Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 04
Toa tàu vắng dần khi đi vào vùng nông thôn. Hành khách lên xuống tàu nhìn chằm chằm người đàn ông có hơi luộm thuộm ngồi ở ghế 6A cùng cái lồng nhựa lớn đặt trên ghế trống bên cạnh với vẻ tò mò không che đậy. Trong lồng, một con mèo to đùng xấu xa lườm nguýt tất cả những người cúi xuống nựng nó. Một đứa trẻ suýt nữa thì mất ngón tay khi nó cố nhét tay vào giữa các nan lồng.
Người đàn ông, anh Linus Baker ngụ ở số 86 Hermes Way, hầu như chẳng hề để ý.
Đêm qua anh ngủ không ngon giấc, trằn trọc trở mình trên giường trước khi bỏ cuộc và quyết định tốt hơn là nên dành thời gian đi qua đi lại trong phòng khách. Hành lý của anh, một cái va li cũ kỹ có một bánh xe bị gãy, đặt ở gần cửa, cười nhạo anh. Anh đã sắp xếp nó trước khi cố gắng ngủ, vì chắc chắn rằng sáng hôm sau mình sẽ không có thời gian.
Hóa ra anh lại có tất cả thời gian trên thế gian này, vì giấc ngủ vẫn né tránh anh.
Tới khi lên tàu vào lúc sáu rưỡi, đầu óc anh đã mụ mị, quầng thâm dưới mắt hiện rõ, miệng trễ xuống. Anh nhìn thẳng về phía trước, một tay đặt lên trên cái lồng có Calliope bên trong đang ì xèo giận dữ. Cô ả chưa bao giờ thích xê dịch, nhưng anh không có lựa chọn nào khác trong vấn đề này. Anh đã tính đến việc nhờ bà Klapper chăm sóc con mèo khi anh vắng mặt, nhưng thảm họa với bọn sóc rất có thể đã phá hỏng mọi khả năng rằng Calliope sẽ nguyên vẹn sống qua tháng đầu tiên.
Anh hy vọng rằng không có đứa nào trong bọn trẻ bị dị ứng.
Nước mưa tràn xuống cửa sổ khi đoàn tàu xình xịch chạy qua những cánh đồng trống không và những khu rừng với những thân cổ thụ vĩ đại. Đến khi đã ở trên tàu được gần tám tiếng, anh mới nhận ra xung quanh thật im ắng.
Quá mức im ắng.
Anh ngẩng lên từ cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH mang từ nhà đi.
Anh là người duy nhất còn lại trong toa tàu.
Anh đã không để ý khi người cuối cùng xuống tàu.
“Hừm,” anh tự nhủ. “Nếu mình bỏ lỡ trạm dừng thì không phải là quá tuyệt vời sao? Không biết con tàu này sẽ đi xa đến mức nào nhỉ. Có lẽ nó sẽ đi mãi đi mãi, không bao giờ tới được điểm cuối.”
Dù thế nào thì Calliope cũng không có ý kiến gì về chuyện này.
Anh bắt đầu lo lắng rằng anh quả thật đã bỏ lỡ trạm dừng của mình (Linus tuyệt đối là một người hay lo âu thái quá) thì một tiếp viên mặc bộ đồng phục gọn gàng trượt mở cánh cửa ở cuối toa. Cậu ta đang khẽ ngân nga một mình nhưng khựng lại khi để ý thấy Linus. “Xin chào,” cậu ta thân thiện nói. “Tôi cứ ngỡ không có ai khác ở đây. Anh hẳn đã đi một chặng đường dài lắm vào ngày thứ bảy đẹp trời này.”
“Tôi có vé đây,” Linus nói. “Nếu cậu cần kiểm tra.”
“Xin phép anh. Anh đi đâu đấy?”
Trong chốc lát, Linus không nghĩ ra được. Anh với tay vào trong áo khoác tìm vé, cuốn sách dày cộp trên đùi suýt nữa thì rơi xuống sàn. Tấm vé hơi nhàu nhĩ, và anh thử vuốt phẳng nó trước khi đưa ra. Tiếp viên mỉm cười với anh trước khi nhìn xuống vé. Cậu ta khẽ huýt sáo. “Marsyas. Điểm cuối tuyến này.” Cậu ta lấy kẹp bấm vé. “À, vậy thì, có tin tốt đây. Hai bến nữa là anh tới nơi rồi. Thật ra, nếu anh… À phải vậy rồi, nhìn kìa.” Cậu ta ra hiệu về phía cửa sổ.
Linus quay đầu sang, và hơi thở tắc nghẹn trong cổ anh.
Cứ như là mây giông đã vươn xa hết mức có thể rồi. Bầu trời âm u xám xịt chuyển sang một màu xanh rực rỡ và tuyệt vời mà Linus chưa từng thấy trước đây. Mưa ngừng lại khi họ ra khỏi vùng bão và đi vào vùng nắng. Anh nhắm mắt lại trong chốc lát, cảm nhận hơi ấm xuyên qua kính cửa phả lên mặt mình. Anh không nhớ được lần cuối mình cảm thấy nắng chiếu trên da thịt là khi nào. Anh lại mở mắt, và đó là lúc anh thấy nơi ấy, ở đằng xa.
Có một màu xanh ngát. Màu xanh tươi tắn và xinh đẹp của những thảm cỏ gợn sóng và những đốm hóa ra là hoa nhí màu hồng, tím và vàng. Hoa cỏ dần chìm vào cát trắng. Và bên ngoài cát trắng là biển xanh.
Anh hầu như chẳng để tâm khi cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH rơi xuống sàn tàu cùng tiếng thụp ầm ĩ.
Bạn không ước mình được đến đây ư?
“Kia là biển ư?” Linus thì thầm.
“Là biển đấy,” tiếp viên nói. “Khung cảnh thật tuyệt vời, không phải sao? Thế nhưng, anh phản ứng cứ như chưa từng… Này, trước đây anh chưa bao giờ nhìn thấy biển cả à?”
Linus lắc đầu nguầy nguậy. “Chỉ trong tranh ảnh mà thôi. Biển rộng hơn những gì tôi tưởng tượng rất nhiều.”
Cậu tiếp viên bật cười. “Và kia chỉ là một góc nhỏ của nó thôi. Tôi cho rằng anh sẽ được thấy rộng hơn một chút khi xuống tàu. Có một hòn đảo gần ngôi làng đó. Hãy bắt phà để ra đó nếu anh nhất quyết muốn vậy. Hầu hết mọi người thì không.”
“Tôi sẽ ra đó,” Linus nói, vẫn nhìn chằm chằm mặt biển thấp thoáng kia.
“Và chúng ta có ai ở đây nhỉ?” cậu tiếp viên hỏi, cúi mình qua Linus hướng về phía cái lồng.
Calliope rít lên.
Cậu ta mau chóng đứng dậy. “Tôi nghĩ tôi sẽ mặc kệ nó vậy.”
“Có lẽ như vậy là tốt nhất.”
“Hai bến nữa nhé, thưa ngài.” Cậu tiếp viên nói, đi về phía cánh cửa ở đầu bên kia của toa tàu. “Hãy tận hưởng chuyến thăm thú của mình nhé!”
Linus hầu như chẳng nghe thấy tiếng cậu ta rời đi.
“Nơi ấy thật sự ở đằng kia,” anh lặng lẽ nói. “Biển thật sự, thật sự ở kia kìa. Mình chưa từng nghĩ…” Anh thở dài. “Có lẽ sau cùng nhiệm vụ này cũng không khó nhằn lắm nhỉ.”
Nhiệm vụ này không khó nhằn.
Còn tệ hơn cả khó nhằn.
Nhưng Linus không biết điều ấy ngay tức thì. Giây phút bước xuống khỏi tàu, một tay cầm lồng mèo, tay kia cầm hành lý, anh ngửi thấy mùi muối trong không khí và nghe tiếng mòng biển gáy ở trên cao. Làn gió thổi tung tóc anh, và anh quay mặt về phía mặt trời. Anh để mình hít thở trong chốc lát, đắm mình trong ấm áp. Chỉ tới khi chuông trên tàu leng keng và tàu bắt đầu xình xịch rời đi, anh mới nhìn ra xung quanh.
Anh đang đứng trên một sân ga tôn nền. Trước mặt anh là vài băng ghế kim loại đặt dưới một phần mái che đua ra. Mái được sơn sọc xanh, trắng. Men theo rìa sân ga và trải dài tới hết tầm nhìn của anh là cỏ lau ven biển mọc trên những đụn cát. Anh nghe thấy tiếng giống như tiếng sóng xô bờ ở đằng xa. Anh chưa từng thấy khung cảnh nào trông rực rỡ đến vậy. Cứ như thể nơi này chưa từng có mây đen.
Đoàn tàu biến mất sau khúc quanh, và Linus Baker nhận ra anh đã hoàn toàn một mình ở đây. Có một con đường lát đá viên nhỏ chạy vào giữa những đụn cát, nhưng Linus không thấy được nó dẫn tới đâu. Anh hy vọng rằng mình sẽ không phải đi bộ theo đường này, trong khi mang vác hành lý và một con mèo cáu kỉnh.
“Chúng ta nên làm gì bây giờ?” Anh băn khoăn thành tiếng.
Không một ai trả lời, và có lẽ như vậy là tốt nhất. Nếu có ai đó trả lời, có khi anh sẽ…
Tiếng reng reng ầm ĩ khiến anh giật mình tỉnh khỏi suy tư. Anh ngẩng phắt đầu dậy.
Ở đằng kia, treo cạnh sân ga, là một cái điện thoại màu cam chói rực.
“Tao có nên nhấc máy không?” anh hỏi Calliope, nghiêng đầu về phía cửa lồng.
Calliope quay hẳn người lại, chĩa mông vào mặt anh.
Anh đoán đó là câu trả lời tốt nhất mình có được.
Anh bỏ hành lý tại chỗ và đi về phía điện thoại. Anh đặt cái lồng xuống trong bóng râm. Anh nhìn chằm chằm cái điện thoại đang đổ chuông một lát trước khi xốc lại tinh thần và nhấc ống nghe lên.
“Xin chào?”
“À, cuối cùng cũng nghe máy,” một giọng nói trả lời anh. “Cậu tới muộn.”
“Thế à?”
“Đúng vậy. Tôi đã gọi bốn lần trong vòng một tiếng rồi. Vì không biết chắc được là cậu có thật sự đến đây hay không, nên tôi không muốn làm một chuyến rời đảo cho tới khi chắc chắn rằng cậu sẽ ở đây.”
“Bà đang gọi cho Linus Baker, đúng không?”
Người phụ nữ cười khẩy. “Tôi còn gọi cho ai khác được nữa?”
Anh thấy nhẹ cả người. “Tôi là Linus Baker đây.”
“Cậu được lắm.”
Linus cau mày. “Sao cơ ạ?”
“Một tiếng nữa tôi sẽ có mặt ở đó, cậu Baker ạ.” Anh nghe thấy tiếng thì thầm trên nền phía sau. “Người ta bảo tôi rằng khi đã đến đây thì cậu có một cái phong bì cần phải mở. Tốt nhất là cậu nên làm vậy. Mọi chuyện sẽ rõ ràng hơn nếu cậu làm vậy.”
“Làm sao bà biết được…”
“Chao xìn, cậu Baker. Lát nữa gặp lại nhé.”
Cuộc gọi kết thúc, và anh bị bỏ lại với tiếng bíp dài của điện thoại.
Anh nhìn chằm chằm ống nghe trước khi treo nó về đúng vị trí. Anh lại nhìn nó thêm một lát trước khi lắc đầu.
“Giờ, vậy thì,” anh vừa nói với Calliope vừa bực bội ngồi xuống băng ghế. Anh kéo va li về phía mình. “Nào ta cùng xem tất cả những giấu giấu giếm giếm này là gì, nhỉ?”
Calliope ngó lơ anh.
Anh kéo mở khóa hành lý một khoảng đủ để với tay vào trong lấy cái phong bì mình đã đặt lên trên cùng. Phong bì khá dày, gần như bục ra ở các mép. Dấu niêm phong ở mặt sau bằng sáp màu đỏ máu, có chữ DICOMY đóng lên đó. Anh cạy niêm phong ra, những mảnh sáp vỡ vụn xuống đùi anh và nảy xuống đất.
Anh lôi ra một tập giấy, được buộc vào với nhau bởi một đai da.
Trên cùng là một lá thư gửi cho anh, được đánh máy gọn gàng sạch đẹp.
SỞ PHỤ TRÁCH THANH THIẾU NIÊN NHIỆM MÀU
VĂN PHÒNG BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG
Anh Baker,
Anh đã được lựa chọn để đi làm nhiệm vụ quan trọng nhất trong các nhiệm vụ. Xin nhắc lại với anh, đây là nhiệm vụ được bảo mật CẤP ĐỘ BỐN. Bất kỳ thành phần nào lan truyền thông tin cho những người không thuộc cấp độ yêu cầu sẽ phải nhận hình phạt từ sa thải ngay lập tức tới mười năm tù.
Anh sẽ tìm thấy bảy tập hồ sơ, đính kèm theo đây.
Sáu tập là của những đứa trẻ ở Trại trẻ mồ côi Đảo Marsyas.
Tập thứ bảy là của Hiệu trưởng Arthur Parnassus.
Anh không được chia sẻ bất kỳ nội dung nào của những hồ sơ này với cư dân của Trại trẻ mồ côi Đảo Marsyas trong mọi trường hợp. Thông tin này chỉ dành riêng cho anh mà thôi.
Trại trẻ này khác với tất cả những trại trẻ mà anh từng ghé thăm, anh Baker ạ. Anh cần phải làm hết sức mình để bảo vệ bản thân. Anh sẽ ở trong nhà khách trên đảo, và chúng tôi đề xuất khóa hết cửa và cửa sổ về đêm để tránh bị… quấy nhiễu.
“Ôi trời,” Linus thì thào.
Công việc của anh ở Marsyas là rất quan trọng. Báo cáo của anh sẽ cung cấp cho chúng tôi những thông tin cần thiết để xem xét liệu trại trẻ này có tiếp tục mở cửa được không, hay cần phải bị đóng cửa mãi mãi. Chúng tôi đã tin tưởng giao cho Arthur Parnassus một trách nhiệm khổng lồ, nhưng còn phải xem xét xem liệu sự tín nhiệm đó còn được bảo đảm hay không. Căng mắt căng tai ra nhé, anh Baker. Phải luôn luôn như vậy. Chúng tôi trông đợi sự trung thực nổi tiếng của anh. Nếu có điều gì đó trông bất thường, anh phải báo lại cho chúng tôi. Không có gì quan trọng hơn việc đảm bảo mọi chuyện được công khai minh bạch.
Và dĩ nhiên là cũng đảm bảo rằng lũ trẻ được an toàn nữa. An toàn đối với nhau, và đối với bản thân chúng. Đặc biệt là một đứa trẻ. Hồ sơ của cậu bé là tập đầu tiên anh sẽ thấy.
Chúng tôi mong chờ những bản báo cáo phi thường kỹ lưỡng của anh.
Thân mến,
CHARLES WERNER
BAN QUẢN LÝ THƯỢNG TẦNG
“Giờ thì mình đã dây vào cái chuyện quái quỷ gì thế này?” Linus thì thầm khi một cơn gió khác khiến lá thư trong tay anh phấp phới.
Anh đọc lại lá thư một lần nữa, cố gắng nhìn ra hàm ý trong đó, nhưng chỉ thấy thêm nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời.
Anh gấp lá thư lại, đút vào túi áo ngực trước khi nhìn tập hồ sơ trong tay. “Không lúc nào bằng ngay lúc này, tao thấy vậy,” anh bảo Calliope. “Để xem việc này là bí mật lớn đến nhường nào. Tao tin chắc rằng toàn bộ chuyện này đều bị thổi phồng lên quá mức. Càng hy vọng lắm thì càng thất vọng nhiều thôi.”
Anh lật mở tập hồ sơ đầu tiên.
Đính ở trên cùng là tấm ảnh chụp một cậu bé có lẽ tầm sáu, bảy tuổi. Thằng bé đang mỉm cười có phần ranh ma. Nó mất hai cái răng cửa, đầu bù tóc rối, chĩa ra mọi hướng, và mắt nó…
À thì, trông đôi mắt thằng bé như thể nó bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng red-eye, khi đèn chụp lóe lên quá nhanh nên đồng tử không phản ứng kịp. Một vòng xanh viền quanh đồng tử đỏ. Trông rõ là rợn tóc gáy, nhưng trước kia Linus đã thấy hiệu ứng này nhiều rồi. Chỉ là do ánh sáng mà thôi. Tất cả chỉ có vậy thôi.
Ở dưới bức ảnh, bằng phông chữ vuông vức, là một cái tên.
LUCY.
“Một cậu bé tên Lucy à,” Linus nói. “Đây chắc chắn là trường hợp đầu tiên mình biết. Không hiểu tại sao họ lại chọn… cái tên… Lucy…”
Từ cuối cùng tắc nghẹn tuôn khỏi miệng anh.
Ở dưới, viết bằng tiếng Anh rõ ràng mạch lạc, chính là lý do tại sao.
Hồ sơ ghi:
TÊN: LUCIFER (BIỆT DANH LUCY)
TUỔI: SÁU TUỔI, SÁU THÁNG, SÁU NGÀY (VÀO THỜI ĐIỂM BÁO CÁO)
MÀU TÓC: ĐEN
MÀU MẮT: XANH/ĐỎ
MẸ: KHÔNG RÕ (ĐƯỢC CHO LÀ ĐÃ MẤT)
CHA: ÁC QUỶ
PHÂN LOẠI THANH THIẾU NIÊN NHIỆM MÀU: KẺ PHẢN CHÚA
Linus Baker lăn đùng ra xỉu.
“Đ…đi,” anh lầm bầm khi cảm thấy có gì đó vỗ nhẹ lên má mình. “Chưa đến giờ ăn sáng đâu, Calliope.”
“Vậy thì thật tốt quá,” một giọng nói rõ ràng không thuộc về Calliope vang lên. “Vì bây giờ là buổi chiều. Trừ khi người thành phố ăn sáng muộn. Làm sao tôi biết được. Tôi thường tránh xa những chỗ như vậy. Quá ồn ào với tôi.”
Linus mở mắt, chậm rãi chớp chớp.
Một người phụ nữ nhòm xuống anh, sấp bóng dưới ánh nắng.
Linus nhanh chóng bật dậy. “Tôi đang ở đâu thế này!”
Người phụ nữ bước lùi lại, trên mặt là vẻ thích thú thản nhiên. “Nhà ga Marsyas, dĩ nhiên là vậy. Một chỗ kỳ quặc để ngủ, nhưng tôi nghĩ ngủ ở đây cũng ngon như ngủ ở mọi chỗ khác mà thôi.”
Linus chống tay đứng dậy khỏi nền sân ga. Anh cảm thấy người đầy bụi bẩn và có hơi khó chịu. Đầu anh nhức nhối, và có vẻ như anh đã tích tụ cả một lớp cát ở mặt sau người. Anh vừa phủi bụi trên người vừa hoang mang nhìn quanh. Calliope ngồi trong lồng, đuôi giần giật trong lúc nhìn anh đầy cảnh giác. Hành lý của anh đặt ngay cạnh cô ả.
Và ở đó, trên băng ghế anh mới ngồi, là một tập hồ sơ.
“Đây là tất cả đồ của cậu à?” người phụ nữ hỏi, và Linus lại chú ý tới bà. Ngay lập tức anh thấy lo lắng khi hoàn toàn không thể đoán được tuổi của bà. Tóc bà như một đám mây trắng bồng bềnh đậu trên đầu. Những bông hoa tươi thắm đã được cài lên đó. Nước da bà sẫm màu và xinh đẹp, nhưng chính đôi mắt mới là thứ khiến Linus hoang mang nhất. Đó là đôi mắt của ai đó già hơn nhiều so với cái tuổi mà phần còn lại của ngoại hình nói lên. Hẳn là do ánh nắng chói chang thôi, nhưng trông chúng gần như mang màu tím. Anh không nghĩ ra được tại sao mình thấy người phụ nữ này trông thật quen mắt.
Bà mặc một cái áo mỏng xổ bông, rộng rãi trùm lên người. Quần bà màu be và dài tới giữa bắp chân. Bà đi chân trần.
“Bà là ai vậy?” Anh hạch hỏi.
“Bà Chapelwhite, dĩ nhiên rồi,” bà nói, như thể lẽ ra anh phải biết bà. “Người trông coi đảo Marsyas.”
“Người trông coi,” anh lặp lại.
“Đây là toàn bộ hành lý cậu mang theo à?” bà lại hỏi.
“Vâng, nhưng mà…”
“Đời cậu cậu lo thôi,” bà nói. Anh đứng đần người khi bà xô qua anh, nhấc va li của anh lên như thể trong đó không có gì ngoài lông vũ. Anh đã toát hết mồ hôi khi bê nó lên tàu, nhưng bà dường như không gặp phải vấn đề ấy. “Thu thập giấy tờ và con mèo khổng lồ của cậu đi, cậu Baker. Tôi không thích lề mề đâu, và cậu đã đến muộn hơn tôi tưởng rồi. Tôi có những việc khác phải lo, cậu biết đấy.”
“Đợi đã nào,” anh mở miệng, nhưng bà lờ anh đi, di chuyển về phía bậc thang ở mép sân ga. Bà duyên dáng đi xuống cầu thang, như thể đang giẫm lên không khí. Chỉ tới lúc đó anh mới để ý thấy chiếc ô tô nhỏ đang chờ dưới đường. Mui xe có vẻ như đã bị xén bớt, khiến hai băng ghế lộ thiên. Là một chiếc xe mui trần, dù anh chưa bao giờ thật sự tận mắt thấy chiếc nào.
Anh nghiêm túc suy nghĩ về việc túm Calliope và bỏ chạy theo đường tàu.
Thay vào đó, anh thu thập hồ sơ và xách lồng lên, đi theo người phụ nữ kỳ lạ.
Tới khi anh ra đến xe thì bà đã xếp hành lý của anh vào cốp. Bà liếc anh, rồi liếc cái lồng. “Chắc cậu không muốn nhét thứ đó ra sau xe đâu nhỉ?”
“Chắc chắn là không,” anh nói, có hơi bực bội. “Như vậy thì thật ác quá.”
“Phải rồi,” bà lẩm bẩm. “Được thôi. Vậy thì cậu sẽ phải đặt nó lên đùi đấy. Hoặc chúng ta có thể buộc nó lên nắp ca-pô, nếu cậu thấy làm vậy tốt hơn.”
Anh thấy như bị xúc phạm. “Con mèo sẽ giận điên lên đấy.”
Bà Chapelwhite nhún vai. “Tôi tin là nó giận rồi sẽ hết thôi.”
“Tôi không buộc mèo lên ca-pô đâu!”
“Tùy cậu thôi. Lên xe đi, cậu Baker. Chúng ta phải nhanh lên. Tôi đã dặn Merle là chúng ta sẽ quay lại sớm thôi.”
Đầu Linus quay mòng mòng. “Merle à?”
“Ông lái phà,” bà nói, mở cửa trèo vào xe. “Ông ta sẽ đưa chúng ta ra đảo.”
“Tôi còn chưa quyết định liệu mình có muốn ra đảo hay không mà.”
Bà nheo mắt nhìn anh. “Vậy thì tại sao cậu lại ở đây?”
Anh lắp bắp. “Đấy là… Người ta bảo… đây không phải là…”
Bà với tay lên trên táp lô, hướng về phía một cặp kính râm trắng quá khổ. “Hoặc cậu lên xe, hoặc không, cậu Baker ạ. Thật lòng mà nói thì, tôi muốn cậu đừng lên thì hơn. Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu là một gánh hề, và cậu trông như một thằng tay sai lớ ngớ không hơn. Tôi sẽ không phiền lòng khi bỏ cậu lại đây đâu. Tôi tin là đoàn tàu sẽ trở lại vào lúc nào đó thôi. Tàu lúc nào chẳng quay đầu.”
Lời ấy khiến anh thấy nhức nhối hơn mình tưởng. “Công việc tôi làm chắc chắn không phải trò hề đâu nhé!”
Cái xe khởi động cùng tiếng khùng khục rền vang, rồi động cơ dần êm xuống. Khói đen bốc lên từ ống bô.
“Chuyện ấy,” Bà Chapelwhite nói, “thì còn phải xem xét đã. Lên hay không đây, cậu Baker.”
Anh lên xe.
Bà Chapelwhite có vẻ khoái chí quá mức trước cách Linus ré lên khi họ quẹo cua với tốc độ chóng mặt. Bà điều khiển chiếc xe một cách khéo léo, nhưng Linus tin chắc rằng anh đã bước lên xe của một mụ điên.
Gió quất qua tóc họ, và Linus nghĩ bà đã đánh mất mấy bông hoa trang trí, nhưng chúng ngoặt ngoẹo và chao đảo và vẫn giữ nguyên vị trí. Anh ghì chặt tập hồ sơ lên nóc lồng, không muốn chúng bay ngược ra sau.
Họ đi trên một con đường nhỏ hẹp xuyên qua những đụn cát dâng lên rồi hạ xuống. Ở những nơi rặng cát thấp nhất, anh thoáng thấy được mặt biển, giờ còn gần anh hơn khi ngồi trên tàu. Linus cố không để khung cảnh ấy làm mình phân tâm, nhưng vẫn thất bại ê chề. Mặc dù anh tin chắc rằng mình sắp chết nhưng đó vẫn là một kỳ quan đáng chiêm ngưỡng.
Mãi cho tới khi va mình lên cửa sau một khúc quanh khác, anh mới tìm lại được giọng nói của mình. “Bà không lái chậm hơn được à?”
Và còn trên cả phép màu, bà làm theo lời anh. “Chỉ đang vui vẻ một chút thôi mà.”
“Trước sự đau khổ của tôi đấy!”
Bà liếc qua anh, tóc phấp phới quanh đầu. “Cậu căng thẳng quá rồi đấy.”
Anh xù lông lên. “Muốn sống không phải là căng thẳng quá đâu.”
“Cà vạt của cậu bị lệch kìa.”
“Thế à? Cảm ơn bà. Tôi ghét những lúc mình trông luộm thuộm… Đùa vậy không vui đâu nhé.”
Anh thấy một thoáng răng trắng bóc dưới nụ cười của bà. “Sau cùng, ở cậu có lẽ vẫn còn có hy vọng đây. Không nhiều lắm, nhưng có chút chút.” Bà lại nhìn anh, lâu hơn mức khiến Linus cảm thấy an toàn. “Trông cậu không giống như tôi tưởng.”
Anh không biết phải sử dụng thông tin này như thế nào. Anh chưa bao giờ thật sự được người ta nhìn tới trước đây. “Bà nói vậy là có ý gì?”
“Ý là trông cậu thật ngoài mong đợi.”
“Bà có thường nói mà không truyền đạt bất cứ điều gì không?”
“Rất thường xuyên. Nhưng không phải lần này, cậu Baker ạ.” Bà rẽ qua khúc quanh khác với tốc độ thấp hơn nhiều. “Tôi tưởng cậu sẽ trẻ hơn. Loại người như cậu thường sẽ vậy.”
“Loại người như tôi ư?”
“Nhân viên công tác xã hội. Làm công việc này lâu chưa?”
Anh cau mày. “Đủ lâu rồi.”
“Và cậu có thích công việc của mình không, cậu Baker?”
“Tôi giỏi việc này.”
“Đó không phải là câu hỏi của tôi.”
“Như nhau cả.”
Bà lắc đầu. “Tại sao cậu lại ngủ trên sân ga? Cậu không ngủ trên tàu được à?”
“Tôi không ngủ. Tôi đã…” Anh sực nhớ ra, vào lúc ấy, điều mà anh đã quên từ khi bị đánh thức một cách thô lỗ. “Ôi trời ơi!”
“Sao cơ?”
“Ôi trời ơi!” Anh không hít thở nổi.
Bà Chapelwhite trông hốt hoảng. “Cậu sắp lên cơn đau tim đấy à?”
Anh không biết nữa. Anh chưa từng bị đau tim trước kia, và anh không dám chắc được cảm giác ấy như thế nào. Nhưng vì anh đã bốn mươi tuổi và thừa cân và bị cao huyết áp, có vẻ như việc đó rõ ràng là một khả năng.
“Chết tiệt,” anh nghe thấy bà lầm bầm khi bẻ ngoặt bánh lái tấp xe vào bên lề, đạp chân phanh.
Linus chật vật hít thở, tựa trán lên nóc lồng. Khung cảnh trước mắt anh đã thu hẹp lại thành hai cái lỗ kim, và trong tai anh là tiếng gầm rú. Đang lúc chắc chắn rằng mình chuẩn bị bất tỉnh lần nữa (hoặc có thể là chết vì trụy tim) thì anh lại cảm thấy một bàn tay mát rượi áp lên gáy mình. Anh hít vào được một hơi thật sâu trong khi nhịp tim giảm dần.
“Nào,” anh nghe thấy bà Chapelwhite nói. “Tốt hơn rồi đấy. Một hơi nữa đi, cậu Baker. Đúng rồi.”
“Hồ sơ,” anh cố nói ra. “Tôi đã đọc hồ sơ.”
Bà siết gáy anh một cái rồi thu tay về. “Về Lucy à?”
“Vâng. Tôi không đoán trước được chuyện ấy.”
“Phải, tôi cũng nghĩ là không.”
“Điều đó có…”
“Thật không ấy à?”
Anh gật đầu, mặt vẫn áp lên lồng.
Bà không trả lời.
Anh ngẩng đầu dậy, nhìn qua bà.
Bà đang nhìn thẳng về phía trước, tay đặt trên đùi. “Đúng vậy,” cuối cùng bà nói. “Là thật.”
“Thế quái nào điều này lại có khả năng xảy ra?”
Bà lắc đầu. “Không phải… Thằng bé không phải như cậu nghĩ đâu. Không có đứa nào như vậy cả.”
Lời này khiến anh giật mình. “Tôi còn không nhìn đến những hồ sơ khác.” Một suy nghĩ khủng khiếp giáng xuống đầu anh. “Những đứa khác còn tệ hơn ư?”
Bà giật cặp kính xuống, gay gắt nhìn anh. “Không thể tệ hơn được vì chẳng có vấn đề gì với đứa nào trong số chúng cả. Chúng là trẻ con thôi.”
“Vâng, nhưng…”
“Không nhưng nhị gì hết,” bà cấm cảu. “Tôi biết cậu có việc phải làm, cậu Baker ạ. Và tôi biết có thể cậu giỏi việc đó. Giỏi quá mức, nếu cậu hỏi tôi. Hẳn phải vậy thì DICOMY mới gửi cậu tới đây. Chúng tôi không hẳn là một trại trẻ chính thống.”
“Tôi phải nói là vậy. Bên bà nuôi Kẻ Phản Chúa trên đảo kia mà.”
“Lucy không phải là…” Bà lắc đầu, rõ sốt ruột. “Tại sao cậu lại đến đây thế?”
“Để bảo đảm rằng lũ trẻ được an toàn,” anh nói như thể đó là bản tính thứ hai của mình. “Để thấy rằng chúng đang được nuôi nấng, chăm sóc. Và rằng chúng không bị đe dọa, dù là bởi chính mình hay bởi người khác.”
“Và việc này áp dụng với mọi đứa trẻ, đúng chứ?”
“Vâng, nhưng…”
“Không nhưng nhị gì hết. Chẳng quan trọng gì cái việc thằng bé từ đâu tới. Hay nó là cái gì. Nó là một đứa trẻ, và việc của cậu, cũng như của tôi hay của Arthur, là bảo vệ nó. Và tất cả những đứa khác nữa.”
Anh há hốc mồm nhìn bà.
Bà lại đeo kính râm lên. “Ngậm mồm vào, cậu Baker ạ. Cậu không muốn ngáp phải ruồi đâu.”
Bà lại nổ máy và phóng xe ra đường.
“Bảy tập hồ sơ,” vài phút sau anh nói, khi đã hết sửng sốt.
“Gì cơ?”
“Bảy tập hồ sơ. Tôi được giao cho bảy tập hồ sơ. Sáu đứa trẻ. Và hiệu trưởng của trại trẻ. Là bảy tập.”
“Tập đếm số căn bản là một việc ưu tiên hàng đầu ở DICOMY, phải không?”
Anh lờ lời châm chích này đi. “Không có hồ sơ nào dành cho bà.” Anh thấy một biển báo ở đằng xa, tiến gần tới về bên phải trên đỉnh ngọn đồi kế tiếp.
“Dĩ nhiên là không rồi. Tôi không được DICOMY thuê. Tôi bảo cậu rồi mà. Tôi là người trông coi.”
“Trông coi ngôi nhà à?”
“Ngôi nhà. Và cả hòn đảo nữa. Công việc kế thừa ấy mà. Đã qua bao đời nay rồi.”
Linus Baker đã làm trong ngành một thời gian dài. Và đúng vậy, anh giỏi việc này. Anh có thể suy nghĩ theo lối phân tích, có thể để ý thấy những manh mối tí hon mà người khác không thấy được. Đó là lý do tại sao anh được chọn để làm nhiệm vụ này, anh thầm nghĩ.
Nói là vậy, nhưng lẽ ra vào giây phút mở mắt ra trên sân ga anh phải nhận ra ngay mới phải. Anh không thể lấy cớ rằng mình đã ngất xỉu sau khi nhận được một cú sốc để đời được.
Ánh tím trong mắt bà lẽ ra phải để lộ chân tướng rồi mới phải. Màu sắc ấy không phải là do ánh sáng.
“Bà là một Tinh linh,” anh nói. “Một Tinh linh giữ đảo.”
Anh đã khiến người phụ nữ này ngạc nhiên. Bà đã cố che giấu thân phận, và nếu không biết mình nên tìm kiếm chi tiết gì, anh hẳn sẽ bỏ lỡ thân phận của bà. “Điều gì khiến cậu nghĩ vậy?” bà hỏi, giọng bình thản.
“Bà là người trông coi.”
“Việc ấy chẳng nói lên được điều gì cả.”
“Mắt bà.”
“Không phổ biến, rõ là vậy, nhưng chắc chắn không độc nhất vô nhị.”
“Bà bê vác hành lý của tôi…”
“Ồ! Cho tôi xin lỗi nhé. Nếu biết mình đang chà đạp tính nam độc hại của cậu, tôi đã…”
“Bà đi chân đất.”
Việc này khiến bà già khựng lại. “Tôi sống ở gần biển,” bà chậm rãi nói. “Có khi tôi luôn đi chân đất thì sao.”
Anh lắc đầu. “Mặt trời đang treo cao. Mặt đường hẳn phải nóng vô cùng. Vậy nhưng, bà bước đi trên đó như thể chẳng có vấn đề gì cả. Tinh linh không thích đi giày. Quá gò bó. Và không gì có thể làm đau chân họ. Ngay cả nhựa đường hun nóng cũng vậy.”
Bà thở dài. “Cậu thông minh hơn vẻ bề ngoài đấy. Đó chẳng thể là chuyện tốt đẹp gì được.”
“Bà có ghi danh không đấy?” Anh tra hỏi. “DICOMY có biết rằng bà…”
Bà nhe răng. “Tôi chưa bao giờ nằm trong hệ thống này, cậu Baker ạ. Dòng họ của tôi cổ xưa hơn luật lệ của nhân loại rất nhiều. Chỉ vì mấy người các cậu quyết định rằng mọi sinh vật nhiệm màu ngoài tự nhiên đều phải bị đánh dấu để theo dõi không có nghĩa là cậu có quyền hạch hỏi tôi hay tư cách pháp lý của tôi.”
Anh tái mặt. “Điều đó… Bà nói phải. Lẽ ra tôi không nên nói vậy.”
“Đó là lời xin lỗi của cậu đấy à?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Tốt. Đừng có hỏi về tư cách của tôi nữa.”
“Chỉ là… Tôi chưa từng gặp một Tinh linh giữ đảo nào trước đây. Tôi có gặp một Tinh linh vùng nước rồi. Và thậm chí có lần gặp cả Tinh linh giữ hang. Đó là cách tôi nhận biết được bà. Tôi còn không biết rằng bà có tồn tại.”
Bà cười khẩy. “Tôi tin chắc là có nhiều điều cậu không biết về việc tồn tại, cậu Baker ạ. Nhìn kìa. Đằng kia kìa. Chúng ta gần tới bến phà rồi.”
Anh nhìn theo hướng bà chỉ. Ở đằng trước, tấm biển anh đã thấy từ xa đang tiến lại gần khi họ leo lên đồi. Phía trên hình ảnh của một cây cọ và những con sóng biển là dòng chữ: LÀNG MARSYAS.
“Tôi chưa từng nghe tới địa danh này trước kia,” anh thú nhận khi họ chạy qua. “Ngôi làng ấy. Nơi đó có đẹp không?”
“Còn phụ thuộc vào định nghĩa của cậu về từ đẹp. Với cậu, chắc là đẹp. Với tôi thì không.”
Họ đã tới đỉnh đồi. Phía dưới, dọc bờ biển, là một cụm những công trình sơn màu rực rỡ nép mình giữa những tán cây cao đã oằn mình theo thời gian vì gió. Anh có thể thấy nhà cửa trải rộng vào trong rừng, tất cả đều mang màu phấn sáng và lợp mái rạ. Khung cảnh trông như những gì anh luôn mơ mộng về một vùng đất ven biển. Tất cả khiến trái tim anh nhức nhối.
“Chúng ta sẽ không dừng lại đâu, nên đừng xin xỏ,” bà cảnh cáo anh. “Họ không thích chúng ta dừng lại đâu.”
“Ý bà là sao?”
“Không phải ai cũng cấp tiến như cậu, cậu Baker ạ,” bà nói, và anh biết bà đang chế nhạo anh. “Người dân ở Marsyas không thích giống loài chúng tôi đâu.”
Điều ấy khiến anh ngạc nhiên. “Tinh linh ấy à?”
Bà lại bật cười, nhưng tiếng cười trĩu nặng những chua chát. “Mọi sinh vật nhiệm màu, cậu Baker ạ.”
Không mất nhiều thời gian để hiểu được ý bà. Ngay khi họ rẽ vào con phố chính, lái xuyên qua làng, người dân trên đường và trong các cửa tiệm quay đầu về phía có tiếng xe. Linus đã từng hứng chịu rất nhiều cái nhìn chê trách trong đời, nhưng chưa bao giờ gặp phải những ánh mắt ngập tràn thù hằn đến vậy. Những người mặc quần đùi lướt sóng và áo tắm hai mảnh, chân đi tông cao su quay ra công khai lườm họ khi họ đi qua. Anh thử vẫy tay với vài người trong số họ, nhưng làm vậy chẳng có ích lợi gì. Anh thậm chí còn thấy một người đàn ông đứng trong nơi trông như nhà chòi hải sản với tay lên khóa cửa khi họ lái xe ngang qua.
“Chà, tôi không ngờ đấy,” Linus vừa nói vừa khịt mũi.
“Rồi cậu sẽ quen với chuyện này,” bà Chapelwhite nói. “Đáng ngạc nhiên là vậy.”
“Tại sao họ lại cư xử thế này?”
“Tôi không có mong muốn nắm bắt tâm tư loài người,” bà nói, tay siết chặt vô lăng khi một người phụ nữ trên vỉa hè trông có vẻ như đang che chắn lũ trẻ mập mạp, ồn ào khỏi xe của họ. “Họ sợ những thứ họ không hiểu. Và nỗi sợ đó biến thành ghét bỏ vì những lý do mà tôi chắc chắn ngay cả họ cũng không thể hiểu nổi. Và vì họ không hiểu lũ trẻ, vì họ sợ chúng, nên họ ghét chúng. Đây không thể là lần đầu tiên cậu nghe tới chuyện này đấy chứ. Nó xảy ra ở mọi nơi mà.”
“Tôi không ghét gì cả,” Linus nói.
“Cậu nói dối.”
Anh lắc đầu. “Không. Căm ghét là một việc phí phạm thì giờ. Tôi quá bận để ghét được cái gì. Tôi thích sống như vậy hơn.”
Bà liếc nhìn anh, vẻ mặt bà giấu kín dưới cặp kính râm. Bà mở miệng để nói gì đó, anh cũng không biết nữa, nhưng có vẻ lại đổi ý. Thay vào đó, bà nói, “Chúng ta đến nơi rồi. Ở yên trong xe nhé.”
Bà đỗ xe gần rìa một bến tàu, bước ra khỏi xe trước khi Linus kịp nói thêm lời nào khác. Có một người đàn ông đứng cạnh một cái phà nhỏ, chân gõ gõ đầy vẻ sốt ruột. Linus nghĩ anh có thể thấy hình bóng lờ mờ của một hòn đảo phía sau anh ta. “Muộn rồi đấy,” người đàn ông gắt gỏng với bà Chapelwhite khi bà tới gần, giọng vọng về phía Linus. “Bà biết tôi không thể ở trên đảo sau khi trời tối mà.”
“Không sao đâu, Merle. Tôi sẽ không để chuyện gì xảy ra với ông đâu.”
“Nói vậy không khiến người ta an tâm chút nào đâu.” ông ta nhổ toẹt vào trong nước qua mép bến tàu trước khi nhìn thấy Linus qua vai bà. “Vậy ra, kia là cậu ta à?”
Bà quay lại liếc anh. “Cậu ta đấy.”
“Tưởng cậu ta phải trẻ hơn.”
“Tôi cũng nói vậy đấy.”
“Được rồi. Bắt đầu thôi nào. Và hãy bảo Parnassus rằng công cán của tôi đã tăng gấp đôi rồi nhé.”
Bà già thở dài. “Tôi sẽ báo với cậu ấy.”
Merle gật đầu, và sau khi ném cho Linus một cái nhìn phán xét cuối cùng, ông quay đi và thoăn thoắt nhảy lên phà. Bà Chapelwhite quay về xe.
“Tao nghĩ chúng ta đã vướng vào chuyện gì đó lớn hơn mức có thể tưởng tượng rồi,” anh thì thầm với Calliope.
Cô ả kêu rừ rừ trả lời anh.
“Ổn cả chứ?” Anh hỏi khi Tinh linh kia trở vào trong xe. Anh không chắc là mọi thứ có ổn không, Merle có vẻ là một ông già phiền phức.
“Ổn cả,” bà lẩm bẩm. Xe lại khởi động, và bà tiến về phía trước khi Merle hạ cầu phà xuống. Có một khoảnh khắc mà dạ dày Linus rớt xuống khi ván cầu cọt kẹt và rền rĩ dưới sức nặng của họ, nhưng giây phút ấy đã kết thúc trước khi anh kịp phản ứng.
Bà gạt cần số về trạng thái đỗ và ấn một cái nút. Linus giật mình khi âm thanh động cơ rì rầm ở phía sau xe. Anh quay lại vừa kịp để thấy một cái mái nhựa đang vươn lên và phủ lên họ. Cái mái khóa vào đúng vị trí với cảm giác chấm hết đầy khiếp sợ. Bà tắt máy rồi quay sang anh. “Nghe này, cậu Baker. Tôi nghĩ chúng ta đã có một khởi đầu không mấy tốt đẹp.”
“Ý bà là không phải lúc nào bà cũng khiến người khác vui vẻ khi ở bên mình ư? Bà làm tôi ngạc nhiên quá đi.”
Bà lườm anh. “Tôi là một Tinh linh, tức là tôi rất bao bọc những thứ thuộc về mình.”
“Hòn đảo,” Linus nói.
Bà gật đầu. “Và mọi cư dân trên đó.”
Anh lưỡng lự. Rồi, “Vậy bà và ngài Parnassus này…”
Bà nhướn một bên mày.
Anh vừa đỏ mặt vừa húng hắng ho và quay đi. “Thôi quên đi.”
Bà cười vào mặt anh, dù không mang ác ý. “Không. Cậu phải tin tôi khi tôi nói là chuyện ấy sẽ không bao giờ xảy ra đâu.”
“Ồ! Ừ thì biết vậy cũng an tâm.”
“Tôi biết cậu có việc phải làm,” bà tiếp tục. “Và cậu đang nhận ra rằng việc này không giống như bất kỳ việc nào cậu từng làm trước kia, nhưng tất cả những gì tôi hỏi xin cậu là hãy cho họ một cơ hội. Họ không chỉ là những gì được viết trong hồ sơ đâu.”
“Bà đang dạy khỉ leo cây đấy à?” anh cứng rắn hỏi.
“Tôi đang hỏi xin cậu một chút tình người đấy.”
“Tôi có tình người, bà Chapelwhite ạ. Đó là lý do tại sao tôi làm công việc này.”
“Cậu thật sự tin là vậy, phải không?”
Anh quắc mắt nhìn bà. “Bà nói vậy là có ý gì?”
Bà già lắc đầu. “Cậu không có hồ sơ về tôi vì lẽ ra tôi không tồn tại. Arthur… Cậu Parnassus phái tôi tới để bày tỏ thiện chí. Để cho cậu thấy rằng cậu ấy nghiêm túc đến thế nào. Cậu ấy biết con người cậu có thể trở thành. Cậu ấy hy vọng rằng cậu có thể làm một người như vậy ở nơi đây.”
Linus cảm thấy nỗi sợ dồn xuống sống lưng. “Làm sao người này biết được điều gì về tôi kia chứ? Anh ta đâu thể biết ai sẽ được phân công tới. Tôi còn không biết cho đến ngày hôm qua.”
Bà già nhún vai. “Cậu ấy có cách của riêng mình. Cậu nên sử dụng thời gian còn lại trước khi lên đảo để xem qua những hồ sơ khác. Tốt nhất là cậu biết mình đang dấn thân vào việc gì trước khi đưa chân. Như vậy sẽ an toàn hơn, tôi nghĩ vậy.”
“Cho ai cơ?”
Không ai trả lời.
Anh quay sang và thấy ghế lái trống trơn, như thể Tinh linh kia chưa bao giờ ngồi ở đó.
“Chết tiệt,” anh lầm bầm.
Anh cân nhắc làm việc bà Chapelwhite yêu cầu. Biết trước là phòng trước nhưng anh không thể ép mình nghiên cứu chỗ hồ sơ sau những điều anh đã khám phá ra trên hồ sơ của Lucy, vì lo sợ rằng chuyện chỉ mỗi lúc một tệ hơn theo cấp số mũ. Ban Quản Lý Thượng Tầng chắc chắn chẳng khiến mọi chuyện dễ dàng hơn cho anh, chiếu theo lời cảnh báo khủng khiếp của họ rằng những cư dân trên đảo khác với bất kỳ thứ gì anh từng thấy trước kia ra sao. Bà Chapelwhite dường như chỉ càng khẳng định điều ấy. Anh thoáng băn khoăn liệu mình có bép xép quá lời với Tinh linh này không, hay liệu bà có xem trộm được tập hồ sơ lúc anh đang nằm trên sân ga hay không. Cả hai việc này dường như đều có khả năng xảy ra, và anh tự nhắc mình phải đề cao cảnh giác từ giờ trở đi.
Không tin tưởng rằng mình sẽ giữ được tỉnh táo, anh ngồi đó cùng tập hồ sơ trên đùi, ngón tay giần giật, nỗi thôi thúc muốn biết mình đang dấn thân vào chuyện gì đã teo lại trước khao khát giữ cho đầu óc vững vàng, thanh tỉnh. Anh nghĩ về đủ kiểu sinh vật, từ quái vật gớm guốc với những cái răng sắc nhọn tà ác tới địa ngục trần gian. Chúng là trẻ con mà, anh tự nhủ, nhưng ngay cả trẻ con cũng có thể cắn trả nếu bị khiêu khích. Và nếu hoá ra chúng tệ hơn những gì anh đang tưởng tượng, anh thà rằng mình không biết trước điều ấy, phòng khi nhận ra rằng mình không thể rời khỏi phà.
Vậy nhưng…
Anh lật giở qua đống hồ sơ, tìm một tập cụ thể. Anh hít mạnh vào khi thấy hồ sơ của Lucy và nhanh chóng bỏ qua hết mức có thể tới khi tìm thấy hồ sơ anh muốn.
Hiệu trưởng của ngôi trường.
Arthur Parnassus.
Tập hồ sơ này khá mỏng, bao gồm một tấm ảnh mờ mịt chụp một người đàn ông mảnh khảnh trên nền phông xanh và duy nhất một tờ giấy. Trông anh ta rõ… bình thường, nhưng vẻ bề ngoài có thể rất gạt người.
Hồ sơ (nếu có thể gọi một thứ sơ sài như vậy là hồ sơ) không cho anh biết được gì nhiều hơn, vì vài phần đã bị kiểm duyệt và phần còn lại là những mẩu thông tin không đầu không đuôi. Ngoài việc biết được tuổi của anh ta (bốn mươi lăm) và nhiệm kỳ hiệu trưởng của anh ta ở Marsyas có vẻ như không có vấn đề gì nổi bật, thì chẳng có gì nhiều nhặn hơn mà Linus có thể mót được từ những dòng này. Anh không biết mình đang thấy thất vọng hay nhẹ nhõm nữa.
Tới khi một tiếng chuông vang lên, báo hiệu rằng họ đã đến đảo, mặt trời đã bắt đầu lặn. Anh đang đắm chìm trong suy tư thì sàn phà rung lên dưới chân anh. Anh nhìn qua cửa sổ phía sau xe để thấy cầu phà đang hạ xuống một bến cảng nhỏ.
Một cái bóng phủ lên kính chắn gió khi anh quay lại. “Đây là chỗ cậu xuống đấy!” Một giọng nói quát lên với anh.
Anh ngước nhìn qua kính chắn gió.
Merle đứng trước mặt anh, hai tay chống nạnh. “Xuống ngay,” ông ta ra lệnh.
“Nhưng…”
“Xuống khỏi con phà chết tiệt của tôi ngay!”
“Quả là một tên khốn nạn,” Linus lầm bầm. Chìa khóa vẫn cắm trong ổ, và Linus nghĩ ít ra mình nên thấy mừng vì chuyện đó. Anh mở cửa bên phụ lái và suýt nữa thì ngã nhào ra ngoài. Anh cứu được mình và Calliope vào phút chót, dù cô ả không trân trọng màn nhào lộn của anh chút nào. Anh đặt con mèo lên ghế và đóng cửa lại trước tiếng rít của nó. Anh thong dong giơ tay lên trán chào Merle khi vòng qua sau xe.
Merle không phản ứng gì.
“Rõ là một khởi đầu đầy thuận lợi đây,” Linus lầm bầm. Cửa bên ghế lái cọt kẹt khi anh đóng nó lại. Đã lâu rồi anh chưa lái xe. Anh chưa từng chân chính sở hữu một chiếc xe của riêng mình. Xe ô tô quá đỗi phiền phức khi ở trong thành phố. Nhiều năm về trước, anh từng thuê một chiếc với kế hoạch dành cả cuối tuần để lái xe về vùng nông thôn, nhưng anh đã bị gọi đi làm vào phút cuối và cuối cùng là đem trả cái xe chỉ một tiếng sau khi lái nó đi.
Anh kéo ghế lùi về phía sau rồi vặn chìa.
Cái xe rì rầm sống dậy quanh anh.
“Rồi, được rồi,” Linus nói với Calliope, tay toát mồ hôi trên vô lăng. “Đi xem những cái chúng ta phải xem thôi, nhỉ?”