi vì việc quan tâm tới một điều gì đó là cách duy nhất giúp ta sao nhãng khỏi thực tại và cái chết không thể tránh khỏi của ta. Và việc thực sự đếch thèm quan tâm tới bất cứ điều gì chính là sự đạt tới trạng trái tâm linh của việc chấp nhận tính hữu hạn trong sự tồn tại của mỗi chúng ta. Ở trạng thái đó, một người sẽ không dễ rơi vào những dạng thức khác nhau của việc tự cho mình đặc quyền.

Becker sau đó đi tới một nhận thức gây sửng sốt khi đã sắp gần đất xa trời: rằng những dự án bất tử của con người thật sự là vấn đề, chứ không phải giải pháp; rằng thay vì cố gắng thi hành, thường là thông qua những lực lượng chết người, cái tôi ý thức của mình trên toàn thế giới, con người ta nên tự vấn về cái tôi ý thức của họ và bình thản hơn với thực tế về cái chết của mình. Becker gọi đó là “liều thuốc đắng,” và vật vã với việc tự thuyết phục bản thân trước cái ý niệm ấy trong khi ông đối diện với cái chết của chính mình. Dù cho chết có là một điều tồi tệ đi chăng nữa, thì nó là điều không thể tránh khỏi. Do đó, chúng ta không cần phải lảng tránh sự nhận thức này, thay vì thế ta hãy chấp nhận nó hết mức có thể. Bởi vì một khi chúng ta cảm thấy thoải mái với cái sự thực về cái chết của ta – nỗi khiếp sợ sâu xa, sự lo lắng nằm ẩn sâu bên dưới động cơ của mọi tham vọng phù phiếm trong cuộc đời – rồi ta sẽ có thể lựa chọn các giá trị của mình một cách tự do hơn, không bị cản trở bởi cuộc truy tìm phi lý cho sự bất tử, và giải thoát cho ta khỏi những quan điểm võ đoán đầy nguy hiểm.

Mặt tích Cực Của Cái Chết

Tôi bước lên hết hòn đá này tới hòn đá khác, leo lên từ từ, các bắp cơ nơi chân tôi căng ra và đau nhức. Trong trạng thái như bị thôi miên đến từ sự gắng sức chậm chạp, lặp đi lặp lại của cơ thể ấy, tôi đã gần leo tới đỉnh. Bầu trời rộng lớn và sâu thẳm. Lúc này tôi chỉ có một mình. Các bạn tôi còn ở xa bên dưới, bận rộn chụp lại cảnh biển.

Cuối cùng, tôi trèo qua một tảng đá nhỏ và khung cảnh mở ra trước mắt tôi. Tôi có thể thấy được từ đây đường chân trời xa tít mù khơi. Cảm giác cứ như thể tôi đang nhìn vào rìa trái đất, nơi mà biển cả tiếp giáp với bầu trời, màu xanh tiếp nối màu xanh. Gió rít lên bên người tôi. Tôi ngẩng đầu nhìn lên. Bầu trời sáng sủa. Và đẹp vô cùng.

Tôi đang ở trên Mũi Hảo Vọng của đất nước Nam Phi, nơi là điểm cực nam của châu Phi và từng được xem là cực nam của thế giới. Đây là một vùng đất dữ dội, một vùng đất đầy bão tố và những con nước dữ. Một nơi chốn chứng kiến các hoạt động buôn bán và thương mại và cả sự nỗ lực của con người qua nhiều thế kỷ. Một nơi chốn, thật trớ trêu thay, của niềm hi vọng bị đánh mất.

Có một câu nói như thế này trong tiếng Bồ Đào Nha: Ele dobra o Cabo da Boa Esperança. Nó có nghĩa là, “Anh đang đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng.” Mỉa mai thay, nó có nghĩa là cuộc đời của người ấy đã ở vào giai đoạn cuối cùng, rằng anh ta không còn khả năng hoàn thành bất cứ điều gì nữa.

Tôi bước qua tảng đá về phía đại dương, để cho sự bao la của nó nhấn chìm tầm mắt tôi. Tôi đổ mồ hôi lạnh. Phấn khích và hồi hộp. Là thế này sao?

Gió táp vào tai tôi. Tôi không nghe được gì hết cả, nhưng tôi nhìn thấy được từ phần rìa mỏm đá: nơi mà núi đá tiếp giáp sự lãng quên. Tôi dừng lại và đứng đó trong một vài phút, chỉ còn cách có vài mét nữa. Tôi có thể thấy được đại dương nằm bên dưới, bao phủ và tung bọt trắng xoá lên bờ đá kéo dài hàng dặm. Sóng triều giận dữ va vào bức tường đá kiên cố. Thẳng lên trên, là vách đá dựng đứng cao gần năm mươi mét so với mặt nước bên dưới.

Ở phía bên phải tôi, khách thăm quan rải rác quanh vùng đất bên dưới, chụp ảnh và tụ lại như một đoàn quân kiến. Bên tay trái tôi là châu Á. Trước mắt tôi là bầu trời và sau lưng là mọi thứ mà tôi từng kỳ vọng và mang theo bên mình.

Sẽ thế nào nếu như đây là nơi đó? Sẽ thế nào nếu như đây là tất cả?

Tôi nhìn quanh quất. Tôi chỉ có một mình. Tôi nâng bước chân đầu tiên hướng về rìa mỏm đá.

Cơ thể con người dường như được trang bị với một chiếc máy dò tự nhiên để phát hiện ra những tình huống dẫn tới cái chết. Ví dụ như, thời điểm bạn cách mé vực tầm ba mét, trừ đi trạng thái cảnh giác trước nguy hiểm, một sự căng thẳng sẽ ăn sâu vào cơ thể bạn. Lưng của bạn cứng lại. Da của bạn co lại. Mắt bạn bắt đầu căng siêu nét mọi chi tiết của môi trường xung quanh mình. Đôi chân bạn có cảm giác như được tạc từ đá. Cứ như thể có một cái nam châm rất lớn, vô hình nhẹ nhàng kéo cơ thể bạn về lại vùng an toàn.

Nhưng tôi chống lại cái nam châm ấy. Tôi lê từng bước chân được tạc từ đá tới gần mé vực.

Còn cách chừng hai mét nữa, tâm trí bạn cũng gia nhập vào lực lượng này. Lúc này bạn không chỉ nhìn thấy rìa mỏm đá, mà còn cả phía bên dưới nữa, và đủ mọi thể loại viễn cảnh không mong muốn của việc vấp chân và rơi xuống và lộn nhào dẫn tới cái chết te tua. Xa quá rồi đấy, tâm trí bạn cảnh báo. Như là, thật sự xa quá rồi đấy. Này anh bạn, anh làm cái quái gì thế? Đừng đi nữa. Dừng lại ngay.

Tôi bảo tâm trí mình im miệng, và tiếp tục nhích về phía trước.

Còn một mét nữa, cơ thể bạn hoàn toàn chuyển sang mức báo động đỏ. Lúc này bạn chỉ còn cách việc kết thúc cuộc đời mình có một sợi dây giầy. Cảm giác như chỉ một cơn gió mạnh cũng có thể thổi bay bạn về cái cõi vĩnh hằng có hai sắc xanh ấy. Chân bạn run rẩy. Và đôi tay cũng vậy. Và cả giọng nói của bạn nữa, trong trường hợp bạn cần nhắc nhở bản thân rằng bạn sẽ không đâm đầu vào cái chết của chính mình.

Khoảng cách một mét là giới hạn tuyệt đối của hầu hết mọi người. Nó đủ gần để bạn thấy được đáy vực khi cúi người nhìn xuống, nhưng vẫn đủ xa để cho rằng bạn không thực sự đang mạo hiểm mà kết liễu đời mình. Đứng ở gần bờ vực đến mức này, ngay cả ở một nơi đẹp đẽ và đầy mê hoặc như Mũi Hảo Vọng, cũng gây ra cảm giác chóng mặt, và đe doạ sẽ làm phun trào bữa ăn gần nhất.

Là thế này sao? Tất cả là như thế này sao? Liệu tôi đã biết hết mọi điều mà tôi từng biết hay chưa?

Tôi bước thêm một bước nhỏ xíu xiu nữa, rồi thêm một bước nữa. Giờ còn lại nửa mét. Bàn chân tôi run lẩy bẩy khi tôi đặt cả sức nặng của cơ thể mình lên đó. Tôi tiếp tục di chuyển. Chống lại cái nam châm. Chống lại tâm trí tôi. Chống lại tất cả những bản năng sinh tồn nơi tôi.

Còn ba mươi xăng-ti-mét. Tôi lúc này nhìn thẳng xuống vực sâu. Tôi cảm thấy đột nhiên muốn khóc. Cơ thể tôi theo bản năng co lại, tự bảo vệ nó khỏi thứ gì đó không có thật và không thể giải nghĩa được. Gió nổi lên như bão. Những suy nghĩ tìm cách neo về bến cảng.

Ở khoảng cách ba mươi xăng-ti-mét bạn cảm thấy như thể mình đang trôi đi. Mọi thứ ngoại trừ khi nhìn xuống đều khiến bạn có cảm giác như thể bạn hoà làm một với bầu trời. Bạn chắc chắn rằng mình sẽ rơi xuống từ đây.

Tôi cúi xuống một lúc, điều hoà lại hơi thở, thu thập lại ý nghĩ. Tôi buộc mình phải nhìn xuống nơi bọt nước đập vào mặt đá dưới chân mình. Rồi tôi lại nhìn sang bên phải mình, về phía những con kiến nhỏ xíu đang cười rạng rỡ bên dưới kia, chụp hình, đuổi theo xe ô tô, với hi vọng lạ lùng rằng có ai đó sẽ nhìn thấy tôi. Sự khao khát được chú ý này hoàn toàn vô lý. Nhưng toàn bộ là như thế đó. Dĩ nhiên là họ không thể nhìn thấy được tôi ở nơi này. Và ngay cả khi mà họ thấy được, thì những con người ở khoảng cách xa nhường ấy liệu có thể nói hay làm được điều gì.

Tất cả những gì tôi nghe thấy được là tiếng gió.

Là như thế này sao?

Cả người tôi run rẩy, nỗi sợ hãi trở thành cơn phấn khích và sự mù quáng. Tôi tập trung tâm trí mình và xua tan đi các suy nghĩ như khi đang thiền định. Chẳng có gì lại khiến bạn ở trong hiện tại và toàn tâm toàn trí hơn việc chỉ còn cách cái chết của chính bạn có vài chục xăng-ti-mét nữa. Tôi thẳng người lên và nhìn lại, và tôi thấy mình mỉm cười. Tôi nhắc nhở bản thân mình rằng có chết thì cũng chẳng sao.

Sự bằng lòng này và ngay cả sự cởi mở khi đối diện với cái chết của một người có nguồn gốc từ cổ xưa. Những triết gia người Hi Lạp và La Mã cổ đại theo đuổi chủ nghĩa khắc kỷ(84) thường nhắc nhở mọi người rằng phải luôn luôn tâm niệm về cái chết ở mọi thời điểm, để biết trân trọng cuộc sống hơn và luôn khiêm tốn khi đứng trước nghịch cảnh. Ở nhiều trường phái Phật giáo, thiền định thường được truyền dạy như là một phương tiện để chuẩn bị cho cái chết trong khi vẫn còn đang sống. Hoà tan cái tôi vào trong cái chan hoà của hư vô – đạt tới trạng thái khai thị của cõi niết bàn – được xem như là sự thử nghiệm của việc đi tới bến bờ bên kia. Ngay cả Mark Twain(85), cái kẻ dở hơi tóc tai bù xù tới từ sao chổi Halley(86) và rời đi cùng nó cũng từng nói rằng, “Nỗi sợ cái chết đến từ nỗi sợ cuộc sống. Người sống được hết mình luôn sẵn sàng chết bất cứ lúc nào.”

Quay trở lại với vách đá, tôi cúi gập người xuống, dần dần ngả về phía sau. Tôi đặt hai tay mình xuống mặt đất phía sau và nhẹ nhàng đặt mông ngồi xuống. Rồi sau đó tôi từ từ di chuyển một chân qua mé vực. Có một tảng đá nhô ra từ vách đá. Tôi đặt chân mình lên đó. Rồi tôi di chuyển chân còn lại qua mé vực và đặt nó trên tảng đá nhỏ kia. Tôi ngồi như thế một lúc, dồn sức nặng cơ thể vào hai cánh tay, gió làm rối tung tóc tôi lên. Sự lo lắng giờ đã có thể chịu đựng được, miễn là tôi còn tập trung vào đường chân trời.

Rồi tôi ngồi thẳng dậy và nhìn xuống đáy vực lần nữa. Nỗi sợ hãi ập đến ngay tức khắc dọc theo sống lưng, làm tôi giật mình và buộc tôi tập trung tinh thần vào từng phân trên cơ thể mình. Nỗi sợ hãi tăng lên mỗi lúc. Nhưng mỗi lần nó bóp nghẹt tôi, tôi lại xua đi những suy nghĩ, tập trung sự chú ý của mình vào đáy vực bên dưới tôi kia, ép buộc mình phải nhìn vào sự diệt vong tiềm tàng ấy, và rồi đơn giản thừa nhận sự tồn tại của nó.

Lúc này đây tôi đang ngồi bên rìa thế giới, ở đỉnh cực nam của hi vọng, nơi cửa ngõ vào phương đông. Cảm giác ấy thật hưng phấn làm sao. Tôi có thể cảm thấy chất adrenaline(87) dâng trào trong cơ thể mình. Trở nên thật tĩnh tại, thật tỉnh táo, chưa bao giờ thấy xúc động nhường ấy. Tôi lắng nghe tiếng gió và ngắm nhìn đại dương và nhìn ra xa nơi tận cùng thế giới – và rồi tôi bật cười với ánh sáng, tất cả những nơi mà nó chạm tới đều đẹp đẽ khôn cùng.

Đối mặt với sự thật về cái chết của chúng ta là vô cùng quan trọng bởi vì nó xoá bỏ tất cả những giá trị tệ hại, mong manh, cạn cợt trong cuộc đời. Trong khi hầu hết mọi người phí hoài những tháng ngày của họ vào việc chạy theo vài đồng bạc cắc, hay thêm một chút ít danh tiếng và sự chú ý, hoặc thêm một chút ít sự chắc chắn rằng họ đã đúng hay được yêu, cái chết xuất hiện trước mắt tất cả chúng ta cùng với một câu hỏi đau đớn và quan trọng hơn nhiều: Gia tài của bạn có gì?

Thế giới này sẽ thay đổi và tốt đẹp hơn ra sao sau khi bạn ra đi? Bạn đã để lại dấu ấn gì? Bạn đã gây ra những ảnh hưởng gì? Người ta nói rằng con bướm đập cánh ở châu Phi có thể dẫn tới cả một cơn bão ở Florida(88); ô, vậy bạn đã để lại cơn bão nào trong sự tỉnh thức của chính mình?

Như là Becker đã chỉ ra, điều này có thể cho thấy câu hỏi duy nhất thực sự quan trọng trong cuộc đời chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta tránh né việc phải suy nghĩ về nó. Một là, bởi vì nó quá khó. Hai là, bởi vì nó đáng sợ. Ba là, bởi vì chúng ta đếch có cái manh mối nào về việc ta đang làm cái gì.

Và khi ta lảng tránh câu hỏi này, chúng ta để cho những giá trị tầm thường và hận thù chiếm trọn đầu óc chúng ta và kiểm soát những khao khát và tham vọng của chúng ta. Thiếu đi nhận thức về sự hiện hữu của cái chết, những điều giả tạo sẽ hiện ra như là việc quan trọng, và những điều quan trọng thì được nhìn nhận một cách hời hợt. Cái chết là điều duy nhất mà chúng ta có thể nhận biết với toàn bộ sự chắc chắn. Và vì vậy, nó phải là chiếc la bàn mà từ đó chúng ta định hướng tất cả những giá trị và quyết định khác. Đấy là câu trả lời đúng đắn cho mọi câu hỏi mà ta nên đặt ra nhưng chưa bao giờ thực hiện. Cách duy nhất để có thể bình thản trước cái chết là hiểu rõ và xem bản thân mình như một cái gì đó lớn hơn chính mình; là lựa chọn những giá trị vượt xa hơn cả việc phục vụ cho lợi ích của bản thân bạn, mà lại đơn giản và trực tiếp và dễ kiểm soát và bao dung đối với cái thế giới hỗn loạn xung quanh bạn. Đó là gốc rễ cơ bản của mọi sự hạnh phúc. Dù bạn có nghe theo Aristotle hay là một chuyên gia tâm lý học nào đấy ở Harvard hay là Chúa Jesus hay là cái ban nhạc Beatles chết tiệt kia đi nữa, thì tất cả đều sẽ nói với bạn rằng hạnh phúc đến từ cùng một điều: hãy quan tâm tới một điều gì đó lớn hơn chính bạn, hãy tin rằng bạn là một thành phần đóng góp vào một thực thể vĩ đại hơn nhiều, rằng cuộc đời bạn chỉ là một quy trình cận biên của một chuỗi dây chuyền không thể tưởng tượng được. Cái cảm giác này là lý do mà con người ta đến với nhà thờ; là lý do để họ lao vào những cuộc chiến tranh; là lý do để họ chăm lo cho gia đình mình và dành dụm từng đồng lương hưu và xây dựng những cây cầu và phát minh ra điện thoại di động: cái cảm giác thoáng qua này về việc là một phần của điều gì đó lớn hơn và khó hiểu hơn bản thân họ.

Và sự tự cho mình đặc quyền tước bỏ điều này khỏi chúng ta. Trọng lực của sự tự cho mình đặc quyền nuốt trọn mọi sự chú ý vào trong lòng nó, hướng về phía chúng ta, khiến cho ta cảm thấy rằng chúng ta là trung tâm của mọi vấn đề trong cái vũ trụ này, rằng chúng ta là kẻ duy nhất phải nhận lấy sự bất công, rằng chúng ta là người duy nhất xứng đáng được nhận những thứ cao quý hơn hẳn so với những người khác.

Dù cho đầy cám dỗ, sự tự cho mình đặc quyền sẽ cô lập chúng ta. Sự tò mò và hứng khởi của chúng ta đối với thế giới tự biến thành chính nó và phản ánh những thành kiến và dự đoán của chính chúng ta về mỗi người mà ta gặp và mọi sự kiện mà ta trải qua. Điều này có vẻ thật thú vị và hấp dẫn và có thể mang lại cảm giác tốt đẹp trong một thời gian, nhưng nó là liều thuốc độc dành cho tâm hồn.

Chính những điều này hiện nay đang hành hạ chúng ta. Chúng ta nhìn chung là sống khá sung túc, nhưng về mặt tinh thần thì chịu dày vò theo nhiều cách thức tệ hại và hời hợt. Người ta từ bỏ mọi trách nhiệm, đòi hỏi xã hội phải phục vụ cho cảm xúc và cảm giác của họ. Người ta bám riết lấy những sự đoan chắc đầy độc đoán của mình và cố gắng áp đặt chúng lên những người khác, thường là một cách thô bạo, trên danh nghĩa những lý do chính đáng được tạo dựng. Con người ta, cao ngạo trong cái cảm giác vượt trội giả tạo, rơi vào sự trì trệ và tính thờ ơ bởi nỗi sợ hãi trước việc thử một điều gì đó đáng giá và thất bại trước nó.

Việc nuông chiều tâm trí hiện đại đã dẫn đến một xã hội cảm thấy rằng mình xứng đáng được nhận lấy điều gì đó mà không cần phải cố công vì nó, một bộ phận xã hội cảm thấy rằng họ có quyền đối với một điều gì đó mà không cần phải hi sinh vì chúng. Người ta tuyên bố rằng mình là những chuyên gia, doanh nhân, nhà phát minh, nhà tiên phong, chính khách phi đảng phái, và huấn luyện viên mà không có lấy một trải nghiệm cuộc sống thật sự. Và họ làm điều đó không phải bởi vì họ thực sự cho rằng mình vĩ đại hơn tất cả những người khác; họ làm vậy là bởi vì họ cảm thấy rằng mình cần phải vĩ đại để được chấp nhận trong một thế giới chỉ toàn tuyên truyền về sự phi thường.

Nền văn hoá của chúng ta ngày nay làm đảo lộn sự hết sức chú ý với thành công lớn lao, cho rằng chúng phải là một. Nhưng không phải vậy.

Bạn đã tuyệt vời sẵn rồi. Dù cho bạn có nhận ra điều này hay không. Dù cho có ai khác nhận ra được điều này hay không. Và đấy không phải bởi vì bạn viết ra được một ứng dụng dành cho iPhone, hay hoàn thành chương trình đại học sớm hơn một năm, hay tậu được một con tàu rất oách. Những điều này không định nghĩa được sự tuyệt vời nơi bạn.

Bạn tuyệt vời bởi vì khi đối mặt với những nỗi hoang mang bất tận và cái chết chắc chắn, bạn vẫn tiếp tục lựa chọn điều gì để bận tâm và điều gì không. Cái thực tế nhỏ bé này, cái lựa chọn giản đơn về những giá trị của bản thân bạn trong đời sống này, đã sẵn khiến cho bạn trở nên đẹp đẽ, đã sẵn khiến bạn thành công, đã sẵn khiến cho bạn được yêu thương. Ngay cả nếu như bạn không nhận ra điều đó. Ngay cả nếu như bạn đang ngủ dưới gầm cầu và đói khát.

Bạn nữa rồi cũng sẽ đến lúc chết đi, và đó là bởi vì bạn đã quá may mắn để được sống trên đời. Có lẽ bạn sẽ không cảm thấy như vậy. Nhưng thi thoảng hãy cứ thử đứng bên mé vực mà xem, và có lẽ bạn sẽ hiểu ra được điều ấy.

Bukowski từng viết, “Tất cả chúng ta rồi sẽ chết, tất cả. Và chuyện này vẫn thường được phóng đại quá đà! Chỉ điều đó thôi hẳn nên khiến ta yêu thương lẫn nhau, nhưng lại không phải vậy. Chúng ta bị những điều tầm thường vô nghĩa làm khiếp sợ và đánh bại; chúng ta bị nghiến ngấu chẳng vì điều gì cả.”

Tôi nhớ về cái đêm ấy, bên cái hồ kia, nơi tôi nhìn thấy thi thể của người bạn tên Josh được kéo lên khỏi hồ bởi các chuyên gia cứu hộ. Tôi nhớ rằng mình từng nhìn trân trối vào bầu trời đêm đen kịt của Texas và thấy cái bản ngã của mình dần tan biến vào trong đó. Cái chết của Josh đã dạy cho tôi nhiều hơn những gì tôi từng nhận ra trước đây. Phải, nó giúp tôi nắm lấy tháng ngày, có trách nhiệm với những lựa chọn của bản thân mình, và theo đuổi những giấc mơ với ít nỗi hổ thẹn và ức chế hơn.

Nhưng đây chỉ là những tác dụng phụ của một bài học quan trọng và sâu sắc hơn hẳn. Và bài học quan trọng nhất ở đây là: chẳng có gì phải sợ cả. Không bao giờ. Và việc liên tục nhắc nhở bản thân về cái chết của chính mình suốt nhiều năm – dù là thông qua thiền định, đọc về các tác phẩm triết học, hay làm những việc điên rồ như đứng bên mé vực ở Nam Phi – là điều duy nhất giúp tôi nắm giữ sự nhận thức này trước mắt và ngay trong tâm thức mình. Việc chấp nhận cái chết, sự hiểu biết về cái sự mong manh của bản thân tôi, khiến cho mọi thứ trở nên dễ dàng hơn hẳn – giải quyết những thói nghiện của tôi, nhận dạng và đối diện sự tự cho mình đặc quyền nơi tôi, chấp nhận trách nhiệm của tôi trước những vấn đề của bản thân – vượt qua những nỗi sợ và sự bất an trong tôi, chấp nhận những thất bại và đón nhận sự từ chối – những điều ấy đều nhẹ nhàng hơn nhiều bởi ý nghĩ về cái chết của chính mình. Khi mà tôi càng nhìn kỹ vào bóng tối, cuộc đời càng trở nên sáng sủa hơn, thế giới càng trở nên yên ả, tôi càng ít cảm thấy sự kháng cự trong tiềm thức, ừ, trước bất điều gì.

Tôi ngồi đó trên đỉnh Mũi Hảo Vọng trong vòng vài phút, thu lấy tất cả mọi thứ. Khi cuối cùng tôi quyết định đứng dậy, tôi đặt tay ra phía sau và lùi lại. Rồi, chầm chậm, tôi đứng lên. Tôi kiểm tra mặt đất xung quanh mình – đảm bảo rằng không có hòn đá nào ở sai vị trí có thể làm tôi bị vấp ngã. Nhận thấy rằng tôi đã an toàn, tôi bắt đầu quay lại với thực tại – hai mét, ba mét – cơ thể tôi hồi lại với mỗi bước đi. Chân tôi trở nên nhẹ nhõm hơn. Tôi để cho chiếc nam châm cuộc đời hút tôi lại.

Khi tôi leo lên vài tảng đá, trở về con đường chính, tôi ngước nhìn lên và thấy một người đàn ông đang chằm chằm nhìn tôi. Tôi dừng lại và nhìn vào mắt anh ta.

“Ừm. Tôi thấy anh ngồi bên mé vực ở đằng kia,” anh ta nói. Anh ta có khẩu âm của người Úc. Cái từ “kia” tròn vành vạnh một cách kỳ cục trong miệng anh ta. Anh ta chỉ tay về phía Nam Cực.

“Vâng. Cảnh đẹp quá, nhỉ?” Tôi mỉm cười. Còn anh ta thì không. Anh ta nghiêm mặt nhìn tôi.

Tôi chùi tay vào quần, cơ thể tôi vẫn còn rền rĩ sau cuộc vận động. Bầu không khí trở nên im lặng đầy gượng gạo.

Anh chàng người Úc đứng đó một lát, bối rối, vẫn nhìn vào tôi, rõ là đang suy nghĩ xem sẽ nói điều gì tiếp theo. Sau một lúc, anh ta cẩn thận xâu chuỗi các từ ngữ lại với nhau.

“Mọi chuyện vẫn ổn chứ? Anh thấy thế nào rồi?”

Tôi lặng im trong chốc lát, rồi mỉm cười. “Sống. Tràn đầy sức sống.”

Sự nghi ngại của anh ta biến mất và lộ ra một nụ cười trên khuôn mặt. Anh ta gật đầu thật nhẹ và bước tiếp trên con đường mòn. Tôi đứng ở phía trên, nhìn rõ toàn cảnh, chờ đợi các bạn tôi lên đến nơi.

HẾT

(1) Charles Bukowski (1920-1994), nhà văn, nhà thơ Mỹ hiện đại, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa hư vô trong các sáng tác. Không được chú ý nhiều trong giới nghiên cứu văn chương học thuật nhưng ông có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống văn học và văn hoá đại chúng Mỹ, nhất là tới các nhà văn trẻ. Ông viết hàng nghìn bài thơ, hàng trăm truyện ngắn và sáu tiểu thuyết, với hơn 50 quyển sách được in. Sách của Bukowski bán rất chạy, là nhà thơ bán chạy nhất khi còn sống. Người ta nhắc tới ông như “Nhà thơ vinh danh của những khu ổ chuột” (The Poet Laureate of Skid Row).

(2) Alan Watts là một học giả, triết gia người Mỹ gốc Anh, và còn là một tác giả, diễn giả, một trong những người nước ngoài nổi tiếng nhất trong việc truyền bá triết lý phương Đông đến phương Tây. Tốt nghiệp thạc sĩ ngành thần học tại Seabury-Western Theological Seminary. Ông đã viết hơn 25 đầu sách nói về những vấn đề như bản chất đích thực của thực tại, ý nghĩa mục đích của cuộc đời, phát triển tâm thức…

(3) Acid: một loại ma tuý tổng hợp.

(4) LSD (Lysergic acid diethylamide): là một loại thuốc ảo giác mạnh với các tác động tâm lý đến sự nhận biết với môi trường xung quanh, nhận thức, cảm nhận cũng như mang lại ảo giác (hallucination). Nhiều quốc gia xem LSD là một chất gây nghiện và bị cấm lưu hành. LSD không gây nghiện. Tuy nhiên, phản ứng tâm thần bất lợi như lo âu, hoang tưởng, và ảo tưởng là có thể.

LSD được tạo ra lần đầu tiên bởi Albert Hofmann ở Thuỵ Sĩ vào năm 1938 từ ergotamine (một alcaloid của nấm cựa gà. Ở liều điều trị, ergotamin gây co mạch ngoại vi (nếu trương lực mạch giảm) chủ yếu do kích thích thụ thể alpha – adrenergic, tuy nhiên, thuốc gây giãn mạch ở các mạch có trương lực rất cao.) Ông bị nhiều người đánh giá là một trong những thiên tài có phát minh độc ác nhất hành tinh.

(5) Albert Camus (7/11/1913 – 4/1/1960) là một nhà văn, triết gia, thủ môn bóng đá, viết kịch, lí luận người Pháp nổi tiếng.

Cùng với Jean-Paul Sartre, Albert Camus là đại diện tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh. Ông là tác giả của các tiểu thuyết nổi tiếng L’Étranger (Người xa lạ), La Peste (Dịch hạch). Albert Camus được trao tặng Giải Nobel Văn học năm 1957 vì các sáng tác văn học của ông đã “đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại chúng ta”.

Cha ông, một công nhân rượu nho, mất sớm vì bị thương khi đi lính hồi ông còn rất nhỏ; mẹ ông là một người giúp việc Tây Ban Nha bị câm điếc. Chính hoàn cảnh xuất thân nghèo khó và cô độc đã tạo nên nhân sinh quan của ông trong triết học và cả trong văn học. Albert Camus mất năm 1960 trong một tai nạn ô tô.

(6) Camaro: tên một dòng xe thể thao của hãng Chevrolet.

(7) Burrito: món bánh tráng bột bắp cuốn thịt, đậu hoặc phô-mai của Mexico.

(8) Meth (tên đầy đủ: methamphetamine hydrochloride) là một loại chất gây nghiện tổng hợp. Các tên gọi khác của meth: crystal meth, d-meth, shabu, tina, glass.

(9) Everybody Loves Raymond: một bộ phim truyền hình rất thành công tại Mỹ. Được phát sóng từ năm 1996 đến năm 2005 trên kênh CBS, mỗi tập phim thu hút tới 20 triệu khán giả. Raymond Barone là một phóng viên giỏi, đồng thời rất khéo léo trong việc quản lí gia đình bé nhỏ của mình. Sự hài hước của bộ phim được “đảm bảo” nhờ khả năng diễn xuất tài tình của nam diễn viên chính Raymond Roman.

(10) The Wire (Đường dây tội phạm) là bộ phim truyền hình nổi đình nổi đám về đề tài phòng chống tội phạm ma tuý được rất nhiều người yêu thích do HBO sản xuất. Bắt đầu được phát sóng từ tháng 6/2002 đến tháng 3/2008 với 60 tập phim chia làm 5 mùa chiếu. Bộ phim xoay quanh những cuộc chiến ở Baltimore được kể đa diện theo góc nhìn của cả các tay buôn bán thuốc phiện lẫn lực lượng cảnh sát. Bộ phim được ra mắt đúng vào thời điểm cuộc chiến giữa các băng đảng trong nội bộ nước Mỹ cũng đang căng thẳng, phim xoáy sâu vào nhiều yếu tố chính trị và bạo lực. Bộ phim đạt rating 9,3/10 trên trang IMDB.

(11) William “The Bunk” Moreland là nhân vật trong bộ phim The Wire, do Wendell Pierce thủ vai. Tính cách của nhân vật này được xây dựng dựa trên một cựu cảnh sát thành phố Baltimore đã về hưu là Oscar Requer người cũng có biệt danh là “The Bunk”. Cũng giống như người bạn thân Jimmy McNulty của mình, Bunk là một vị cảnh sát có tài và lương tri, gặp phải một số vấn đề liên quan đến lòng chung thuỷ và nghiện rượu (dù không nghiêm trọng như ở mức độ của McNulty).

(12) James “Jimmy” McNulty là nhân vật chính khác trong series phim truyền hình The Wire của HBO, do Dominic West thủ vai.

McNulty là sĩ quan cảnh sát thuộc Sở Cảnh sát Baltimore có dòng máu Ireland. Dù anh biểu hiện tài năng và ý chí của mình, nhưng thường không được những người khác yêu quý bởi sự kiêu ngạo của mình.

Ngoài giờ làm việc, McNulty thường phải đối mặt với các vấn đề liên quan tới sinh kế, chứng nghiện rượu, nuôi con, và những mối quan hệ không ổn định.

(13) Jennifer Joanna Aniston (sinh ngày 11/2/1969) là diễn viên, nhà sản xuất và doanh nhân người Mỹ. Là con gái của diễn viên người Hy Lạp John Aniston và diễn viên người Mỹ Nancy Dow, Aniston nổi tiếng nhờ vai diễn Rachel Green trong loạt phim hài kịch tình huống Những người bạn (1994–2004), giúp cô thắng một giải Emmy, giải Quả cầu vàng và giải Screen Actors Guild Award. Vai diễn này được xem là một trong những nhân vật nữ vĩ đại nhất lịch sử truyền hình Mỹ. Cô xuất hiện trong danh sách những người phụ nữ đẹp nhất thế giới của một vài tạp chí. People vinh danh Aniston là “Người phụ nữ đẹp nhất” năm 2004 và 2016, trong khi Men’s Health bình chọn cô là “Người phụ nữ gợi cảm nhất mọi thời đại” vào năm 2011. Sau khi ly hôn diễn viên Brad Pitt, cô kết hôn với diễn viên Justin Theroux vào năm 2015.

(14) Xanax (thành phần: Alprazolam): một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị chống rối loạn lo âu tổng quát (GAD), lo lắng liên quan đến trầm cảm và rối loạn hoảng sợ.

(15) Alantis: hòn đảo huyền thoại ở Đại Tây Dương, phía tây Gibraltar, theo triết gia Hy Lạp Plato là rộng hơn cả Tiểu Á và Lybia cộng lại với nhau, nơi từng có một nền văn minh rực rỡ từ thiên niên kỷ thứ 10 tCN và đã bị nhấn chìm xuống biển trong một trận động đất.

(16) William Henry “Bill” Gates III (sinh ngày 28/10/1955) là một doanh nhân người Mỹ, nhà từ thiện, tác giả và chủ tịch tập đoàn Microsoft, hãng phần mềm khổng lồ mà ông cùng với Paul Allen đã sáng lập ra. Ông luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất trên thế giới và là người giàu nhất thế giới từ 1995 tới 2014, ngoại trừ tháng 3/2013, 3/2012, tháng 3/2011 (hạng 2) và 2008 khi ông chỉ xếp thứ ba. Tháng 5 năm 2013, Bill Gates đã giành lại ngôi vị người giàu nhất thế giới.

(17) Martin Luther King, Jr. (15/1/1929 – 4/4/1968) là Mục sư Baptist, nhà hoạt động dân quyền người Mỹ gốc Phi, và là người đoạt Giải Nobel Hoà bình năm 1964. Ông là một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ cũng như lịch sử đương đại của phong trào bất bạo động. King được nhiều người trên khắp thế giới ngưỡng mộ như một anh hùng, nhà kiến tạo hoà bình và thánh tử đạo.

King dẫn dắt cuộc tẩy chay xe buýt diễn ra ở Montgomery (1955-1956), và giúp thành lập Hội nghị Lãnh đạo Cơ Đốc miền Nam (1957), trở thành chủ tịch đầu tiên của tổ chức này. Năm 1963, King tổ chức cuộc tuần hành tại Washington, và đọc bài diễn văn nổi tiếng “Tôi có một giấc mơ” trước hàng ngàn người tụ tập về đây. Ông nâng cao nhận thức của công chúng về phong trào dân quyền, và được nhìn nhận là một trong những nhà hùng biện vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Năm 1964, King là nhân vật trẻ tuổi nhất được chọn để nhận Giải Nobel Hoà bình vì những nỗ lực chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc qua biện pháp bất tuân dân sự, và các phương tiện bất bạo động khác.

Ngày 4 tháng Tư năm 1968, King bị ám sát tại Memphis, Tennessee. Năm 1977, Tổng thống Jimmy Carter truy tặng King Huân chương Tự do của Tổng thống. Đến năm 1986, ngày Martin Luther King, Jr. được công nhận là quốc lễ. Năm 2004, ông được truy tặng Huân chương vàng Quốc hội.

(18) Le Bernardin: nhà hàng hải sản được nhận sao Michelin nằm ở số 155 West 51st Street (nằm giữa 6th Avenue và 7th Avenue), giữa trung tâm Manhattan, New York. Nhà hàng được mở vào năm 1972 ở Paris bởi Gilbert Le Coze và chị gái ông Maguy Le Coze dưới cái tên Les Moines de St. Bernardin và chuyển tới New York vào năm 1986.

(19) Pantera: ban nhạc rock thuộc dòng heavy metal của Mỹ, được thành lập vào năm 1981.

(20) Marilyn Manson (sinh ngày 5/1/1969, tên thật Brian Hugh Warner), là một nhạc sĩ và nghệ sĩ người Mỹ nổi tiếng với sự nghiệp gây tranh cãi của mình và là ca sĩ chính của ban nhạc cùng tên. Nghệ danh của ông đã được hình thành từ tên của nữ diễn viên Marilyn Monroe và kẻ giết người hàng loạt Charles Manson.

(21) Metallica là ban nhạc thrash metal của Mỹ, thành lập ngày 28/10/1981.Với hơn 100 triệu album bán ra toàn thế giới, riêng ở Mỹ là 57 triệu album, đây là ban nhạc heavy metal thành công nhất về mặt thương mại trong lịch sử. Metallica cũng đã từng chiến thắng ở rất nhiều giải thưởng âm nhạc danh tiếng nổi bật nhất là 9 giải Grammy. Đặc biệt hơn Metallica còn là nghệ sĩ đầu tiên chiến thắng tại cả 2 hạng mục là Best Metal Performance và Hard Rock Performace của giải Grammy. Metallica cũng được công nhận, cùng với 3 ban khác của “tứ trụ” nhạc thrash metal, Megadeth, Slayer và Anthrax, đã làm cho thể loại nhạc này trở nên thịnh hành. Năm 2003, tờ Rolling Stone xếp ban nhạc ở vị trí số 61 trong danh sách 100 nghệ sĩ vĩ đại nhất. Ngày 4/4/2009, Metallica chính thức được vinh danh trong Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll.

(22) Warren Edward Buffett sinh ngày 30/8/1930 tại Omaha, tiểu bang Nebraska, Hoa Kỳ. Ông là một nhà đầu tư, doanh nhân và nhà từ thiện người Mĩ. Ông là nhà đầu tư thành công nhất thế giới, cổ đông lớn nhất kiêm giám đốc hãng Berkshire Hathaway, và được tạp chí Forbes xếp ở vị trí người giàu thứ hai thế giới sau Bill Gates với tài sản chừng 73 tỉ USD. Ông được gọi là “Huyền thoại đến từ Omaha” hay “Hiền tài xứ Omaha”, rất nổi tiếng do sự kiên định trong triết lý đầu tư theo giá trị cũng như lối sống tiết kiệm dù sở hữu khối tài sản khổng lồ. Năm 1989 ông dùng 9,7 triệu USD trong ngân sách của hãng Berkshire để mua một máy bay hạng cá nhân rồi đặt tên vui cho nó là “Khó cưỡng quá” (tiếng Anh: “The Indefensible”) do trước kia ông hay chỉ trích giám đốc hãng nào làm như vậy. Warren Buffett còn nổi danh là nhà từ thiện đã tặng 99% giá trị tài sản của mình cho hoạt động của Hội Gates do Bill Gates sáng lập.

(23) Ở đây bạn Mark Mason chơi chữ: đá thì làm gì có não mà mổ, cho nên là …

(24) Thế hệ Y (Generation Y/ Millenials/ iGen): những người sinh vào khoảng giữa năm 1980 đến 1995. Thế hệ này được gọi là ‘echo boomer’ (bố mẹ họ được gọi là thế hệ ‘baby boomer’), và là thế hệ rất rành công nghệ.

(25) Oprah Gail Winfrey (sinh ngày 29/1/1954) là người dẫn chương trình đối thoại trên truyền hình (talk show host) và là nhà xuất bản tạp chí, cũng từng đoạt giải Emmy dành cho người Mỹ gốc Phi. Winfrey là phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên có tên trong danh sách các tỉ phú và được xem là một trong những nhân vật có nhiều ảnh hưởng nhất trên thế giới. Tháng 9 năm 2006, Oprah Winfrey được chọn bởi tạp chí Forbes để đưa vào danh sách 100 phụ nữ nhiều quyền lực nhất thế giới, với vị trí thứ 14.

(26) Phân phối chuẩn, còn gọi là phân phối Gauss, là một phân phối xác suất cực kì quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Nó là họ phân phối có dạng tổng quát giống nhau, chỉ khác tham số vị trí (giá trị trung bình μ) và tỉ lệ (phương sai σ²).

Phân phối chuẩn tắc (standard normal distribution) là phân phối chuẩn với giá trị trung bình bằng 0 và phương sai bằng 1. Phân phối chuẩn còn được gọi là đường cong chuông (bell curve) vì đồ thị của mật độ xác suất có dạng chuông. Tên gọi “đường cong chuông” do Jouffret, người đầu tiên dùng thuật ngữ “bề mặt hình chuông” năm 1872 cho phân phối chuẩn hai chiều với các thành phần độc lập. Tên gọi “phân phối chuẩn” được tạo ra bởi Charles S. Peirce, Francis Galton và Wilhelm Lexis khoảng năm 1875.

(27) Big Mac: một loại bánh mì kẹp thịt được phục vụ bởi chuỗi cửa hàng bán đồ ăn nhanh nổi tiếng toàn cầu McDonald’s. Lần đầu tiên được ra mắt vào năm 1967 ở khu vực thành thị Pittsburg, Mỹ và bán trên toàn nước Mỹ năm 1968. Big Mac là một trong những sản phẩm đặc trưng của hãng.

(28) Hiro Onoda (小野田寛郎 (Tiểu Dã Điền Khoan Lang) (19/3/1922 – 16/1/2014) sinh tại Wakayama, Nhật Bản. Sau một thời gian làm việc dân sự tại công ty kinh doanh Tajima Yoko của Nhật ở Vũ Hán, Onoda gia nhập Lục quân Đế quốc Nhật Bản năm 1942 và được đào tạo để trở thành sĩ quan. Sau một thời gian Onoda được chuyển sang học tập tại trường tình báo lục quân, nơi ông được dạy cách thu thập thông tin và phương thức tiến hành chiến tranh du kích.

Ngày 17 tháng Mười Hai năm 1944, Onoda rời Nhật tới Philippines theo Lữ đoàn Sugi (thuộc Sư đoàn số 8 của Hirosaki). Tại đây theo lệnh của đại tá Taniguchi và Takahashi, Onoda lãnh đạo một nhóm quân Nhật tiến hành chiến đấu độc lập trên đảo Lubang theo hình thức chiến tranh du kích. Do chiến đấu độc lập nên việc liên lạc với đơn vị của nhóm quân Nhật này bị tạm thời cắt đứt. Chỉ huy lữ đoàn đã ra lệnh cho Onoda như sau: “Anh không được phép tự tử. Dù bất kỳ điều gì xảy ra, dù sau ba năm hay năm năm, đơn vị sẽ quay lại với các anh. Cho đến lúc đó, dù chỉ còn một người lính, anh cũng phải lãnh đạo anh ta chiến đấu… Dưới mọi hoàn cảnh, anh đều không được phép tự tử.” (Theo Wikipedia)

(29) Norio Suzuki (鈴木紀夫), sinh tháng Tư năm 1949 tại tỉnh Chiba, Nhật Bản – mất tháng Mười Một năm 1986 trên dãy núi Himalaya. Ông là nhà thám hiểm và phiêu lưu người Nhật Bản được biết đến với việc đã tìm ra Hiroo Onoda, viên thiếu uý Nhật Bản lẩn trốn trong rừng rậm của Philippine nhất quyết không chịu đầu hàng sau khi Thế Chiến II kết thúc.

(30) Người tuyết (Yeti) (tiếng Nepal: हिममानव, “người núi”) là một sinh vật bí ẩn giống vượn cao hơn người trung bình và được cho rằng sống ở khu vực dãy Himalaya của Nepal và Tây Tạng. Tên Yeti và Meh-Teh thường được dùng bởi người bản địa, và là một phần lịch sử thần thoại của họ. Câu truyện về Yeti được truyền bá đến phương Tây vào thế kỷ 19.

Cộng đồng khoa học thường cho Yeti là một huyền thoại, do thiếu bằng chứng kết luận, nhưng nó vẫn là một trong những động vật huyền bí nổi tiếng nhất. (Theo Wikipedia)

(31) Don Quixote, Don Kijote, Don Quijote hay Đông-ki-sốt, Đôn Ki-hô-tê: là tên của nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Cervates. Đó là một quý tộc nghèo, vì ham mê truyện phiêu lưu, hiệp sĩ nên muốn trở thành hiệp sĩ trừ gian diệt bạo, cứu người lương thiện. Lão lên đường đi phiêu lưu, tự phong mình là hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê xứ Man-cha. Nhiều lần thất bại, lão vẫn tin mình bị lão pháp sư Phơ-re-xtôn phù phép. Nhưng cuối cùng lão bị ốm nặng, lão mới thấy cái nhảm nhí, tai hại của truyện hiệp sĩ. Lão viết di chúc rồi qua đời.

Tác phẩm còn có tên đầy đủ là El Ingenioso hidalgo Don Quijote de la Mancha (Đôn Kihôtê, nhà hiệp sĩ quý tộc tài ba xứ Mancha). Phần đầu tiên được xuất bản năm 1605 và phần thứ 2 xuất bản năm 1615. Đây là một trong những tiểu thuyết viết sớm nhất bằng ngôn ngữ châu Âu hiện đại và có thể cho rằng là tác phẩm gây ảnh hưởng và điển hình nhất trong danh sách các tác phẩm của văn học Tây Ban Nha. Giáo trình văn học phổ thông của nước mình cũng có trích đoạn giảng dạy và giới thiệu về tác phẩm này.

(32) Sancho Panza (Xan-chô Pan-xa) một nhân vật khác trong tác phẩm Don Quixote, thực sự chỉ là một người hàng xóm của Đôn Ki-hô-tê. Vì nghe lão hiệp sĩ hứa nếu lão chiếm được một vùng đất, lão sẽ chia cho bác để bác cai trị. Bác thích thú nên đi theo. Trên đường đi, bác cảm thấy chuyện phiêu lưu hiệp sĩ coi vậy mà hay. Vì bác đi theo chỉ để ăn uống, say sưa đánh chén, ngủ thật say. Nhiều lần bác cứu Đôn Ki-hô-tê khỏi kết quả của những hành động điên rồ. Bác còn phong cho Đôn Ki-hô-tê các chức danh hiệp sĩ.

(33) Megadeth: ban nhạc thrash metal đến từ Hoa Kỳ được sáng lập bởi tay ghita, hát chính kiêm viết nhạc Dave Mustaine. Hình thành vào năm 1983 sau khi Mustaine rời khỏi ban nhạc Metallica, cho đến nay ban nhạc đã cho ra đời mười hai album phòng thu, sáu album live, hai EP và hai album biên tập lại.

Là ban nhạc tiên phong của sự chuyển mình của dòng nhạc thrash metal, Megadeth trở thành ban nhạc nổi tiếng trên thế giới trong những năm của thập niên 1980. Megadeth đã phát hành một chuỗi những album vàng và bạch kim, bao gồm album bạch kim đánh dấu cho dòng nhạc thrash metal Rust in Peace vào năm 1990 và được đề cử giải Grammy, đĩa bạch kim Countdown to Extinction vào năm 1992. Megaddeth giải tán vào năm 2002 sau khi Mustaine phải phẫu thuật do một vết thương rất nặng ở tay trái, nhưng sau những liệu pháp trị liệu vật lý, Mustaine tập hợp ban nhạc lại vào năm 2004 và phát hành The System Has Failed, tiếp theo là United Abominations vào năm 2007; album đã lọt vào Billboard 200 với vị trí lần lượt là 18 và 8. Ngày 15 tháng Chín năm 2009 Megadeth chính thức phát hành album Endgame – album thứ 12 của ban nhạc. Megadeth được biết đến với một phong cách ghita không nhầm lẫn, bao gồm các trường đoạn phức tạp và khó hiểu, và đoạn ghita solo kết thúc bài. Mustaine được biết đến với phong cách hát gầm thét của mình, cũng như những lời nhạc lặp lại, thường là về chủ đề chính trị, chiến tranh, ma tuý và mối quan hệ giữa người với người.

Megadeth đã bán được hơn 20 triệu album trên toàn thế giới. Megadeth được nhắc đến với cái tên là một trong “Bốn cây đại thụ của dòng nhạc Thrash”, bao gồm Metallica, Slayer, và Anthrax, bốn ban nhạc đã góp phần tạo nên và hình thành thể loại nhạc này vào những năm của thập niên 1980.

(34) The Beatles là ban nhạc rock của Anh hoạt động trong thập niên 1960. Với 4 thành viên John Lennon, Paul McCartney, George Harrison và Ringo Starr, bộ tứ trở thành nghệ sĩ thành công nhất và ảnh hưởng nhất thời kỳ huy hoàng của nhạc rock. Khởi đầu với nhạc skiffle, beat và rock ‘n’ roll thập niên 1950, The Beatles sau đó đã chơi nhiều thể loại đa dạng, từ pop ballad tới psychedelic và hard rock, kết hợp với âm nhạc cổ điển theo nhiều cách khác nhau. Đầu những năm 1960, sự nổi tiếng của họ là nguồn gốc của hiện tượng Beatlemania, song cùng với sự phát triển trong quan điểm và cách viết nhạc, ban nhạc dần trở thành hiện thân của những ý tưởng thời kỳ giải phóng xã hội. (Theo Wikipedia)

(35) Bài Octopus’s Garden.

(36) Sigmund Freud (tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud; sinh ngày 6/5/1856 – 23/9/1939) nguyên là một bác sĩ về thần kinh và tâm lý người Áo. Ông được công nhận là người đặt nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu về phân tâm học. Cho đến ngày nay mặc dù lý thuyết về phân tâm học của ông còn gây nhiều tranh cãi và người ta còn đang so sánh hiệu quả của các phương pháp phân tâm học của ông với các phương pháp điều trị khác, nhưng cũng phải thừa nhận rằng ông là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong thế kỷ 20.

(37) Bahamas hay tên chính thức Thịnh vượng chung Bahamas, hay Quần đảo Bahamas là một quốc gia nói tiếng Anh tại Tây Ấn. Là một quần đảo với khoảng 700 hòn đảo, cồn và đảo nhỏ, Bahamas nằm trong Đại Tây Dương, ở phía đông Hoa Kỳ (điểm gần nhất là tiểu bang Florida), phía bắc Cuba và vùng Caribe, phía tây lãnh thổ phụ thuộc Anh Quần đảo Turks và Caicos.

(38) Cannoli: món bánh ngọt Ý chiên giòn với phó mát và kem trái cây bên trong.

(39) William James (11/1/1842 – 26/8/1910): nhà tâm lý học và triết học tiên phong người Mỹ. Ông đã viết những cuốn sách có tầm ảnh hưởng về khoa học tâm lý, tâm lý học giáo dục, tâm lý học trải nghiệm tôn giáo, chủ nghĩa thần bí cũng như triết học về chủ nghĩa thực dụng. Ông là anh của nhà văn Henry James và Alice James.

William James là một người có nhiều ảnh hưởng tới nhiều học giả như Ralph Waldo Emerson, Horace Greeley, William Cullen Bryant, Oliver Wendell Holmes, Jr., Charles Peirce, Josiah Royce, George Santayana, Ernst Mach, John Dewey, W. E. B. Du Bois, Helen Keller, Mark Twain, Horatio Alger, Jr., James George Frazer, Henri Bergson, H. G. Wells, G. K. Chesterton, Sigmund Freud, Gertrude Stein, và Carl Jung.

(40) Henry James (15/4/1843 – 28/2/1916) là tác giả và nhà phê bình văn học Mỹ. Ông sống phần nhiều cuộc đời ở châu Âu và trở thành công dân Anh không lâu trước khi chết. Ông được biết chủ yếu với những cuốn tiểu thuyết, những truyện ngắn mới lạ dựa trên những chủ đề về ý thức. Quyển Charles W. Eliot của ông đã đoạt Giải Pulitzer cho tác phẩm Tiểu sử và Tự truyện năm 1931.

(41) Alice James (7/8/1848 – 6/3/1892): người viết nhật ký. Mối quan hệ của bà với William James vô cùng thân thiết, và dường như bà chịu tác động lớn bởi việc ông kết hôn. Alice James từng phải chịu đựng những vấn đề về thần kinh trong suốt cuộc đời mình, mà tại thời điểm đó bị lầm tưởng thành chứng ít-tê-ri (hysteria). Bà được biết đến với cuốn nhật ký được xuất bản của mình, mà bộc lộ rất nhiều về những nỗi ám ảnh và sự mất cân bằng tâm lý.

(42) Orgon Trail: trò chơi vi tính có tính giáo dục nổi tiếng trong những năm 1980 và đầu những năm 1990 được thiết kế vào năm 1971 dựa trên câu chuyện lịch sử về tuyến đường khai hoang kéo dài 2170 dặm (3490 km) từ đông sang tây (từ Missouri đến miền bắc Oregon). Tuyến đường khai hoang được thực hiện đầu tiên bởi những người buôn bán lông thú và các thương gia khác trong quãng thời gian từ 1811-1840. Bộ phim truyền hình nổi tiếng gắn bó với một thời tuổi thơ của thế hệ 8X – 9X ở Việt Nam “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên” cũng nói về thời kỳ này.

(43) Charles Sanders Peirce (10/9/1839 – 19/4/ 1914) là triết gia, nhà tư tưởng, nhà toán học, và khoa học người Mỹ đôi khi được biết đến như “cha đẻ của chủ nghĩa thực dụng.” Ông được đào tạo về chuyên ngành hoá học và tham gia nghiên cứ trong 30 năm. Ngày nay ông được biết đến vì những đóng góp của mình trong luận lý học, toán học, triết học, phương pháp khoa học, và kí hiệu học, và việc đặt nền móng cho học thuyết chủ nghĩa thực dụng.

(44) Henry James (18/5/1879 – 13/12/1947) là nhà văn Mỹ từng đoạt giải thưởng Pulitzer năm 1931. Ông là con trai của triết gia và nhà tâm lý học William James, cháu trai của tiểu thuyết gia Henry James.

Sinh ra tại Boston, Massachusetts, James có bằng cử nhân trường Đại học Harvard năm 1899 và ngành luật của trường Luật Harvard năm 1904. Ông hành nghề luật sư tại Boston cho tới năm 1912, khi ông trở thành giám đốc kinh doanh của Học viện nghiên cứu y khoa Rockefeller. Năm 1917, ông kết hôn với Olivia Cutting, con gái của nhà tài phiệt William Bayard Cutting. Sau khi li dị, ông kết hôn với Dorothea Draper Bladgen vào năm 1938.

James viết Richard Olney và sự phụng sự cộng đồng (1923), một cuốn sách về tiểu sử của vị Bộ trưởng ngoại giao của nước Mỹ, và cuốn Charles W. Eliot giành giải Pulitzer cho tác phẩm Tiểu sử và Tự truyện năm 1931.

(45) Malala Yousafzai (tiếng Pashtun: ملاله یوسفزۍ Malālah Yūsafzay, sinh ngày 12/7/1997) là một nữ sinh đến từ thị xã Mingora ở huyện Swat, tỉnh Khyber Pakhtunkhwa, Pakistan. Cô bé được biết đến với hoạt động nữ quyền của mình, đặc biệt tại thung lũng Swat, nơi Taliban đã từng cấm nữ giới đi học. Đầu năm 2009, lúc em 11-12 tuổi, Yousafzai đã thu hút sự chú ý của mọi người khi cô viết blog cho BBC kể chi tiết cuộc sống của cô dưới chế độ Taliban, nỗ lực của Taliban kiểm soát thung lũng và quan điểm của cô bé về xúc tiến giáo dục cho nữ giới. Mùa hè năm sau, một bộ phim tài liệu của New York Times đã được quay về cuộc sống của cô bé khi quân đội Pakistan can thiệp vào khu vực, dẫn đến Cuộc chiến Swat lần thứ hai. Yousafzai bắt đầu trở nên nổi tiếng, em được phỏng vấn trên các bài báo in và trên truyền hình. Cô bé đã được đề cử giải thưởng hoà bình trẻ em quốc tế bởi Desmond Tutu, một nhà hoạt động đấu tranh cho nhân quyền gốc Nam Phi.

Ngày 9/10/2012, hai tay súng đã chặn xe buýt chở Malala từ trường về nhà gần một trạm kiểm soát quân sự và xả súng bắn vào đầu và cổ của em. Trong những ngày sau cuộc tấn công, cô bé bất tỉnh và lâm vào tình trạng nguy kịch, và đến ngày 15/10 em đã được chuyển sang Bệnh viện Nữ hoàng Elizabeth ở Birmingham, Vương quốc Liên hiệp Anh để tiếp tục điều trị. Một nhóm 50 giáo sĩ Hồi giáo ở Pakistan đã ban hành một tuyên thệ sẽ chống lại những kẻ cố gắng giết chết cô bé. Tuy nhiên Taliban vẫn giữ ý đồ giết Yousafzai và cha của em, Ziauddin Yousafzai.

Cựu thủ tướng Anh Gordon Brown đã phát động một đợt thỉnh nguyện Liên hiệp quốc nhân danh Yousafzai, sử dụng thông điệp “I am Malala” (tạm dịch: tôi là Malala) là đề xuất rằng cho đến cuối năm 2015 thì tất cả trẻ em trên toàn thế giới phải được đi học. Brown nói rằng ông sẽ gửi đơn thỉnh nguyện cho tổng thống Pakistan Asif Ali Zardari vào tháng Mười Một.

Vụ ám sát đã biến cô bé trở thành biểu tượng toàn cầu. Cả đất nước Pakistan phẫn nộ, ngày 12/10/2012, người dân cả nước Pakistan đã cầu nguyện cho Malala. Làn sóng cầu nguyện cũng lan sang Afghanistan và các nước Hồi giáo khác. Chính phủ Hoa Kỳ, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon, UNICEF, Quỹ Phụ nữ toàn cầu… đều lên án hành vi tàn bạo của Taliban. Trên các mạng xã hội như Twitter, Facebook và các trang mạng khác, Malala được cư dân mạng cả thế giới tôn vinh là một anh hùng. Nhiều người khẳng định cô xứng đáng với giải Nobel hoà bình 2012 hơn nhiều so với Liên minh châu Âu (EU).

Ngày 10 tháng Mười năm 2014, Yousafzai đã được công bố là người đoạt giải Nobel Hoà bình năm 2014, trở thành người đoạt giải Nobel trẻ nhất, cùng với Kailash Satyarthi người Ấn Độ. Cô trở thành người Pakistan thứ hai đoạt giải Nobel, sau Abdus Salam.

(46) Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (tiếng Anh: Obsessive-Compulsive Disorder – OCD) là một rối loạn tâm lý có tính chất mãn tính, dấu hiệu phổ biến của bệnh đó là ý nghĩ ám ảnh, lo lắng không có lý do chính đáng và phải thực hiện các hành vi có tính chất ép buộc để giảm bớt căng thẳng, đây là một dạng trong nhóm bệnh liên quan trực tiếp đến Stress.

Người bị ảnh hưởng của bệnh có những ý nghĩ và hành vi lặp lại một cách vô nghĩa mà không kiểm soát được chẳng hạn rửa tay hàng chục lần mặc dù tay đã sạch hay dành quá nhiều thời gian để sắp xếp đồ vật trong nhà quá mức gọn gàng cần thiết. Nhưng không phải mọi hành vi có tính chất ám ảnh cưỡng chế đều bị coi là dấu hiệu của bệnh, chẳng hạn phải nghe kể chuyện mới đi ngủ được (ở trẻ nhỏ) hoặc các nghi lễ tôn giáo đều là các hành vi lặp đi lặp lại nhưng chúng có ích và không quá gây phiền toái. Ngoài ra nỗi lo lắng vừa phải trong một khoảng thời gian nào đó khi cuộc sống gặp cản trở cũng được xem là các cảm xúc bình thường như trong mùa dịch bệnh lo lắng về sự sạch sẽ giúp ích hơn là thái độ bàng quan. Nhưng sẽ là bệnh thật sự nếu nó quá mức độ cần thiết và gây đau khổ. Mức độ của bệnh có thể từ nhẹ đến nặng, nhưng nếu bị nặng mà không được điều trị sẽ làm thoái hoá khả năng làm việc, học tập thậm chí làm người bệnh không thoải mái trong chính căn nhà của mình, họ có thể mất vài giờ một ngày chỉ để thực hiện các hành vi cưỡng chế.

(47) Outrage porn (tạm dịch: cơn giận dữ đồi bại) còn được gọi là nền văn hoá giận dữ (outrage culture) chỉ tất cả các hình thức truyền thông được xây dựng nhằm khiêu khích sự giận dữ của khán giả nhằm mục đích thu hút lượng truy cập hay sự chú ý trên mạng. Cụm từ ‘outrage porn’ được kiến tạo bởi hoạ sĩ vẽ tranh biếm hoạ về chủ đề chính trị Tim Kreider của tờ The New York Times. Xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2009, cụm từ này sau đó trở nên phổ biến bởi tác giả và nhà bình luận xã hội Ryan Holiday.

(48) Yoda là một nhân vật trong bộ phim truyện Chiến tranh giữa các vì sao (Star Wars). Yoda có mặt trong toàn bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao, trừ phần IV Niềm hy vọng mới. Trong phim, nhân vật Yoda là một sinh vật có dáng thấp và có da màu xanh lá cây, và thọ 900 tuổi. Đối với hội đồng Jedi, Yoda là sư tổ của các hiệp sĩ Jedi.

Yoda có cách nói rất đặc trưng đã trở thành một thương hiệu. Tất cả các câu nói của ông ngoại trừ câu chúc truyền thống “May the Force be with you”, đều được nói ngược, đảo chủ ngữ và vị ngữ.

(49) Trích máu là một trong những biện pháp chữa bệnh phổ biến nhất trong lịch sử ngành y. Người Hy Lạp là những người đầu tiên dùng biện pháp này và đã sử dụng rộng rãi cho đến tận thế kỷ 19. Nhiều người tin rằng trích máu giúp con người thoát khỏi bệnh tật. Họ cho rằng trong máu của con người có 4 chất cơ bản, mỗi một chất trong đó lại là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn tới các loại bệnh thường gặp ở người. Vì thế, khi được trích máu ra khỏi cơ thể, con người sẽ lành bệnh. Hiện nay trên thế giới vẫn có một số nơi tiến hành chữa bệnh bằng phương pháp này.

(50) Yếu tố cháy (tiếng Anh: Phlogistion). Thuyết phlogiston (có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ phlogios, có nghĩa là “sự cháy”) là một lý thuyết khoa học đã lỗi thời, được Johann Joachim Becher đưa ra lần đầu tiên vào năm 1667, cho rằng ngoài những nguyên tố cổ điển của người Hi Lạp, có một nguyên tố bổ sung tương tự như lửa có tên là “yếu tố cháy” (phlogiston). Yếu tố này tồn tại trong các vật thể có khả năng bốc cháy, và được giải phóng ra ngoài, với một mức độ thay đổi được, trong sự cháy. Nói tóm lại, đây là nguyên tố mà khi chưa tìm ra ôxy, người ta vẫn cho là nó hiện diện trong các chất dễ cháy để gây cháy.

(51) Núi Washington là một ngọn núi nằm ở rìa phía đông của rặng núi Vancouver Island thuộc British Columbia. Ngọn núi được thuyền trưởng George Richards đặt tên theo tên của vị Thiếu tướng hải quân John Washington, sĩ quan Thuỷ văn học, thuộc Hải Quân Hoàng Gia Anh Quốc trong lần vẽ hải đồ Vùng biển phía Tây vào năm 1860.

British Columbia (viết tắt B.C.; tiếng Pháp: la Colombie-Britannique, C.-B.), còn được gọi Columbia thuộc Anh, là tỉnh bang cực tây của Canada, một trong những vùng có nhiều núi nhất Bắc Mỹ.

Trước thế kỷ 19 tất cả đất đai của British Columbia (kể cả đảo Vancouver) và một phần của tiểu bang Washington của Hoa Kỳ là đất thuộc Công ty Hudson Bay (trao đổi lông thú vật với dân bản xứ). Vào giữa thế kỷ 19 phần đất phía bắc vĩ tuyến 49 rơi vào tay Đế quốc Anh và được chia ra làm hai thuộc địa: British Columbia (nằm trong lục địa) và Vancouver (nằm ngay trên đảo Vancouver). Đến năm 1866 hai thuộc địa này sáp nhập với nhau thành British Columbia và 5 năm sau British Columbia được gia nhập vào Liên bang Canada. Do đó British Columbia vẫn giữ tên để giữ truyền thống Anh vì British Columbia có nghĩa là “Columbia thuộc Anh”.

(52) B.C là từ viết tắt của Before Christ, có nghĩa là trước tây lịch, trước công nguyên.

(53) Michael Jeffrey Jordan (sinh ngày 17/2/1963) là một cầu thủ bóng rổ nhà nghề nổi tiếng thế giới của Hoa Kỳ đã giải nghệ. Anh được xem như một trong những cầu thủ bóng rổ vĩ đại nhất mọi thời đại, một trong những ấn tượng lớn nhất trong cộng đồng thể thao ở thời đại của mình và là người đã đem lại sự phổ biến rộng khắp môn bóng rổ của NBA ra toàn thế giới trong thập niên 1980 và thập niên 1990.

Jordan cũng được biết đến với sự ủng hộ sản phẩm của mình. Ông thúc đẩy sự thành công của giày Nike’s Air Jordan sneakers, đã được giới thiệu vào năm 1985 và vẫn còn phổ biến đến hiện nay. Jordan cũng đóng vai chính trong bộ phim năm 1996 “Space Jam” về sự nghiệp chính mình. Jordan là vận động viên đầu tiên trong lịch sử trở thành một tỷ phú, theo Forbes.

(54) Emo Philips (tên thật: Phil Soltanek; sinh ngày 7/2/1956) là một nghệ sĩ hài người Mỹ.

(55) Meredith Maran (sinh năm 1951, tại New York) là nhà văn, nhà phê bình sách, và nhà báo. Bà đã phát hành mười hai cuốn sách không phải sách văn học, nhiều số trong đó nằm trong danh sách bán chạy của San Francisco Chronicle, và là thiểu thuyết gia có tác phẩm đầu tay thành công. Bà viết rất nhiều bài báo, bài luận, và đánh giá cho các tờ báo nổi tiếng của Mỹ như People, More, Good Housekeeping, Salon.com, The Chicago Tribune, The Los Angeles Times, San Francisco Chronicle, và Boston Globe.

(56) Repressed memories therapy (tạm dịch: liệu pháp ký ức bị kìm nén/ liệu pháp trí nhớ phục hồi). Các ký ức bị kiềm nén là những ký ức bị khoá lại một cách vô thức bởi vì những ký ức này có liên quan tới mức căng thẳng cao độ hay những tổn thương về tinh thần. Học thuyết này nhận định rằng cho dù cá nhân đó không có khả năng nhớ lại ký ức này, thì nó vẫn tác động tới họ trong tiềm thức, và rằng những ký ức ấy có thể hoà lẫn vào trong tiềm thức của người đó. Ý tưởng về việc những ký ức bị kiềm nén che giấu sự nhận biết những tổn thương về mặt tinh thần là một phần quan trọng trong những công trình nghiên cứu ban đầu của Sigmund Freud trong lĩnh vực phân tích tâm lý. Ông về sau này đã tiếp cận một cách nhìn khác.

Sự tồn tại của ký ức bị kiềm nén là một chủ đề gây tranh cãi gay gắt trong ngành tâm lý học; dù cho một số nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng nó có thể xảy ra ở nhiều dạng thức tổn thương tâm lý nhưng với một tỷ lệ khá nhỏ các bệnh nhân, trong khi các nghiên cứu khác lại cho rằng nó xảy ra vô cùng phổ biến (mà nhận được sự đồng thuận của rất nhiều chuyên gia). Một số nhà tâm lý học ủng hộ học thuyết ký ức bị kiềm nén và cho rằng các ký ức bị kiềm nén có thể được khôi phục lại dựa trên quá trình điều trị, nhưng hầu hết các chuyên gia tâm lý lại cho rằng thực tế đây là một quá trình mà có thể những ký ức sai lầm sẽ được hình thành do việc pha trộn những ký ức thực với những yếu tố tác động từ bên ngoài.

(57) Có ai còn nhớ ở chương 2 trên áo phông của Con Gấu Mèo U Uất cũng xuất hiện chữ T này không? Nó là chữ cái đầu của từ True – Thật/Đúng.

(58) Lazarus (Lazarus vùng Bethany, Thánh Lazarus hay Lazarus Bốn ngày) là một nhân vật kinh thánh. Lazarus sống ở thị trấn Bethany, gần Jerusalem. Lazarus và chị em ông là Martha và Mary đã đón tiếp chu đáo Chúa Jesus trong ngôi nhà nghèo túng của mình và tin tưởng vào sứ mệnh của Người.

Theo kinh phúc âm, khi Chúa đang ở xa phía ngoài sông Jordan, Lazarus bị ngã bệnh và qua đời. Đức Jesus biết rõ Lazarus bị bệnh nặng nhưng không đến ngay để chữa. Chúa có ý trì hoãn nhiều ngày sau khi Lazarus đã chết để cho các môn đệ biết rằng muốn hiểu thấu về ánh sáng cần phải có thời gian, là những bài học khó hiểu khi đứng trước tử thần và nấm mồ bệnh hoạn, nhưng lại dễ hiểu dưới ánh sáng phục sinh của đức Kito và sự sống lại của Lazarus. Đức Giesu đã quả quyết với Martha: “Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, ngay cả đã chết, cũng được sống lại; ai đang sống mà tin vào Ta thì sẽ không bao giờ chết (25).”

(59) Roy F. Baumeister (sinh ngày 16/5/1953) là chuyên gia tâm lý xã hội học, được biết đến với các công trình nghiên cứu về cái tôi, sự chối bỏ của xã hội, việc được thừa nhận, sự khác biệt về xu hướng tình dục và giới tính, sự kiểm soát bản thân, sự tự thân, các hành vi tự chuốc lấy thất bại, động lực, gây hấn, ý thức, và sự tự nguyện.

(60) Thí nghiệm Milgram: Năm 1961, Giáo sư Milgram cùng các cộng sự đăng quảng cáo tuyển người tham gia một cuộc thí nghiệm về “tác động của hình phạt đối với việc học” với giá 4 USD/giờ thu hút 40 người tham gia.

Người tham gia đóng vai “giáo viên” sẽ đặt câu hỏi cho “học sinh”. Cả hai ngồi ở 2 phòng khác nhau và chỉ liên lạc qua bộ đàm. “Giáo viên” lần lượt đặt câu hỏi và mỗi lần “học sinh” trả lời sai, “giáo viên” sẽ được người giám sát thí nghiệm yêu cầu nhấn nút gây giật điện để trừng phạt “học sinh” với cường độ lớn dần, tối đa là 450 volt. Dĩ nhiên, “giáo viên” không hề biết rằng chẳng có ai bị điện giật cả và “học sinh” là người trong nhóm của Milgram, giả vờ kêu la đau đớn hoặc đập vào tường van xin dừng thí nghiệm.

Trong suốt thí nghiệm, các “giáo viên” tỏ ra không thoải mái và vô cùng lo lắng. Có người liên tục quệt mồ hôi trán, người thì gắng cười to một cách gượng gạo hoặc khóc lóc hỏi thăm tình trạng của “học viên”. Tuy nhiên, không có ai tỏ ý muốn ngừng lại trước mức 135 volt. Khi đến gần mức 300 volt, một số người xin dừng thí nghiệm và trả lại tiền. Tuy nhiên khi được người giám sát đốc thúc và trấn an rằng sẽ không phải chịu trách nhiệm gì nếu có bất trắc thì họ lại tiếp tục nhấn nút bất chấp những tiếng gào thét từ phòng bên kia. Kết quả cuối cùng là chỉ có 14 trong số 40 “giáo viên” kiên quyết dừng thí nghiệm trước mức tối đa 450 volt, tức có đến 65% số người tham gia đi đến tận cùng.

(61) C. Northcote Parkinson (1909 – 1993), ông là nhà văn và sử học người Anh, nổi tiếng với sự nhạo báng tầng lớp quý tộc. Cuốc sách nổi tiếng nhất của ông là tác phẩm bán chạy Parkinson’s Law (tạm dịch: Định luật Parkinson), khiến ông được nhìn nhận như là một trong những học giả quan trọng của lĩnh vực hành chính công và quản trị.

(62) Định luật Murphy hay còn được gọi là định luật bánh bơ, tương truyền do một sĩ quan không quân sáng tạo ra sau một loạt vấn đề và rắc rối xảy ra tại một sân bay quân sự ở California. Một nghiên cứu về định luật này đã đạt giải Nobel năm 2003.

(63) Nghề tính toán bảo hiểm (hay nghề thống kê bảo hiểm, nghề định phí bảo hiểm, chuyên gia tính toán bảo hiểm, chuyên gia thống kê bảo hiểm, chuyên gia phân tích bảo hiểm, hoặc chuyên gia phân tích thống kê) là một ngành nghề chuyên nghiệp giải quyết với những đo lường và quản lý về rủi ro và độ bất định (BeAnActuary 2011a) hoặc phân tích các hậu quả tài chính của rủi ro. Tên gọi của nghề này tương ứng với khoa học tính toán bảo hiểm. Các rủi ro có thể ảnh hưởng đến cả hai vế của bảng cân đối kế toán (balance sheet), và đòi hỏi quản lý tài sản, quản lý nợ phải trả (liability management), và kỹ năng định giá (BeAnActuary 2011b). Người thống kê bảo hiểm cung cấp báo cáo đánh giá các hệ thống an ninh tài chính (financial security systems), với sự tập trung vào tính phức tạp của nó, nội dung toán học và cơ chế của chúng (Trowbridge 1989, tr. 7)

(64) Seppuku (tiếng Nhật: 切腹, Hán Việt: thiết phúc, có nghĩa là “mổ bụng”) hay Harakiri là một nghi thức xưa của người Nhật. Theo nghi thức này, một samurai sẽ tự mổ bụng tuẫn tiết khi bị thất thủ hoặc khi chủ bị chết để tránh bị rơi vào tay quân thù và bị làm nhục.

Thời đấy, tự mổ bụng được thực hiện theo trình tự nghi thức. Một samurai được tắm rửa, mặc áo dài trắng, ăn thức ăn khoái khẩu và khi xong thì dụng cụ thực hiện nghi thức mổ bụng được đặt trên một cái đĩa của ông. Ông ăn mặc theo lễ nghi với cây kiếm đặt trước mặt và thường ngồi trên những tấm vải đặc biệt, người samurai này sẽ chuẩn bị cho cái chết của mình bằng cách viết một bài thơ từ thế cú. Với một người (kaishakunin, hay giới thác nhân – người sẽ chém đầu người samurai đã mổ bụng sau khi ông đã thực hiện xong nghi lễ sepukku) đứng cạnh bên, ông sẽ cởi áo kimono, lấy thanh kiếm ngắn wakizashi hay con dao (tantō) và đâm vào bụng, cắt theo một đường từ trái sang phải. Người kaishakunin sẽ thực hiện daki-kubi, đó là một nhát chém gần như đứt hẳn đầu của người Samurai (Vẫn còn 1 dải thịt mỏng gắn đầu với thân thể). Do đây là một kĩ thuật đòi hỏi sự chính xác cao, nên người làm việc này thường là 1 kiếm sĩ lão luyện. Thường 1 nhát chém hoàn hảo theo đúng nghi thức sẽ được thực hiện ngay sau khi thanh dao vừa ngập vào ổ bụng của người Samurai.

Người làm công việc chém đầu Samurai không phải luôn luôn nhưng thường là một người bạn. Nếu một người samurai bại trận được một ai đó tôn sùng, người đó sẽ tình nguyện trở thành Kaishakunin cho người Samurai với mong muốn được thể hiện niềm kính trọng của mình.

Một số Samurai lựa chọn cách chết đau đớn hơn trong nghi lễ này gọi là jūmonji-giri (十文字切り, nghĩa là “Cắt hình chữ thập”), khi đó, trong nghi lễ sẽ không có Kaishakunin để kết thúc nhanh chóng nỗi đau của người Samurai. Trong cách tự tử này, sau vết cắt đầu tiên, Samurai sẽ cắt vết thứ 2, đau đớn hơn nhiều, cắt dọc theo dạ dày. Một Samurai chấp nhận trở thành jumonji-giri sẽ phải chịu đựng một cái chết trong sự yên lặng bằng việc bị mất máu dần dần, đôi bàn tay ông ta sẽ che lấy khuôn mặt và ra đi một cách từ từ.

Cho tới những năm của thế kỷ 20, nước Nhật vẫn còn có người sử dụng hình thức tự tử bằng nghi thức seppuku này, trong đó có nhà văn Yukio Mishima – tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có cuốn Kim Các Tự. Vào năm 1970, ông cùng một người học trò đã thực hiện Seppuku công khai tại tổng hành dinh của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản sau 1 nỗ lực bất thành trong việc xúi giục lực lượng vũ trang tổ chức đảo chính.

(65) Quan niệm vô ngã trong tư tưởng Phật giáo: Vô ngã (無我, sa. anātman, pi. anattā), là một trong Ba pháp ấn (sa. trilakṣaṇa) (Tam Pháp Ấn) của sự vật theo Phật giáo. Chân lý Vô ngã là pháp ấn chỉ có trong Phật giáo, cho rằng, không có một Ngã (sa. ātman, pi. attā), một cái gì trường tồn, bất biến, cốt tuỷ, vững chắc, tồn tại nằm trong sự vật mà không phụ thuộc vào cái khác. Nghĩa là sự vật có mặt là do duyên sinh (tuỳ thuộc điều kiện) khởi phát, chứ sự vật không có quyền gì với sự sinh ra và sự hoại diệt của chính nó. Như thế, theo đạo Phật, cái ngã, cái “tôi” là không có mà chỉ là một tập hợp của Ngũ uẩn (sa. pañcaskandha), luôn luôn thay đổi, sinh diệt. Đọc thêm về chú thích 66.

(66) Chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ (tiếng Anh: Anarchist communism) hay còn gọi là Chủ nghĩa cộng sản tự do là một học thuyết của chủ nghĩa vô chính phủ, chủ trương thủ tiêu nhà nước, chủ nghĩa tư bản và tài sản tư nhân (nhưng vẫn giữ lại tài sản cá nhân), ủng hộ quyền sở hữu thông thường đối với phương tiện sản xuất, dân chủ trực tiếp và mạng lưới bình đẳng các tổ chức thiện nguyện cũng như các hội đồng người lao động với sự sản xuất và tiêu thụ dựa trên tiên chỉ: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.

(67) Pablo Ruiz Picasso (25/10/1881 – 8/4/1973), thường được biết tới với tên Pablo Picasso hay Picasso là một hoạ sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha. Tên đầy đủ của ông là Pablo Diego José Francisco de Paula Juan Nepomuceno María de los Remedios Cipriano de la Santísima Trinidad Clito Ruiz y Picasso. Picasso được coi là một trong những nghệ sĩ nổi bật nhất của thế kỷ 20, ông cùng với Georges Braque là hai người sáng lập trường phái lập thể trong hội hoạ và điêu khắc. Ông là một trong 10 hoạ sĩ vĩ đại nhất trong top 200 nghệ sĩ tạo hình lớn nhất thế giới thế kỷ 20 do tạp chí The Times, Anh, công bố.

(68) Kazimierz Dabrowski (1/9/1902 – 26/11/1980) là nhà tâm lý học và bác sĩ, chuyên gia điều trị tâm thần người Ba Lan.

Dabrowski là người đã phát triển học thuyết Tan rã tích cực (Positive Disintegration), mà mô tả sự phát triển của một con người diễn ra như thế nào như là kết quả của toàn bộ các trải nghiệm. “Sự tan rã” được dùng để chỉ những suy nghĩ thuần thục, và đó là một quá trình tích cực khi chuyển đổi tính cách của một con người sang một mức độ tiến bộ hơn.

Dabrowski đã cống hiến cả đời cho ngành tâm lý học. Ông thành lập một trung tâm điều trị ở Zagorze (gần Warsaw) dành cho những bệnh nhân mắc phải chứng bệnh rối loạn tâm thần sau khi trải qua những hoàn cảnh khó khăn trong đời sống. Những nghiên cứu mà ông có được ở nơi này đã cung cấp cho ông thông tin giúp hình thành nên quan điểm của ông.

(69) Ba Lan là một trong những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của Thế Chiến II. Đức Quốc xã bất ngờ tấn công Ba Lan vào ngày 1/9/1939 gọi là Chiến dịch Ba Lan (Polenfeldzug) với bí danh Kế hoạch Trắng (Fall Weiss) là sự kiện quân sự mở đầu cho Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 27 tháng Chín năm 1939, thủ đô Warszawa của Ba Lan chính thức bị quân Đức chiếm. Ngày 6 tháng Mười năm 1939, cuộc tấn công Ba Lan chấm dứt, lãnh thổ Ba Lan đã bị chiếm giữ bởi Đức Quốc xã, trong khi các vùng phía Đông được trả về cho Liên Xô. Trong suốt thời gian bị chiếm đóng, Ba Lan mất hơn 20% dân số – với gần toàn bộ dân số Do Thái tại nước này và một số đông người Cơ đốc giáo đã bị tiêu diệt, cuộc chiến tranh này cũng đánh dấu sự kết thúc của nền Cộng hoà Ba Lan lần thứ hai.

Một trong những điều nổi tiếng nhất về giai đoạn này phải nói tới Trại tập trung Auschwitz – một mạng lưới các trại tập trung và trại huỷ diệt do Đức Quốc xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính trong Thế Chiến II. Trại bao gồm Auschwitz I (trại đầu tiên), Auschwitz II-Birkenau (tổ hợp trại tập trung và trại huỷ diệt), Auschwitz III-Monowitz (trại lao động cung cấp nhân lực cho nhà máy của IG Farben), và 45 trại vệ tinh.

Auschwitz I ban đầu được xây dựng để giam giữ tù nhân chính trị Ba Lan, những người bắt đầu đến trại vào tháng Năm năm 1940. Đợt hành quyết tù nhân đầu tiên diễn ra vào tháng Chín năm 1941 và Auschwitz II-Birkenau đã tiến đến trở thành địa điểm thực thi chính của kế hoạch “Giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái”. Giai đoạn từ đầu năm 1942 đến cuối năm 1944, những chuyến tàu vận chuyển đã đưa người Do Thái từ khắp mọi vùng lãnh thổ châu Âu do Đức chiếm đóng đến các phòng hơi ngạt của Auschwitz, nơi họ bị giết bằng thuốc trừ sâu Zyklon B. Có ít nhất 1,1 triệu tù nhân đã bỏ mạng ở Auschwitz, khoảng 90% trong số đó là người Do Thái; tính ra thì cứ 6 người Do Thái bị giết trong vụ Holocaust thì 1 người là ở Auschwitz. Hầu hết những người không bị giết trong các phòng hơi ngạt đã chết vì đói, lao động quá sức, bệnh tật, hành quyết đơn lẻ, và các thí nghiệm y khoa.

Trong chiến tranh, trại có 7.000 cán bộ nhân viên đến từ tổ chức Schutzstaffel (SS). Khoảng 12% trong số này về sau đã bị kết án phạm phải những tội ác chiến tranh. Một số người, trong đó có sĩ quan chỉ huy Rudolf Höss, bị xử tử.

Ngày 27 tháng Giêng năm 1945, thời điểm mà các tù nhân còn lại trong trại được giải phóng, nay là ngày tưởng niệm Holocaust quốc tế (International Holocaust Remembrance Day). Trong những thập kỷ tiếp theo, những người sống sót như Primo Levi, Viktor Frankl, Elie Wiesel đã viết hồi ký về trải nghiệm của họ ở Auschwitz và khu trại đã trở thành biểu tượng chủ đạo của Holocaust. Vào năm 1947 Ba Lan thành lập một bảo tàng tại vị trí của Auschwitz I và II trước đây và đến năm 1979 trại đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới. (theo Wikipedia)

(70) Khủng hoảng về sự tồn tại (existential crisis) là thời điểm mà một cá nhân đưa ra câu hỏi về những nền tảng cơ bản của cuộc đời mình: liệu rằng cuộc đời này có ý nghĩa, mục đích, hay giá trị gì hay không. Vấn đề ý nghĩa và mục đích của sự tồn tại là chủ đề được các triết gia theo đuổi chủ nghĩa hiện sinh (quan niệm con người là hoàn toàn tự do và chịu trách nhiệm về hành động của mình) quan tâm.

(71) Nikola Tesla (10/7/1856 – 7/1/1943): nhà phát minh, nhà vật lý, kỹ sư cơ khí và kỹ sư điện người Mỹ gốc Serb. Ông sinh ra ở Smiljan, Đế quốc Áo, sau này trở thành công dân Hoa Kỳ. Tesla được biết đến với nhiều đóng góp mang tính cách mạng trong các lĩnh vực điện và từ trường trong cuối thế kỷ 19 đầu thế kỉ 20. Các phát minh của Tesla và các công trình lý thuyết đã làm nên cơ sở của hệ thống phát điện xoay chiều, bao gồm cả hệ thống phân phối điện nhiều pha và động cơ điện xoay chiều, giúp tạo ra Cách mạng công nghiệp lần 2. Vì tính cách lập dị và những tuyên bố kỳ lạ và khó tin về sự phát triển của khoa học kỹ thuật, Tesla bị cô lập và bị coi là một nhà bác học điên lúc cuối đời. Ông qua đời năm 86 tuổi trong một phòng khách sạn ở New York với một số tiền ít ỏi trong túi.

(72) Tối ưu hoá công cụ tìm kiếm, tiếng Anh: Search Engine Optimization, viết tắt: SEO, là một tập hợp các phương pháp nhằm nâng cao thứ hạng của một website trong các trang kết quả của các công cụ tìm kiếm (phổ biến nhất là Google). Các phương pháp đó bao gồm việc tối ưu hoá website (tác động mã nguồn HTML và nội dung website) và xây dựng các liên kết đến trang để các công cụ tìm kiếm chọn lựa trang web phù hợp nhất phục vụ người tìm kiếm trên Internet ứng với một từ khoá cụ thể được người dùng truy vấn.

(73) Ebola (tiếng Anh: Ebola virus, viết tắt: EBOV) là loại virus gây bệnh sốt xuất huyết ở người và các loài linh trưởng khác. EBOV là một trong nhóm 4 tác nhân gây bệnh nguy hiểm nhất theo Tổ chức Y tế Thế giới, Viện Y tế Hoa Kỳ/Viện Bệnh truyền nhiễm và Dị ứng Hoa Kỳ (National Institute of Allergy and Infectious Diseases), trong danh mục yếu tố khủng bố sinh học của Trung tâm kiểm soát và Phòng chống bệnh Hoa Kỳ (Centers for Disease Control and Prevention), và trong danh sách chất độc sinh học cần kiểm soát của Australia Group.

(74) Timothy “Tim” Ferriss (20/7/1977) là tác giả, doanh nhân và diễn giả người Mỹ. Anh là tác giả của những cuốn sách tự cải thiện bản thân có chủ đề “4 giờ,” đầu tiên là cuốn Tuần làm việc 4 giờ (The 4-Hour Workweek). Nhiều cuốn nằm trong danh sách sách bán chạy của tạp chí New York New York Times, Wall Street Journal, và USA Today.

Ferriss cũng là nhà đầu tư và cố vấn cho Facebook, Twitter, StumbleUpon, Evernote, và Uber, cùng nhiều công ty khác.

(75) Mặt trời xuất hiện lúc nửa đêm (midnight sun) là hiện tượng mặt trời không bao giờ lặn vào mùa hè tại Bắc cực. Khi ấy, hoàng hôn và bình minh cùng kết hợp tạo thành một chương trình biểu diễn màu sắc và ánh sáng tuyệt vời, kéo dài từ 8 đến 12 giờ đồng hồ. Ánh sáng trở nên lung linh và huyền ảo nhất vào lúc này, khi mặt trời hầu như không xuống quá thấp dưới đường chân trời và rồi mọc trở lại.

Các quốc gia, vùng lãnh thổ thường xuất hiện hiện tượng thiên nhiên này: Canada (Yukon, các vùng đất nằm ở phía Tây Bắc, và Nunavut), Greenland, Iceland, Phần Lan, Na Uy, Nga, Thuỵ Điển và Mỹ (Alaska).

Người ta thường dùng cụm từ ‘midnight sun’ nhưng nguyên gốc của cuốn này lại dùng từ ‘midnight sunset,’ phải chăng bạn Mark muốn ám chỉ các cuộc nhậu thâu đêm?

(76) Ben Affleck (tên khai sinh Benjamin Géza Affleck-Boldt, sinh ngày 15/8/1972) là một nhà biên kịch, đạo diễn, diễn viên người Mỹ và là anh trai của Casey Affleck. Ben Affleck nổi lên trong giai đoạn thập niên 1990, sau khi tham gia bộ phim Mallrats, sau đó anh dành giải Oscar cho kịch bản bộ phim Good Will Hunting. Affleck đã tham dự khá nhiều bộ phim có kinh phí lớn, ví dụ như Armageddon, Trân Châu Cảng, Changing Lanes, The Sum of All Fears và Daredevil. Tiện thể nói luôn, cái phim được nhắc đến ở trên là Armageddon được công chiếu vào năm 1998, anh vào vai A.J. Frost và đóng cặp với Liv Tyler.

(77) Mel Colm-Cille Gerard Gibson, (sinh ngày 3/1/1956) là diễn viên kiêm đạo diễn, nhà sản xuất, nhà biên kịch nổi tiếng người Mỹ. Ông sinh tại Peekskill, New York. Năm 12 tuổi, ông cùng cha mẹ chuyển đến sống tại Úc và học diễn xuất tại National Institute of Dramatic Art. Năm 1979, từ một diễn viên vô danh tên tuổi của Mel Gibson đã được thế giới biết đến qua thành công của hai sêri phim hành động Mad Max (Cảnh sát báo thù) và Lethal Weapon (Vũ khí sát thương). Năm 1995, sự nghiệp của ông bước sang một trang mới, Mel Gibson với vai trò là đạo diễn kiêm diễn viên chính của siêu phẩm điện ảnh Braveheart (Trái tim dũng cảm) đã nhận được hai giải Oscar danh giá cho hai hạng mục phim hay nhất và đạo diễn xuất sắc nhất.

Năm 2004, Mel Gibson tiếp tục cho ra tác phẩm điện ảnh gây xôn xao dư luận thế giới The Passion of the Christ (Cuộc khổ nạn của Chúa). Bộ phim kể về những giờ phút cuối cùng của Chúa Jesus. Với kinh phí đầu tư 30 triệu đô The Passion of the Christ mang về doanh thu hơn 611 triệu đô.

Năm 2006, một lần nữa, đạo diễn Mel Gibson khiến cho công chúng thế giới ngạc nhiên với một siêu phẩm tiếp theo - Apocalypto. Bộ phim điện ảnh dài 138 phút đem lại cho người xem cảm giác hồi hộp gay cấn cũng đồng thời ngỡ ngàng trước cuộc sống, cuộc chiến đấu của chàng thổ dân Jaguar Paw tộc Mesoamerica, đơn độc chạy trốn và rồi quay trở lại tấn công trả thù những kẻ săn người, thuộc tộc Aztec hùng mạnh nhất thời bấy giờ, đồng thời cũng là bộ tộc tàn ác vô cùng, đòi lại công lý và niềm kiêu hãnh cho bộ tộc của mình. Gay cấn từng giây, từng phút khiến cho Apocslypto lôi cuốn người xem tới khoảnh khắc cuối cùng.

(78) Aragorn là một nhân vật hư cấu của nhà văn J. R. R. Tolkien trong bộ huyền thoại vùng Trung Địa. Anh xuất hiện lần đầu trong The Fellowship of the Ring (Hiệp hội của nhẫn) và trở thành một nhân vật chính của bộ truyện The Lord of the Rings (Chúa tể của những chiếc nhẫn). Bộ truyện này đã được Nhã Nam dịch và phát hành gần đây.

(79) Jimmy Fallon và Drew Barrymore cùng diễn vai chính trong bộ phim Fever Pitch (Cơn sốt tình yêu) công chiếu năm 2005 được dựng dựa trên cuốn tự truyện cùng tên của nhà văn Nick Hornby.

Bộ phim kể về Ben Wrightman – giáo viên dạy toán trung học hiền lành, dễ thương pha chút trẻ con – một lần tình cờ gặp Lindsey Meeks – nhân viên tư vấn kinh doanh xinh đẹp, nhiều hoài bão. Họ lập tức vướng phải tiếng sét ái tình. Tuy yêu nhau say đắm nhưng tính tình hai người hoàn toàn trái ngược nhau. Trong khi Lindsey lúc nào cũng chỉ biết đến công việc thì mối quan tâm hàng đầu của Ben lại là bóng chày và đội bóng anh yêu thích: Red Sox. Những mâu thuẫn trong họ cứ thế nảy sinh và càng trở nên gay gắt hơn khi đội bóng “ruột” của Ben bắt đầu tham gia vào một giải đấu chính thức. Họ buộc phải đưa ra quyết định mang tính sống còn để làm sao có thể dung hoà được tình yêu công việc và niềm đam mê bóng chày của chàng trai.

(80) Thảm hoạ Hindenburg là sự kiện diễn ra vào ngày thứ Năm, mùng 6/5/ 1937 khi chiếc khinh khí cầu nổi tiếng LZ 129 Hindenburg bị bắt lửa tại cột mốc kéo và cháy rụi khi hạ cánh trong chuyến bay khởi hành từ Frankfurt, Đức tới trạm bay Lakehurst Naval ở Lakehurst, New Jersey, Mỹ. Trong số 97 người có trong tàu (36 hành khách và 61 người trong phi hành đoàn) thì có 35 người thiệt mạng, ngoài ra còn có một người nữa chết khi con tàu lao xuống đất. Nguyên nhân của vụ cháy tới ngày nay vẫn còn điều bí ẩn, cho dù đã có rất nhiều giả thiết được đưa ra nhằm giải thích lý do phát lửa và việc lửa lan sang phần nhiên liệu của tàu. Sự kiện này đã làm tiêu tan niềm tin của công chúng với những chiếc khí cầu khổng lồ, hành khách trở nên dè dặt và nghiêm khắc hơn và thảm hoạ Hindenburg đã chính thức đánh dấu sự kết thúc của kỷ nguyên hàng không khí cầu.

(81) Nguyên văn tác giả dùng từ “fuck”, vừa có nghĩa chỉ sự việc một cách thông tục vừa có nghĩa là cuộc giao hoan, ở đây tác giả ám chỉ cả 2 điều này.

(82) Ernest Becker (27/9/1924 –6/3/1974) là nhà văn hoá nhân loại học và tác giả người Mỹ gốc Do Thái. Ông nổi tiếng với cuốn sách The Denial of Death (tạm dịch: Sự phủ nhận của cái chết) về chủ đề tâm lý và triết học, đoạt giải Pulitzer vào năm 1974 – 2 tháng sau khi ông mất.

(83) Vua Lear (King Lear) là tên một vở kịch thuộc thể loại bi của William Shakespeare. Vở kịch nói về việc nhân vật chính dần dần hoá điên, sau khi ông vứt bỏ vương quốc/vương vị mình và truyền lại cho hai trong số ba người con gái của mình dựa trên những lời xu nịnh mà họ dành cho ông, khiến cho tất cả đều phải hứng chịu bi kịch. Vở kịch được viết dựa trên câu truyện dân gian về vị vua Ireland thuộc thời kỳ trước đế chế La Mã Leir của nước Anh.

(84) Chủ nghĩa khắc kỷ (chủ nghĩa Stoic, tiếng Hy Lạp: Στωικισμός) là một trường phái triết học Hellenis được Zeno thành Citium thành lập ở Athen vào thế kỷ 3 TCN. Trường phái khắc kỷ cho rằng mọi cảm xúc huỷ hoại đều bắt nguồn từ những sai lầm trong đánh giá, và một nhà hiền triết, người có “trí tuệ và đạo đức phi phàm” sẽ không phải trải qua những cảm xúc như vậy, bởi họ biết làm chủ cảm xúc và tình cảm của mình.

Những người theo trường phái khắc kỷ quan tâm về mối quan hệ giữa quyết định luận vũ trụ và sự tự do của con người, và họ có niềm tin rằng con người có thể đạt được tình trạng đạo đức bằng cách duy trì ý chí hoà hợp với thiên nhiên. Chính vì vậy, những người theo phái khắc kỷ giới thiệu triết lý của họ như là một lẽ sống, và họ coi biểu hiện rõ ràng nhất trong triết lý của một cá nhân không nằm ở lời nói mà thể hiện chính từ hành vi của con người đó.

(85) Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain; 30/11/1835 – 21/4/1910) là một nhà văn khôi hài, tiểu thuyết gia và là nhà diễn thuyết nổi tiếng của Mỹ. Ông sinh ra vào chính ngày sao chổi Halley xuất hiện năm 1835 và mất đúng vào lần sao chổi xuất hiện lần sau, năm 1910. Các tác phẩm nổi tiếng của ông có: Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer, Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn, Hoàng tử và kẻ khốn cùng, v.v.

(86) Sao chổi Halley, tên được đặt chính thức là 1P/Halley một sao chổi được đặt tên theo nhà vật lý thiên văn học người Anh Edmund Halley, là một sao chổi có thể nhìn thấy cứ mỗi 75 đến 76 năm. Nó là sao chổi nổi tiếng nhất trong các sao chổi theo chu kỳ. Dù trong mỗi thế kỷ đều có nhiều sao chổi có chu kỳ dài xuất hiện với độ sáng và ngoạn mục hơn nhưng sao chổi Halley là một ngôi sao chổi chu kỳ ngắn có thể thấy rõ bằng mắt thường và do đó, là sao chổi có thể nhìn thấy bằng mắt thường chắc chắn có thể trở lại trong một đời người. Sao chổi Halley xuất hiện lần cuối bên trong Hệ Mặt Trời vào năm 1986, và sẽ xuất hiện trở lại vào giữa năm 2061.

(87) Adrenaline, đôi khi gọi là “epinephrin” hay “adrenalin”, là một hormone. Nó là một catecholamine, một monoamine sympathomimetic thu được từ các amino acid phenylalanine và tyrosine. Gốc từ Latin ad+renes và gốc từ tiếng Hy Lạp epi+nephros cả hai đều có nghĩa là “trên/đến thận” (liên hệ đến tuyến thượng thận, tuyến nằm trên thận và tiết ra epinephrine). Epinephrine đôi khi được viết tắt thành epi hay EP trong biệt ngữ y khoa.

Đây là một hoóc-môn có tác dụng trên thần kinh giao cảm, được sản xuất bởi cơ thể khi bạn sợ hãi, tức giận hay thích thú, cái làm cho nhịp tim của bạn đập nhanh hơn và cơ thể chuẩn bị cho những phản ứng chống lại nguy hiểm.

(88) Hiệu ứng cánh bướm (tiếng Anh: Butterfly effect) là một cụm từ dùng để mô tả khái niệm trong lý thuyết hỗn loạn về độ nhạy cảm của hệ đối với điều kiện gốc (sensitivity on initial conditions). Vốn được sử dụng ban đầu như một khái niệm khoa học đơn thuần, hiệu ứng cánh bướm sau đó đã được nhắc đến nhiều lần trong văn hoá đương đại, đặc biệt là trong các tác phẩm có đề cập tới quan hệ nhân quả hoặc nghịch lý thời gian.

Năm 1972, nhà khí tượng học và chuyên gia về lý thuyết hỗn loạn Edward Norton Lorenz đã giới thiệu trước Hiệp hội phát triển khoa học Hoa Kỳ (American Association for the Advancement of Science) một bài nói chuyện có tựa đề Predictability: Does the Flap of a Butterfly’s Wings in Brazil Set off a Tornado in Texas? (Tính dự đoán được: Liệu con bướm đập cánh ở Brasil có thể gây ra cơn lốc ở Texas?). Trước đó vào năm 1961, trong khi mô phỏng một dự đoán về thời tiết trên máy tính, Lorenz đã lỡ nhập số liệu là 0,506 thay vì 0,506127 như dự định, và do đó đã thu được kết quả dự đoán thời tiết hoàn toàn khác so với tính toán ban đầu. Từ kết quả này Lorenz đã đề cập tới sự ràng buộc chặt chẽ của hệ vật lý đối với các điều kiện ban đầu trong bài nói chuyện. Theo đó một cái đập cánh của con bướm nhỏ bé có thể gây ra sự thay đổi (dù rất nhỏ) trong điều kiện gốc của hệ vật lý, dẫn đến kết quả là những thay đổi lớn về thời tiết như cơn lốc tại một địa điểm cách nơi con bướm đập cách hàng vạn cây số. Cũng theo Lorenz thì tỉ lệ động năng giữa một cái đập cánh của con bướm với toàn bộ cơn lốc là quá nhỏ, vì thế con bướm chỉ có vai trò không đáng kể trong những tính toán lý thuyết hỗn loạn cho hệ vật lý, nói cách khác thì nếu một cái đập cánh của con bướm có thể gây ra cơn lốc, thì một cái đập cánh khác cũng có thể dập tắt nó, và bên cạnh cái đập cánh của con bướm thì còn có vô vàn hoạt động khác có động năng đáng kể hơn rất nhiều có thể ảnh hưởng tới thời tiết.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3