Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 03

Sáng hôm sau, anh đến văn phòng sớm gần hai tiếng. Chưa có ai khác đi làm cả, nhiều khả năng là vẫn an toàn trùm chăn trên giường, vô ưu vô tư.

Anh tới bàn của mình, ngồi xuống, bật máy lên. Màn hình xanh lục quen thuộc không làm được gì để xoa dịu anh.

Anh cố gắng hoàn thành nhiều việc hết sức có thể, không ngừng cảm nhận đồng hồ treo trên cao kêu tích tắc từng giây từng phút.

Văn phòng bắt đầu đông người vào lúc tám giờ kém mười lăm. Bà Jenkins đến nơi vào đúng tám giờ, gót giày lách cách trên sàn. Linus trượt xuống trên ghế, nhưng anh vẫn cảm nhận được ánh mắt của bà ta dán lên mình.

Anh cố làm việc. Anh thật sự đã cố. Những dòng chữ xanh nhòe đi trên màn hình trước mặt anh. Ngay cả cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH cũng không thể khiến anh bình tâm lại.

Đúng tám giờ bốn mươi lăm, anh đứng dậy khỏi ghế.

Người ngồi xung quanh quay sang nhìn anh chằm chằm.

Anh lờ họ đi, khó nhọc nuốt khan khi cầm cặp lên và đi xuống các dãy bàn.

“Xin lỗi,” anh lẩm bẩm với từng cái bàn mình va phải. “Xin lỗi. Thật xin lỗi quá. Có phải bàn được kê ngày càng sát nhau không hay chỉ mình tôi thấy vậy nhỉ? Xin lỗi. Rất xin lỗi.”

Bà Jenkins đứng ở ngưỡng cửa văn phòng mình khi anh ra khỏi phòng làm việc, Gunther đứng cạnh bà ta, lạo xạo ngòi bút chì dài trên bảng kẹp.

Văn phòng của Ban Quản Lý Thượng Tầng nằm ở tầng năm của Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu. Anh từng nghe tin đồn về tầng năm và hầu như chúng đều khiến người ta hết sức sợ hãi. Bản thân anh chưa từng lên đó, nhưng anh cho rằng ít nhất một vài trong số những tin đồn đó phải đúng sự thực chứ.

Anh chỉ có một mình trong thang máy khi bấm cái nút anh chưa từng nghĩ mình sẽ bấm.

Số năm vàng lấp lánh.

Thang máy bắt đầu đi lên. Ruột gan Linus dường như đã ở lại tầng hầm. Đó là lần đi thang máy lâu nhất đời Linus, kéo dài ít nhất là hai phút. Còn tệ hơn nữa khi thang lại dừng ở tầng một, mở ra và bắt đầu chật ních người. Họ yêu cầu lên tầng hai và ba và bốn, nhưng không ai hỏi lên tầng năm.

Một nhúm người ra khỏi thang ở tầng hai. Nhiều hơn nữa ra ở tầng ba. Và khi lên tầng bốn thì số người còn lại đi ra. Họ quay lại liếc anh đầy tò mò. Anh cố mỉm cười nhưng tin chắc rằng nụ cười ấy hiện lên mặt sẽ giống nhăn nhó hơn.

Anh lại một mình khi thang máy bắt đầu đi lên tiếp.

Tới khi cửa mở ra ở tầng năm, anh đã đầm đìa mồ hôi.

Cuộc đời rõ ràng càng tệ bạc hơn với anh khi thang máy mở ra trước một hành lang dài, lạnh, sàn lát đá phiến, những ngọn đèn bằng vàng trên tường tỏa ánh sáng mù mờ. Ở một đầu hành lang là khoang chứa thang máy, nơi anh đang đứng, ở đầu kia là một tấm kính kéo mành cạnh hai cánh cửa gỗ to đùng. Trên đỉnh cửa là một tấm biển bằng kim loại:

BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG

CHỈ VÀO KHI CÓ HẸN

“Được rồi, bạn già ơi,” anh thì thầm. “Mày làm được mà.”

Chân anh không nhận được lời nhắn nhủ ấy. Chúng vẫn vững vàng bám dính lên sàn.

Cửa thang máy bắt đầu đóng lại. Anh mặc kệ chúng. Thang máy không nhúc nhích.

Trong khoảnh khắc ấy, Linus vô cùng thật lòng suy nghĩ tới việc về lại tầng một, rời tòa nhà DICOMY và có lẽ là cứ bước đi tới khi không đi nổi nữa, chỉ để xem xem mình sẽ đi đến đâu.

Nghe có vẻ hay đấy.

Thay vào đó, anh lại ấn nút số năm.

Cửa thang mở ra.

Anh húng hắng ho. Âm thanh ấy vang vọng dọc hành lang.

“Không có thời gian để hèn nhát đâu,” anh khẽ mắng mỏ bản thân. “Ngẩng cao đầu lên nào. Biết đâu được, có khi lại được thăng chức thì sao. Thăng chức lên cao kìa. Một vị trí có lương bổng khá hơn và mày cuối cùng cũng sẽ có được kỳ nghỉ mày luôn mơ tưởng. Cát trên bãi biển. Màu xanh của nước biển. Mày không ước mình được đến đó ư?”

Có chứ. Anh da diết ước ao điều ấy.

Linus bắt đầu chậm rãi đi dọc hành lang. Mưa tạt vào khung cửa sổ phía bên trái anh. Ánh sáng của chiếc đèn tường bên phải hơi nhấp nháy. Gót đôi giày lười của anh cọ lên sàn ken két. Anh chỉnh lại cà vạt.

Khi anh đến được đầu kia của hành lang, bốn phút đã trôi qua. Dựa theo đồng hồ đeo tay của anh, bây giờ là chín giờ kém năm.

Anh thử mở cửa.

Cửa bị khóa.

Cửa sổ phía bên cửa ra vào có tấm chắn kim loại đang hạ xuống ở mặt trong. Có một tấm biển kim loại ngay cạnh đó, với cái nút nhỏ ở một bên mép.

Anh cân nhắc chóng vánh trước khi ấn nút. Tiếng rè rè ầm ĩ vang lên phía bên kia tấm chắn. Anh đợi.

Anh có thể thấy hình ảnh phản chiếu của mình trên cửa sổ. Người đang nhìn lại anh trông tròn mắt và sững sờ. Anh vội vã vuốt phẳng tóc mình ở nơi nó đã bắt đầu chĩa ra bên đầu như mọi khi hay bị. Chẳng giúp ích gì mấy. Anh chỉnh thẳng cà vạt, ưỡn thẳng vai, hóp bụng lại.

Tấm chắn kim loại được kéo lên.

Ở phía bên kia là một người phụ nữ trẻ với vẻ mặt chán chường đang nhai kẹo cao su giữa đôi môi đỏ chóe. Cô gái thổi ra một bong bóng màu hồng, nó bục ra rồi lại bị hút ngược vào miệng. Cô ta nghiêng đầu, những lọn tóc xoăn vàng nảy lên trên vai. “Giúp gì cho anh đây?” cô ta hỏi.

Anh cố lên tiếng, nhưng không âm thanh nào phát ra. Anh hắng giọng và thử lại. “Vâng. Tôi có hẹn vào lúc chín giờ.”

“Với ai vậy?”

Đó là một câu hỏi thú vị, một câu hỏi mà anh không có câu trả lời. “Tôi… cũng không rõ lắm.”

Cô Kẹo Cao Su nhìn anh chằm chằm. “Anh có hẹn, nhưng không biết là với ai?”

Nghe có vẻ đúng đấy. “Vâng?”

“Tên gì?”

“Linus Baker.”

“Dễ thương đấy,” cô ta nói, gõ bộ móng được sơn sửa hoàn hảo trên bàn phím. “Linus Baker. Linus Baker. Linus…” Mắt cô gái mở to. “Ô! Tôi hiểu rồi. Vui lòng chờ chút nhé.”

Cô ta lại sập tấm chắn xuống. Linus chớp mắt, không chắc mình nên làm gì. Anh đứng đợi.

Một phút trôi qua.

Rồi lại một phút.

Rồi lại một phút nữa.

Rồi lại…

Tấm chắn lại được kéo lên. Cô Kẹo Cao Su giờ trông có hứng thú với anh hơn nhiều. Cô ta vươn mình tới trước đến khi khuôn mặt gần như ép lên tấm kính chắn giữa họ. Hơi thở của cô ta khiến cửa kính khẽ mờ sương. “Họ đang đợi anh đấy.”

Linus lùi lại. “Ai cơ?”

“Tất cả mọi người,” Cô vừa nói vừa nhìn anh từ đầu đến chân. “Toàn bộ Ban Quản Lý Thượng Tầng.”

“Ồ!” Linus yếu ớt nói. “Thật vui mừng xiết bao. Và chúng ta vẫn chắc chắn rằng người họ muốn là tôi chứ?”

“Anh là Linus Baker, không phải à?”

Anh hy vọng là vậy, vì anh không biết cách làm bất kỳ con người nào khác. “Là tôi.”

Một hồi chuông nữa vang lên, và anh nghe thấy tiếng cạch từ hai cánh cửa bên cạnh. Chúng mở ra trên cặp bản lề êm ru. “Vậy thì đúng rồi, anh Baker ạ,” cô ta nói với anh, má hơi phồng lên vì miếng kẹo cao su. “Anh chính là người họ muốn gặp. Và nếu là anh thì tôi sẽ nhanh chân lên đấy. Ban Quản Lý Thượng Tầng không thích phải chờ đợi đâu.”

“Phải rồi,” anh nói. “Trông tôi thế nào?” Anh hóp bụng vào thêm đôi chút.

“Trông như anh không biết mình đang làm gì ấy,” cô ta nói rồi lại sập tấm chắn xuống.

Linus da diết nhìn lại về phía những thang máy ở đầu kia hành lang.

Bạn không ước mình được đến đây ư? Chúng hỏi anh.

Có chứ. Ước ao vô cùng.

Anh rời khỏi cửa sổ, bước về phía hai cánh cửa đang mở.

Bên trong là một căn phòng hình tròn, trên trần là mái vòm ốp kính. Có một đài phun ở chính giữa phòng, một bức tượng đá tạc hình người đàn ông khoác áo choàng, nước chảy liên tục thành dòng từ hai bàn tay vươn ra của ông ta. Ông ta đang nhìn lên trần bằng đôi mắt lạnh lẽo, xám xịt. Quanh ông, bám víu lên chân, là những đứa trẻ nho nhỏ bằng đá, nước xối tung tóe lên đầu chúng.

Một cánh cửa mở ra bên phải Linus. Cô Kẹo Cao Su bước ra khỏi buồng lễ tân. Cô ta vuốt phẳng váy đầm, chóp chép nhai kẹo. “Trông anh thấp hơn lúc nhìn qua cửa kính đấy,” cô ta nói với anh.

Linus không biết phải trả lời thế nào, nên anh không nói gì cả.

Cô ta thở dài. “Vui lòng đi theo tôi.” Cô ta di chuyển như một chú chim, bước những bước nhỏ và nhanh nhẹn. Đi nửa đường ngang qua phòng rồi cô ta mới quay lại nhìn anh. “Đó không phải một lời đề nghị đâu nhé.”

“Vâng,” Linus nói, suýt nữa thì tự vấp vào chân mình khi vội vã bắt kịp cô ta. “Xin lỗi nhé. Tôi… Tôi chưa từng tới đây trước kia.”

“Rõ ràng.”

Anh nghĩ mình đang bị sỉ nhục, nhưng không hiểu ra được là theo cách nào. “Cuộc họp có… tất cả mọi người tham gia ư?”

“Lạ lắm, phải không?” cô ta lại thổi kẹo cao su, bong bóng lần này vỡ ra đầy thanh nhã. “Và lại là vì anh, giữa bao nhiêu nhân viên. Tới giây phút này tôi mới biết anh có tồn tại đấy.”

“Tôi nghe câu đó nhiều rồi.”

“Không nghĩ ra được tại sao luôn.”

Đúng vậy, anh chắc chắn là bị sỉ nhục rồi. “Họ là những người như thế nào? Tôi mới chỉ thấy họ khi họ phát cho tôi món khoai tây lổn nhổn.”

Cô Kẹo Cao Su đột ngột khựng lại và ngoái đầu qua vai nhìn anh. Linus nghĩ có khi cô ta còn xoay đầu được một vòng nếu quyết tâm làm vậy. “Món khoai tây lổn nhổn à?”

“Cho bữa trưa của mấy ngày lễ ấy?”

“Tôi đã làm món khoai đó. Từ nguyên liệu tươi sống đấy.”

Linus tái mét. “À thì, tôi… Đây là vấn đề khẩu vị thôi… Tôi tin là cô…”

Cô Kẹo Cao Su hừ một tiếng rồi lại đi về phía trước.

Ngay từ bước đầu tiên Linus đã thất bại.

Họ tới một cánh cửa khác ở phía bên kia mái vòm. Cửa này màu đen với một biển tên vàng gắn ở gần trên đỉnh. Biển này không có tên. Cô Kẹo Cao Su vươn tay ra và gõ một móng tay lên cửa ba lần.

Một khắc trôi qua, rồi một khắc nữa, và rồi…

Cánh cửa chậm rãi mở ra.

Bên trong khá tối.

Thậm chí là tối đen như mực.

Kẹo Cao Su bước qua một bên và xoay người đối mặt với anh. “Mời anh đi trước.”

Anh ngó vào bóng tối. “Hừm, à thì, có lẽ chúng ta có thể dời lịch. Tôi bận lắm, tôi tin là cô biết vậy. Tôi có nhiều báo cáo phải hoàn thành…”

“Vào đi, anh Baker,” một giọng nói âm vang qua ngưỡng cửa rộng mở.

Cô Kẹo Cao Su mỉm cười.

Linus đưa tay lên quệt ngang lông mày. Suýt nữa thì anh đã đánh rơi cặp. “Vậy thì, tôi nghĩ là mình phải vào thôi.”

“Có vẻ vậy đấy,” cô Kẹo Cao Su nói.

Và anh làm đúng như vậy.

Đáng lẽ ra anh phải biết trước cánh cửa sẽ sập lại sau lưng, nhưng anh vẫn giật mình, suýt nữa thì nhảy dựng lên. Anh ôm cặp trước ngực như thể nó có thể bảo vệ anh. Ở trong bóng tối khiến người ta mất phương hướng và anh tin chắc rằng đây là một cái bẫy, và anh sẽ dành phần đời còn lại của mình lang thang xung quanh trong mù lòa. Việc này cũng gần tệ bằng việc bị sa thải vậy.

Nhưng rồi ánh sáng bắt đầu bừng lên dưới chân anh, chiếu rọi một con đường trước mặt. Thứ ánh sáng này vàng ấm và dịu dàng, như một con đường xây bằng gạch. Anh bước một bước ướm chừng cách xa khỏi cửa. Khi không vấp phải thứ gì, anh lại bước tiếp.

Ánh sáng dẫn anh đi xa hơn anh tưởng trước khi tụ thành một vùng tròn dưới chân. Anh dừng lại, không chắc mình phải đi đâu nữa. Anh hy vọng rằng mình sẽ không phải chạy trốn thứ khủng khiếp gì đó.

Một ánh sáng khác, loại này sáng hơn nhiều, bật lên trên cao. Linus ngẩng lên, nheo mắt nhìn nó. Trông nó như ánh đèn sân khấu chiếu xuống anh.

“Anh có thể đặt cặp xuống,” một giọng nói trầm thấp vang lên từ đâu đó trên đầu anh.

“Như thế này cũng được rồi ạ,” Linus nói, siết chặt cái cặp.

Rồi, như thể một cái công tắc đã được gạt lên, nhiều ánh sáng hơn bắt đầu tỏa ra từ phía trên, chiếu rọi những khuôn mặt của bốn người mà Linus nhận ra là Ban Quản Lý Thượng Tầng. Họ ở trên đỉnh một bức tường đá khổng lồ cách xa Linus, từ chỗ cao nhòm xuống với đủ kiểu biểu cảm thích thú.

Có ba người đàn ông và một phụ nữ, và dù Linus đã sớm biết tên họ từ khi mới đi làm ở DICOMY nhưng vào lúc này đây, đánh chết anh cũng không nhớ ra nổi những cái tên đó. Cái đầu anh đã đưa ra quyết định rằng nó đang gặp phải những sự cố kỹ thuật và không hiện ra cái gì ngoài tuyết trắng tơi xốp.

Anh nhìn từng người trong số họ, bắt đầu từ trái sang phải, vừa nhìn vừa gật đầu trong khi cố giữ cho vẻ mặt mình không tỏ rõ thái độ.

Tóc người phụ nữ được cắt theo kiểu bob ngắn và bà ta cài một cái trâm lớn có hình con bọ hung, lớp vỏ giáp óng ánh ngũ sắc.

Một người đàn ông trong số đó bị hói, hai bên má xệ xuống. Ông ta xì mũi vào chiếc khăn mùi xoa, hắng giọng như thể có chút đờm trong họng.

Người đàn ông thứ hai gầy như que củi. Linus nghĩ ông ta sẽ biến mất nếu quay nghiêng. Ông ta đeo cặp kính quá khổ so với mặt, mắt kính giống như hình bán nguyệt.

Người cuối cùng trẻ hơn những người khác, có thể trong tầm tuổi của Linus, dù thật khó mà biết được. Tóc anh ta gợn sóng, và trông anh ta đẹp trai đến đáng sợ. Linus gần như ngay lập tức nhận ra anh ta là người luôn phân phát món thịt xông khói khô quắt với nụ cười trên môi.

Anh ta là người mở miệng đầu tiên. “Cảm ơn anh vì đã tham dự cuộc họp này, anh Baker.”

Miệng Linus khô khốc. Anh liếm môi. “Không… có gì ạ?”

Người phụ nữ vươn tới trước. “Hồ sơ cá nhân của anh ghi rằng anh đã làm ở Sở được mười bảy năm rồi.”

“Vâng, thưa bà.”

“Và trong suốt thời gian đó, anh đã giữ nguyên chức vụ hiện tại của mình.”

“Vâng, thưa bà.”

“Tại sao lại thế?”

Vì anh không có triển vọng trong việc gì khác và không khát khao gì vị trí Quản lý. “Tôi thích công việc mình làm.”

“Thật không?” bà ta hỏi, nghiêng đầu.

“Đúng vậy.”

“Tại sao?”

“Tôi là nhân viên công tác xã hội,” anh nói, ngón tay trượt nhẹ trên mặt cặp. “Tôi không biết có chức vụ nào quan trọng hơn không.” Anh trợn tròn mắt. “Dĩ nhiên là ngoài công việc các vị làm. Tôi sẽ không mạo muội nghĩ rằng…”

Người đàn ông đeo kính lật giở tập giấy trước mặt mình. “Tôi có sáu bản báo cáo gần đây nhất của anh ở đây, anh Baker ạ. Anh có muốn biết tôi thấy được điều gì không?”

Không, Linus không muốn. “Mời ngài nói ạ.”

“Tôi thấy một người vô cùng kỹ lưỡng. Không vớ vẩn gì hết. Khách quan đến mức giật mình.”

Linus không rõ đó có phải một lời khen ngợi hay không. Nghe rõ ràng không giống khen ngợi. “Một nhân viên công tác xã hội phải duy trì một mức xa cách nhất định,” anh nghiêm túc đọc thuộc lòng.

Má Xệ khụt khịt. “Thế à? Câu đó từ đâu ra vậy? Nghe quen lắm.”

“Câu đó ở trong cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH,” Điển Trai nói. “Và tôi mong là ông nhận ra mới phải. Ông viết gần hết cuốn đó mà.”

Má Xệ xì mũi vào khăn tay. “Quả vậy. Tôi biết mà.”

“Tại sao cần phải duy trì một mức độ xa cách nhất định?” người phụ nữ hỏi, vẫn nhìn chằm chằm xuống anh.

“Vì sẽ không ổn nếu tôi trở nên gắn bó với những đứa trẻ tôi làm việc cùng,” Linus nói. “Tôi đến đó là để đảm bảo rằng những trại trẻ mồ côi tôi điều tra được gìn giữ ở trạng thái tốt nhất, không hơn. Đời sống của lũ trẻ là quan trọng, nhưng là dưới tư cách tập thể. Việc tương tác cá nhân không được tán thành. Làm vậy có thể khiến cái nhìn của tôi trở nên không chính xác.”

“Nhưng anh có phỏng vấn lũ trẻ mà,” Điển Trai nói.

“Vâng,” Linus công nhận. “Tôi có làm vậy. Nhưng người ta có thể chuyên nghiệp khi làm việc với thanh thiếu niên có phép thuật mà.”

“Anh đã bao giờ đề xuất đóng cửa trại trẻ mồ côi trong mười bảy năm đi làm chưa, anh Baker?” Người đàn ông đeo kính hỏi.

Họ hẳn phải biết câu trả lời rồi chứ. “Rồi ạ. Năm lần.”

“Tại sao?”

“Điều kiện ở đó không an toàn.”

“Vậy thì, anh có quan tâm đấy chứ.”

Linus bị họ làm cho bối rối. “Tôi chưa từng nói là tôi không quan tâm. Tôi đơn thuần chỉ làm những gì người ta yêu cầu ở tôi mà thôi. Tạo dựng gắn kết khác với biết cảm thông chứ. Những đứa trẻ này… Chúng không có người thân nào khác. Đó là lý do tại sao từ đầu chúng đã ở trong trại mồ côi. Chúng không nên đặt đầu xuống gối về đêm cùng cái bụng rỗng, hay lo lắng về việc bị vắt kiệt sức lao động. Chỉ vì những đứa trẻ mồ côi này phải được tách riêng khỏi những đứa trẻ bình thường, không có nghĩa là chúng nên bị đối xử theo cách nào khác. Mọi đứa trẻ, dù… tính tình của chúng ra sao hay chúng có thể làm được những gì, đều phải được bảo vệ bằng mọi giá.”

Má Xệ ho sùng sục. “Anh thật sự nghĩ như vậy à?”

“Vâng.”

“Và những đứa trẻ trong các trại trẻ mồ côi mà anh đóng cửa sau này ra sao?”

Linus chớp mắt. “Đó là vấn đề của bên Quản lý. Tôi đưa ra đề xuất, và người Quản lý xử lý những việc tiếp theo. Rất có khả năng là chúng được đưa vào những ngôi trường mà DICOMY điều hành.”

Điển Trai ngả người ra sau trên ghế, nhìn những người quanh mình. “Anh này hoàn hảo đấy.”

“Tôi đồng ý,” Má Xệ nói. “Thật sự chẳng có lựa chọn nào khác cho một việc… nhạy cảm đến vậy.”

Người đàn ông đeo kính nhìn xuống Linus. “Anh có hiểu kín đáo là gì không, anh Baker?”

Linus cảm thấy bị xúc phạm. “Mỗi ngày tôi đều làm việc với những thanh thiếu niên được bảo mật,” anh phản bác, gay gắt hơn dự định. “Tôi giống như một căn hầm vậy. Không có gì thoát ra được đâu.”

“Và có vẻ như cũng không có gì đi vào được,” người phụ nữ nói. “Anh này được việc đấy.”

“Thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi có thể hỏi chính xác thì các ông bà đang nói về chuyện gì được không? Tôi được việc gì cơ?”

Điển Trai đưa tay xoa mặt. “Những gì chúng tôi nói sau đây sẽ ở nguyên trong căn phòng này, anh Baker ạ. Anh hiểu chứ? Vụ việc này được bảo mật ở cấp độ bốn đấy.”

Linus lắp bắp hít một hơi. Cấp độ bốn là mức bảo mật cao nhất. Anh đã biết cấp này tồn tại trên lý thuyết, nhưng không biết rằng người ta thật sự dùng đến nó. Anh mới chỉ nhận một vụ cấp độ ba một lần trước kia. Đó là vụ phiền phức nhất trần đời. Có một cô bé trong trại trẻ mồ côi hóa ra là một Banshee, một nữ thần báo tử. DICOMY đã được triệu tập khi cô bé bắt đầu nói với những đứa trẻ khác rằng chúng sẽ chết, vấn đề hóa ra là cô bé đã đúng, hiển nhiên rồi. Hiệu trưởng của trại trẻ mồ côi đó đã quyết định đem bọn trẻ ra làm một phần nghi thức hiến tế dị giáo. Linus đã chạy thoát chỉ trong gang tấc cùng lũ trẻ và cái mạng của anh. Sau vụ đó anh được cho hai ngày nghỉ phép, khoảng thời gian nghỉ ngơi dài nhất anh từng có trong nhiều năm liền.

“Tại sao lại là tôi?” Anh hỏi, giọng không hơn gì tiếng thì thầm.

“Vì thật sự chẳng có ai khác chúng tôi tin tưởng được,” người phụ nữ đơn giản nói.

Lời ấy lẽ ra nên khiến lòng Linus tràn đầy cảm giác tự hào. Ngược lại, anh không thấy gì ngoài nỗi khiếp sợ cuồn cuộn trong bụng.

“Hãy nghĩ rằng nhiệm vụ này giống một cuộc kiểm tra hơn,” người đàn ông đeo kính nói. “Chúng tôi không nhận được tin báo về việc làm sai trái nào, nhưng trại trẻ mồ côi anh sẽ đến thăm… Nơi đó đặc biệt lắm, anh Baker ạ. Trại trẻ đó không theo lẽ thường, và sáu đứa trẻ sống ở đó khác với tất cả những gì anh từng thấy trước kia, có đứa còn kỳ lạ hơn cả những đứa còn lại. Chúng… nhiều vấn đề lắm.”

“Nhiều vấn đề? Nói vậy tức là…”

“Việc của anh sẽ là đảm bảo mọi chuyện vẫn đi đúng hướng,” Điển Trai nói, trên mặt là nụ cười nho nhỏ. “Việc này rất quan trọng, anh hiểu không? Hiệu trưởng của trại trẻ mồ côi đặc biệt này, ngài Arthur Parnassus, chắc chắn là đủ tiêu chuẩn, nhưng chúng tôi có chút… quan ngại. Sáu đứa trẻ kia thuộc thể loại dữ dằn hơn và chúng tôi phải đảm bảo rằng ngài Parnassus vẫn tiếp tục đủ sức quản lý chúng. Một đứa đã đủ chật vật rồi, vậy sáu đứa thì sao?”

Linus xóc tung não mình. Anh chắc chắn mình đã nghe tên mọi hiệu trưởng trong vùng, nhưng… “Tôi chưa từng nghe tới ngài Parnassus nào cả.”

“Đúng vậy, tôi nghĩ là anh chưa từng nghe đâu,” người phụ nữ nói. “Nhưng đó là lý do tại sao trường hợp này được bảo mật cấp độ bốn. Nếu anh từng nghe qua, thì chứng tỏ là chúng tôi đã bị rò rỉ thông tin. Chúng tôi không làm việc được nếu có rò rỉ, anh Baker ạ. Anh hiểu không? Những chỗ rò rỉ cần phải bị bít lại. Một cách mau lẹ.”

“Vâng, vâng,” anh vội vã nói. “Dĩ nhiên rồi. Tôi sẽ không bao giờ…”

“Dĩ nhiên là không rồi,” Má Xệ nói. “Đó là một phần lý do tại sao anh được chọn. Một tháng, anh Baker ạ. Anh sẽ ở một tháng trên đảo nơi có trại trẻ kia. Chúng tôi mong đợi báo cáo mỗi tuần. Bất kỳ việc gì đáng báo động cũng phải được báo lại ngay lập tức.”

Linus thấy mắt mình lồi cả ra. “Một tháng ư? Tôi không thể đi một tháng được. Tôi còn công việc mà!”

“Khối lượng hồ sơ hiện tại của anh sẽ được phân cho người khác,” người đàn ông đeo kính nói. “Thật ra, việc phân phát vốn đang được thực hiện rồi.” Ông ta lật sang một trang giấy khác. “Và trong đây ghi là anh hoàn toàn đơn thân. Không vợ. Không con. Không ai nhớ mong khi anh phải vắng mặt trong một khoảng thời gian kéo dài nào đó.”

Những lời đó khiến anh nhức nhối hơn mức bình thường. Tất nhiên anh biết những chuyện đó nhưng việc người ta ngang nhiên phơi bày sự thật ấy đến vậy khiến tim anh loạn nhịp. Nhưng vẫn còn… “Tôi nuôi mèo mà!”

Điển Trai cười khẩy. “Mèo là loài vật độc hành, anh Baker ạ. Tôi tin chắc rằng nó còn không biết là anh vắng mặt cơ.”

“Báo cáo của anh sẽ được chuyển tới Ban Quản Lý Thượng Tầng,” người phụ nữ nói. “Cậu Werner sẽ giám sát những báo cáo này, dù rằng chúng tôi đều sẽ góp mặt.” Bà ta gật đầu về phía Điển Trai. “Và chúng tôi mong đợi rằng chúng sẽ kỹ càng như những báo cáo anh đã làm khi trước. Thật ra, chúng tôi đòi hỏi rằng chúng phải như vậy. Có thể kỹ càng hơn nữa nếu anh thấy cần thiết.”

“Bà Jenkins…”

“Sẽ được thông báo về nhiệm vụ đặc biệt của anh,” Điển Trai, hay còn gọi là ngài Werner, trấn an anh. “Dù chi tiết sẽ được giữ ở mức tối thiểu. Hãy nghĩ về việc này như một lần thăng chức, anh Baker ạ. Một lần thăng chức mà tôi tin rằng mất rất lâu mới tới được với anh.”

“Tôi không có quyền lên tiếng trong việc này ư?”

“Hãy nghĩ về việc này như một lần thăng chức bắt buộc,” ngài Werner sửa lời. “Chúng tôi mong đợi những điều lớn lao ở anh. Và ai mà biết được nhiệm vụ này có thể đưa anh đến đâu nếu mọi chuyện đều ổn thỏa? Xin đừng làm chúng tôi thất vọng nhé. Giờ thì, cứ thoải mái dùng thời gian còn lại trong ngày để sắp xếp đồ đạc. Chuyến tàu của anh khởi hành ngày mai, vào lúc sáng sớm. Anh có câu hỏi nào không?”

Cả tá luôn. Anh có cả tá câu hỏi kìa. “Có chứ! Thế còn…”

“Tuyệt vời,” ngài Werner vỗ tay nói. “Tôi biết chúng tôi có thể trông cậy vào anh mà, anh Baker. Chúng tôi mong chờ được nghe tin của anh về tình hình trên đảo. Nơi ấy hẳn sẽ thú vị lắm, nói không ngoa đâu nhé. Giờ thì, cả cuộc nói chuyện dông dài này làm cổ tôi khô ran. Tôi thật lòng nghĩ đã đến lúc uống trà rồi. Thư ký của chúng tôi sẽ dẫn anh ra. Rất vui vì được gặp anh.”

Ban Quản Lý Thượng Tầng đồng loạt đứng lên, cúi chào anh, và rồi mọi ánh đèn tắt ngúm.

Linus ré lên. Trước khi anh kịp bắt đầu mò mẫm trong bóng tối, một nguồn sáng lại bừng lên trên đầu tường. Anh chớp mắt ngước lên. Ngài Werner đang nhìn xuống anh, trên mặt là một biểu cảm kỳ dị. Những người khác đã đi rồi.

“Còn gì khác ư?” Linus lo lắng hỏi.

Ngài Werner nói, “Cẩn thận đấy, anh Baker ạ.”

Lời này nghe rõ là đáng ngại. “Cẩn thận ư?”

Ngài Werner gật đầu. “Anh phải chuẩn bị tinh thần. Tôi nhấn mạnh bao nhiêu cũng không đủ rằng nhiệm vụ này quan trọng đến mức nào. Đừng bỏ sót chi tiết nào, dù trông nó có nhỏ nhặt hay không đáng kể ra sao.”

Linus xù lông. Nghi ngờ sự sẵn lòng của anh là một chuyện, nhưng nghi ngờ sự kỹ càng trong các báo cáo của anh là một chuyện hoàn toàn khác. “Tôi luôn…”

“Hãy cứ cho rằng tôi rất quan tâm tới những gì anh sẽ tìm ra,” ngài Werner nói, lờ đi cơn phẫn nộ lắp bắp của Linus. “Nó vượt lên trên cả lòng hiếu kỳ đơn thuần.” Anh ta mỉm cười, dù ý cười hoàn toàn không chạm tới mắt. “Tôi không muốn phải thất vọng đâu, anh Baker ạ. Làm ơn đừng khiến tôi thất vọng nhé.”

“Tại sao lại là nơi đó?” anh hỏi, có phần vô vọng. “Điều gì đã khiến các người chú ý tới trại trẻ mồ côi này và cần một nhân viên công tác xã hội đến giám sát? Vị hiệu trưởng đã làm gì với…”

“Đúng hơn là việc anh ta đã không làm,” Ngài Werner nói. “Báo cáo hàng tháng của anh ta khá… thiếu sót, đặc biệt là khi đối chiếu với những đứa trẻ mà anh ta chịu trách nhiệm. Chúng tôi cần biết nhiều hơn, anh Baker ạ. Mệnh lệnh chỉ có tác dụng khi mọi chuyện hoàn toàn minh bạch. Nếu không có được sự minh bạch, chúng tôi sẽ đối mặt với nguy cơ loạn lạc. Còn việc gì nữa không?”

“Gì cơ? Có chứ. Tôi…”

“Tốt,” ngài Werner nói. “Chúc anh may mắn. Tôi nghĩ anh sẽ cần điều ấy đấy.”

Và cứ thế, đèn lại tắt ngúm.

“Ôi trời!” Linus nói.

Ánh sáng vàng trên sàn một lần nữa sáng lên.

“Anh xong hết chưa đấy?” một giọng nói vang lên sát bên tai anh.

Anh hoàn toàn không hét lên nhé, dù bằng chứng cho thấy điều ngược lại.

Cô Kẹo Cao Su đứng đằng sau anh, nhai kẹo chóp chép. “Lối này, anh Baker.” Cô ta xoay người, váy tung bay ở đầu gối và sải bước về phía lối ra.

Linus nhanh chóng đi theo cô ta, chỉ ngoái lại nhìn vào bóng tối đúng một lần.

Cô ta đợi anh ngay ngoài phòng, chân gõ gõ đầy vẻ sốt ruột. Tới lúc Linus đi qua cánh cửa để mở anh đã hoàn toàn hết hơi. Anh không dám chắc được những gì vừa xảy ra không phải là một cơn mê sảng. Anh rõ ràng cảm thấy hơi sảng. Có thể cô Kẹo Cao Su là ảo ảnh tạo ra bởi một chứng bệnh chưa được chẩn đoán trước kia.

Một ảo ảnh vô cùng hống hách, chắc chắn là vậy, vì cô ta nhét một túi hồ sơ dày cộp vào tay anh, khiến anh lóng ngóng và suýt nữa đánh rơi cặp. “Vé tàu ở trong này,” cô ta nói. “Thêm vào đó, anh sẽ tìm thấy một phong bì niêm phong chứa những hồ sơ anh sẽ cần tới. Tôi không biết chúng nói về cái gì, và tôi không quan tâm. Tôi được trả lương để không tọc mạch, nếu anh tin nổi việc đó. Anh không được mở phong bì tới khi xuống tàu ở đích đến.”

“Tôi nghĩ tôi phải ngồi xuống đã,” Linus yếu ớt nói.

Cô ta nheo mắt nhìn anh. “Dĩ nhiên anh có thể ngồi. Chỉ là hãy đảm bảo anh ngồi xuống ở một nơi cách xa chỗ này. Chuyến tàu của anh rời ga vào bảy giờ sáng mai. Đừng đến muộn. Ban Quản Lý Thượng Tầng sẽ rất không hài lòng nếu anh đi muộn.”

“Tôi phải về lại bàn mình, và…”

“Tuyệt đối không được, anh Baker ạ. Họ lệnh cho tôi bảo anh rằng anh phải rời khỏi tòa nhà ngay lập tức. Không được nói chuyện với ai. Tôi không nghĩ đó sẽ là một việc khó với anh, nhưng tôi vẫn phải nói vậy.”

“Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra nữa,” anh nói. “Tôi còn không dám chắc rằng mình đang ở đây kìa.”

“Phải rồi,” cô Kẹo Cao Su nói, giọng đầy cảm thông. “Nghe có vẻ như một cuộc khủng hoảng hiện sinh đây. Có lẽ anh nên cân nhắc việc bị khủng hoảng ở chỗ nào khác đi.”

Họ đang đứng trước cửa thang máy. Anh còn không biết họ đã di chuyển. Cửa trượt ra trước mặt anh. Cô Kẹo Cao Su đẩy anh vào thang, và với tay vào ấn nút tầng một. Cô ta bước ra khỏi thang máy. “Cảm ơn vì đã ghé thăm văn phòng của Ban Quản Lý Thượng Tầng,” cô ta nói, giọng tươi rói. “Chúc anh một ngày nhiệm màu.”

Cửa thang đóng lại trước khi anh kịp nói thêm lời nào khác.

Trời vẫn đang mưa. Anh hầu như chẳng để ý.

Phút trước, anh đang đứng trước Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu, phút sau anh đã bước trên lối mòn lát đá dẫn lên hiên nhà mình.

Anh không biết làm sao mình về được đến đây, nhưng đó dường như là chuyện vặt vãnh nhất trong các mối lo âu của anh.

Anh giật mình tỉnh khỏi cơn mơ khi bà Klapper gọi với sang chỗ anh. “Cậu về nhà sớm, cậu Baker ạ. Cậu bị đuổi việc à? Hay có khi cậu nhận được tin xấu gì về sức khỏe và cần thời gian để hòa hợp với tương lai mịt mù của mình?” Khói từ tẩu thuốc lượn lờ quanh bộ tóc búi phồng của bà. “Tôi rất tiếc khi nghe tin ấy. Người ta sẽ nhớ cậu khủng khiếp luôn.”

“Chưa chết đâu,” anh gắng gượng nói ra.

“Ồ! Quả là đáng tiếc, tôi thấy vậy đấy. Vậy thì chỉ còn tình huống bị sa thải. Cậu bé tội nghiệp. Cậu sẽ sống tiếp thế nào đây? Đặc biệt là trong nền kinh tế này. Tôi nghĩ cậu sẽ phải bán nhà và tìm một căn hộ thảm hại nào đó trong thành phố thôi.” Bà già lắc đầu. “Cuối cùng cậu có lẽ sẽ bị giết hại mất thôi. Tỷ lệ tội phạm đang gia tăng, cậu biết mà.”

“Cháu không bị sa thải!”

Bà già cười khẩy. “Tôi không tin.”

Linus lắp bắp.

Bà cụ vươn mình tới trước trên cái ghế bập bênh. “Cậu biết không, cháu trai tôi đang tìm thư ký riêng để làm việc ở văn phòng kế toán của nó. Đây có thể là cơ hội của cậu đấy, cậu Baker ạ. Tôi tin là mình đã đọc những câu chuyện bắt đầu y hệt như vậy. Hãy suy nghĩ việc này đi. Vào ngay lúc này đây đời cậu đang chạm đáy, và cậu cần phải bắt đầu lại từ đầu, và điều ấy dẫn cậu đi tìm tình yêu đích thực của đời mình. Câu chuyện này gần như tự hiện ra rồi kia kìa!”

“Ngày tốt lành nhé, bà Klapper!” Linus hô lên khi lật đật bước lên bậc thang.

“Suy nghĩ việc này đi!” bà già hò hét theo lưng anh. “Nếu mọi việc suôn sẻ, hai ta có thể là một gia đình…”

Anh sập cửa lại sau lưng.

Calliope ngồi ở vị trí thường ngồi, đuôi giật giật, có vẻ không ngạc nhiên khi thấy anh về sớm.

Linus mềm nhũn tựa lên cửa. Chân anh khuỵu xuống, và anh trượt xuống thảm.

“Mày biết không,” anh bảo con mèo, “Tao không biết liệu ngày hôm nay của mình có tốt đẹp không nữa. Không, tao nghĩ hôm nay hoàn toàn không tốt đẹp chút nào.”

Calliope theo thói quen chỉ kêu rừ rừ.

Người và mèo cứ giữ nguyên tư thế ấy suốt một lúc lâu.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3