Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 07
Anh Parnassus dẫn Linus từ đầu cầu thang đi xuống một hành lang dài. “Phòng của lũ trẻ đây,” anh ta nói, gật đầu về phía hai cánh cửa ở hai bên hành lang. Có những tấm biển ghi tên lũ trẻ treo trên cánh cửa: Chauncey và Sal ở bên phải. Phee và Talia ở bên trái. Anh ta chỉ lên tấm cửa sập ở trên trần. Trên đó có vẽ hình dáng một chú Wyvern. “Tổ của Theodore ở một trong mấy cái tháp. Cháu nó có một kho tàng nho nhỏ trên đó, nhưng chỗ yêu thích của thằng bé là dưới sô pha.”
“Tôi muốn kiểm tra các phòng,” Linus nói, ghi nhớ sơ đồ bố trí trong đầu.
“Tôi đoán là anh sẽ muốn vậy. Chúng ta có thể sắp xếp việc ấy vào ngày mai, vì sớm thôi lũ trẻ sẽ chuẩn bị đi ngủ. Hoặc bà Chapelwhite có thể cho anh xem phòng khi chúng đang học, hoặc chúng ta có thể làm việc ấy trước, và rồi anh có thể lên lớp cùng chúng tôi.”
“Còn bà Chapelwhite thì sao?” Linus hỏi, nhìn chằm chằm vết khắc hình rừng cây trên gỗ ở cửa phòng Phee khi họ đi ngang qua.
“Bà ấy đã ở đây từ rất lâu trước khi chúng tôi có mặt,” anh Parnassus nói. “Hòn đảo là của bà ấy. Chúng tôi chỉ đang mượn tạm mà thôi. Bà ấy sống sâu trong cánh rừng ở phía bên kia đảo.”
Linus có vô vàn câu hỏi. Về hòn đảo này. Về ngôi nhà này. Về người đàn ông này. Nhưng có một câu khác nổi bật hơn cả, trước số cánh cửa mà anh đếm được. Còn bốn cánh cửa nữa, ở gần cuối hành lang. Một cái được ghi là phòng tắm dành cho con gái. Cái kia là phòng tắm cho con trai. Cánh cửa thứ ba có tấm biển khắc chữ ghi VĂN PHÒNG CỦA ARTHUR. “Còn Lucy thì sao? Thằng bé ở đâu?”
Anh Parnassus dừng lại trước văn phòng và gật đầu về phía cánh cửa còn lại. “Trong phòng tôi.”
Mắt Linus nheo lại. “Anh ngủ chung phòng với một cậu bé nhỏ tuổi…”
“Không có gì khiếm nhã đâu, tôi đảm bảo với anh đấy.” Giọng anh ta chẳng có vẻ gì là bị xúc phạm trước điều anh ám chỉ. “Có một phòng thay đồ lớn mà tôi đã chuyển đổi thành phòng ngủ cho Lucy khi thằng bé đến ở với chúng tôi. Sẽ… Sẽ tốt hơn cho thằng bé nếu có tôi ở gần. Nó từng có những cơn ác mộng thật khủng khiếp. Thỉnh thoảng nó vẫn mơ thấy chúng, dù những giấc mơ ấy không còn xấu xa như ngày xưa nữa. Tôi hy vọng rằng thời gian thằng bé ở đây đã giúp đỡ nó. Nó không thích rời xa khỏi tôi, cực chẳng đã mới phải vậy, dù tôi đang cố dạy nó tự lập. Thằng bé… là một tác phẩm đang hoàn thiện.”
Anh Parnassus mở cửa văn phòng. Nơi này nhỏ hơn Linus tưởng, và nhét đầy đồ, gần như đến mức khó chịu. Có một bàn làm việc đặt giữa phòng, vây quanh là những chồng sách, có nhiều chồng đang nghiêng ngả đầy bấp bênh. Có một cửa sổ đơn nhìn ra mặt biển. Mặt biển nhìn như bất tận trong đêm. Ngoài xa, Linus thấy có ánh đèn chớp nháy của một ngọn hải đăng đơn độc.
Anh Parnassus đóng cửa lại sau lưng, gật đầu mời Linus ngồi xuống. Anh làm vậy, lấy ra một quyển sổ nhỏ anh luôn mang theo trong túi, đầy những ghi chép anh lưu lại về mỗi vụ việc mình xử lý. Từ lúc đến nơi, anh đã không nghiêm chỉnh thực hiện nhiệm vụ của mình ở đây, không ngừng chao đảo trước chính ý niệm về nơi này, nhưng không thể như vậy được nữa. Anh đã luôn hãnh diện về những ghi chép phong phú mình đã lưu lại, và nếu anh phải báo cáo hàng tuần như Ban Quản Lý Thượng Tầng yêu cầu, anh sẽ đảm bảo rằng số báo cáo ấy là những bản tốt nhất anh từng viết ra.
“Anh không phiền chứ?” Anh hỏi, chỉ vào một mẩu bút chì trên bàn.
“Dĩ nhiên là không,” anh Parnassus nói. “Đồ của tôi cũng là của anh mà.”
Có thứ gì đó nhộn nhạo lên trong bụng Linus. Anh nghĩ đó hẳn là do đồ mình ăn khi nãy. Anh mở sổ ra và liếm đầu bút chì, một thói quen cũ anh chưa bao giờ bỏ được. “Giờ thì, mời anh. Hãy thảo luận…”
“Sal là đứa mới đến gần đây nhất,” anh Parnassus nói, như thể Linus chưa từng mở miệng. Anh ta ngồi đối diện Linus trên ghế sau bàn làm việc, chụm những ngón tay lại dưới cằm. “Vào ba tháng trước.”
“Ồ? Tôi nghĩ tôi có đọc được thông tin đó trong hồ sơ của thằng bé rồi. Trông nó có vẻ lo âu, dù tôi nghĩ là thiếu niên thường như vậy khi ở trước mặt người lớn.”
Anh Parnassus cười khẩy. “Lo âu ư? Anh gọi đó là lo âu à? Anh có đồng thời đọc được trong hồ sơ của cháu nó là ba tháng vừa qua là khoảng thời gian lâu nhất nó từng ở yên một chỗ kể từ lúc bảy tuổi không?”
“Tôi… không. Tôi nghĩ tôi chưa đọc đến chỗ đó. Tôi bị phân tâm bởi… À thì, mức độ khổng lồ của nhiệm vụ này.”
Anh Parnassus mỉm cười đầy cảm thông. “Họ không nói với anh là anh đang đưa cổ vào cái tròng nào, phải không? Ban Quản Lý Thượng Tầng ấy. Tới lúc anh đến đây họ mới nói.”
Linus cựa quậy trên ghế. “Đúng vậy. Chỉ nói là việc này được bảo mật.” Và cũng nói là lũ trẻ có vấn đề, nhưng Linus không biết liệu mình có nên nói ra điều ấy không.
“Rõ ràng anh có thể thấy là vì sao rồi.”
“Tôi thấy được rồi,” Linus đồng tình. “Người ta không thường gặp mặt Kẻ Phản Chúa đâu.”
Ngài Parnassus quắc mắt nhìn anh. “Chúng tôi không dùng từ đó ở đây. Tôi hiểu là anh có việc phải làm, anh Baker ạ, nhưng tôi là chủ nhân ngôi nhà này, và anh sẽ tuân thủ quy tắc của tôi. Rõ rồi chứ?”
Linus chậm rãi gật đầu. Anh không ngờ mình lại bị khiển trách gay gắt như vậy, đặc biệt là bởi một người toát lên vẻ điềm đạm như người đàn ông đang ngồi đối diện với anh đây. Anh đã đánh giá thấp anh Parnassus. Anh không thể phạm phải sai lầm đó một lần nào nữa. “Tôi không có ý khinh thường cháu đâu.”
Anh Parnassus thư thái trở lại. “Không. Tôi nghĩ anh không có ý đó. Và làm sao mà anh biết được kia chứ? Anh có quen biết thằng bé đâu. Anh không quen biết chúng tôi. Anh có hồ sơ, nhưng chúng chỉ cho anh biết những điều căn bản, tôi tin chắc là vậy. Anh Baker ạ, những gì viết trong tập hồ sơ đó chẳng qua là xương trắng, và chúng ta không chỉ là những bộ xương, phải không nào?” Anh ta ngừng lại, ngẫm nghĩ. “Ngoại trừ Chauncey, vì cháu nó không thật sự có cái xương nào. Dù quan điểm của tôi vẫn vậy.”
“Thằng bé là thứ gì vậy?” Linus hỏi. Rồi, “Ôi trời! Hỏi vậy nghe thô lỗ quá. Tôi không có ý xúc phạm đâu. Tôi chưa từng… Tôi chưa từng thấy thứ gì… người nào… như thằng bé trước đây.”
“Tôi cũng nghĩ là chưa,” anh Parnassus nói. Anh ta quay đầu về phía một chồng sách bên phải, mắt lướt dọc những tựa sách. Dường như anh ta tìm được cuốn mình muốn khi xuống khoảng lưng chừng. Anh ta gõ gõ gáy sách, đẩy mép sách thò ra. Chồng sách chao đảo. Anh ta nhón lấy bìa sách giữa hai ngón tay và giựt một phát chớp nhoáng. Cuốn sách bay ra. Nửa trên chồng sách gọn gàng đáp xuống đúng chỗ. Có vẻ như anh ta không để ý thấy Linus đang há hốc miệng nhìn mình khi anh mở cuốn sách ra trên bàn và bắt đầu lật qua các trang. “Chúng tôi không hẳn biết chắc Chauncey là gì, hay ngay cả việc thằng bé thật sự từ đâu tới. Đó là một bí ẩn, dù tôi tin là… À ha! Đây rồi.” Anh ta xoay cuốn sách về phía Linus và gõ gõ lên trang giấy.
Linus nghiêng tới trước. “Medusozoa? Đó là… con sứa mà.”
“Chính xác!” anh Parnassus vui vẻ nói. “Và tôi nghĩ đó chỉ là một phần thôi, ít nhất là vậy. Thằng bé không đốt người, hay có bất kỳ loại nọc độc nào. Có thể có chút gien hải sâm trong thằng bé nữa, dù điều ấy không lý giải được các chi của nó.”
“Điều ấy chẳng lý giải được cái gì cả,” Linus nói, cảm thấy khá vô vọng. “Thằng bé từ đâu tới?”
Anh Parnassus kéo cuốn sách về và đóng lại. “Không một ai biết, anh Baker ạ. Có những bí ẩn có lẽ sẽ không bao giờ được giải đáp dù chúng ta có cố đến đâu đi nữa. Và nếu dành quá nhiều thời gian vào việc giải đáp các bí ẩn ấy, chúng ta sẽ bỏ lỡ những điều ngay trước mắt mình.”
“Đó không phải là cách mọi thứ vận hành ngoài thế giới thực, anh Parnassus ạ,” Linus nói. “Mọi chuyện đều có thể lý giải được. Tất cả xảy ra đều là có lý do. Đó là lời mở đầu của cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH dành cho Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu.”
Anh Parnassus nhướn một bên mày. “Thế gian này là một nơi lạ kỳ và tuyệt diệu. Tại sao chúng ta phải cố gắng lý giải nó đến tường tận? Để thỏa mãn bản thân mình ư?”
“Vì tri thức là quyền lực.”
Anh Parnassus khịt mũi. “À, Quyền lực à? Phát biểu như một người đại diện chân chính của DICOMY vậy. Tại sao tôi không ngạc nhiên rằng anh đã học thuộc lòng sách nội quy nhỉ? Anh nên biết là có khả năng anh sẽ thấy Chauncey núp dưới gầm giường mình vào một lúc nào đó đấy.”
Lời này khiến Linus giật mình. “Gì cơ? Tại sao?”
“Vì trong suốt một thời gian rất dài, trước khi thằng bé đến đây, nó bị gọi là quái vật, ngay cả bởi những người lẽ ra phải khôn ngoan hơn. Nó được kể cho những câu chuyện về quái vật nấp dưới gầm giường, với lẽ sống là khiến người khác sợ hãi. Thằng bé nghĩ đó là thứ nó phải trở thành. Rằng dọa sợ người ta là sứ mệnh của nó, vì người ta đã in sâu vào trong… đầu nó rằng đó là tất cả những gì nó có thể làm được. Chỉ tới khi Chauncey đến đây thì nó mới nhận ra mình có thể là thứ gì đó khác.”
“Nên nó chọn làm nhân viên hành lý à?” Linus chết lặng.
“Đúng vậy. Nó thấy công việc đó trong một bộ phim chúng tôi xem vài tháng trước. Và vì lý do nào đó, nó mê mệt ý tưởng ấy.”
“Nhưng nó sẽ không bao giờ có thể…” Linus ngăn mình lại trước khi những lời ấy có thể phát ra.
Nhưng anh Parnassus biết chính xác anh đang định nói gì. “Nó sẽ không bao giờ có thể làm nhân viên hành lý vì khách sạn nào sẽ thuê người như nó à?”
“Như vậy không…” Không cái gì mới được? Không công bằng? Không đúng đắn? Không chính đáng? Không phải tất cả những điều kể trên? Linus không rõ nữa. Có nhiều lý do khiến những điều luật như vậy tồn tại, và dù Linus chưa bao giờ hiểu những việc ấy, không thực sự hiểu, anh cũng chẳng làm được gì cả. Linus biết người ta thường e sợ (dù anh cảm thấy từ ấy dùng để ám chỉ cảm xúc nào đó hoàn toàn khác) những điều họ không hiểu được. Sở Phụ Trách Ghi Danh (The Department in Charge of Registration) sinh ra từ việc cần phải bảo vệ những cá nhân siêu phàm. Ngay từ đầu, trẻ con đã bị tách khỏi gia đình và đưa vào các trường, dù dùng từ “trường” là có phần không đúng. Những nơi ấy đều chỉ là nhà tù mà thôi dù cửa sổ không có song sắt. DICOMY đã được lập ra để làm biện pháp xoa dịu tiếng thét gào của những người phản đối cách thức đối đãi ấy. Và khi tình hình dần rõ ràng hơn rằng có rất nhiều trẻ mồ côi, các nhân viên công tác xã hội đã được chia thành hai nhóm: những người phối hợp với Sở Phụ Trách Ghi Danh để làm việc với các gia đình đã ghi danh, và những người làm việc với lũ trẻ mồ côi trong trại trẻ.
Không, như vậy chẳng công bằng chút nào.
“Đúng vậy,” anh Parnassus nói, đồng tình với những lời chưa cất lên. “Nhưng tôi để cho thằng bé mơ mộng về những việc như vậy vì nó là trẻ con, và ai mà biết được tương lai sẽ đem đến những gì? Thay đổi thường bắt đầu từ những lời thì thầm khẽ khàng nhất. Và những người cùng chung chí hướng vun đắp chúng lên thành một trận gầm rú. Chuyện này lại đem tôi quay về việc của Sal. Tôi có thể thẳng thừng với anh không, anh Baker?”
Linus cảm thấy như mình vừa bị quất roi. “Tôi không mong đợi gì hơn thế.”
“Tốt,” anh Parnassus nói. “Anh làm cháu nó sợ đấy.”
Linus chớp mắt. “Tôi ấy à? Tôi không biết cả đời mình có từng dọa ai sợ không nữa.”
“Tôi vô cùng nghi ngờ sự thật ấy đấy. Nói cho cùng, anh làm việc cho DICOMY mà.”
“Thế thì có liên quan gì tới…”
“Không nhất thiết là anh, tức là cụ thể con người anh. Mà là những gì anh đang đại diện. Anh là một nhân viên công tác xã hội, anh Baker ạ. Trong khi hầu hết lũ trẻ ở đây đều mơ hồ hiểu được chức danh ấy bao gồm những công việc gì. Sal đã trực tiếp kinh qua những người giống y như anh. Đây là trại trẻ thứ mười hai của thằng bé.”
Linus thấy bụng mình quặn thắt. “Mười hai á? Không thể thế được! Thằng bé sẽ…”
“Sẽ làm sao?” anh Parnassus hỏi. “Bị đưa đến một trong mấy ngôi trường do Sở điều hành mà dạo gần đây DICOMY có vẻ vô cùng ưa thích ư? Đó là nơi lũ trẻ phải đi sau khi anh xong việc với chúng, phải không?”
Linus bắt đầu đổ mồ hôi. “Tôi không… Tôi không nghĩ mình dám chắc được. Tôi… làm những việc mà người ta yêu cầu ở chức vụ của tôi, không hơn.”
“Không hơn?” anh Parnassus lặp lại. “Thật là đáng tiếc. Anh có từng tới một trong mấy ngôi trường kia chưa, anh Baker? Có bao giờ dõi theo đứa trẻ nào sau khi anh xong việc với chúng không?”
“Chuyện đấy… Đó là việc của các cấp cao hơn. Của các Quản lý. Tôi chỉ là nhân viên công tác xã hội mà thôi.”
“Tôi thật sự không nghĩ anh chỉ là một thứ gì đó. Tại sao anh lại làm nhân viên công tác xã hội? Tại sao anh chưa bao giờ làm gì vượt quá công việc này?”
“Vì đây là công việc mà tôi nắm rõ,” Linus nói, mồ hôi chảy thành dòng tí tách trên cổ anh. Anh không biết bằng cách nào tình thế đã khéo léo đảo ngược mà anh còn không hề nhận ra. Anh phải giành lại quyền kiểm soát mới được.
“Anh không tò mò sao?”
Linus lắc đầu. “Tôi không thể tò mò được.”
Anh Parnassus trông thật kinh ngạc. “Tại sao lại thế?”
“Tò mò chẳng giúp ích gì được cho tôi. Thông tin, anh Parnassus ạ. Tôi làm việc bằng thông tin. Trí tò mò dẫn đến trí tưởng tượng bay cao, và tôi không không thể bị phân tâm được.”
“Tôi không tưởng tượng ra nổi một cuộc đời sống theo lối ấy,” anh Parnassus khẽ khàng nói. “Nghe như thể người ấy hoàn toàn chưa từng được sống vậy.”
“Thế thì rất may là tôi không cần biết ý kiến của anh về vấn đề này,” Linus cấm cảu.
“Tôi không có ý xúc phạm…”
“Tôi ở đây để đảm bảo rằng nơi này đạt chuẩn. Để xem xét các quy trình của anh xem liệu Trại trẻ mồ côi Marsyas có tuân thủ đúng các nguyên tắc do DICOMY đặt ra để đảm bảo rằng phần trợ cấp cho anh đang được sử dụng tử tế…”
Anh Parnassus cười khẩy. “Trợ cấp à? Tôi tưởng anh không có khiếu hài hước đấy. Vui quá là vui.”
Linus chật vật duy trì sự kiểm soát đối với cuộc trò chuyện này. “Chỉ vì anh chấp chứa những đứa trẻ thuộc… các thể loại bất thường hơn, không có nghĩa là tôi sẽ bị phân tâm khỏi lý do tại sao mình lại đến đây. Đó là vì lũ trẻ, anh Parnassus ạ. Không hơn.”
Anh ta gật đầu. “Tôi có thể tôn trọng lý do ấy. Dù chúng tôi không theo lệ thường nhưng tôi mong anh thấy rằng tôi sẽ làm mọi thứ để bảo vệ lũ trẻ. Như tôi đã nói lúc trước, thế gian này là một nơi lạ kỳ tuyệt diệu, nhưng như vậy không có nghĩa là nó không nanh nọc. Và nó sẽ tấn công anh vào những lúc ít ngờ tới nhất.”
Linus không biết phải nghĩ gì về những lời ấy. “Anh không hề rời đảo. Hoặc, ít ra thì, lũ trẻ không đi.”
“Sao anh đoán được vậy?”
“Cái xe thùng ở trước nhà. Bánh xe mọc đầy cỏ dại với hoa.”
Anh Parnassus lại ngả người ra sau trên ghế, nụ cười kỳ lạ nhoẻn trên môi. “Quan sát tốt đấy. Dĩ nhiên, đó có thể là tác phẩm của Phee hoặc Talia. Hai cháu thích trồng cây lắm. Nhưng tôi đoán là anh sẽ không tin.”
“Đúng vậy. Tôi sẽ không tin. Tại sao trông cái xe như thể đã không xê dịch suốt một thời gian dài rồi?”
“Chắc anh đã đi qua làng rồi phải không.”
“Tôi… Phải. Với bà Chapelwhite.” Anh lưỡng lự. Bà già đã nói gì với anh trong lúc họ đi xuyên qua Marsyas nhỉ?
Người dân ở Marsyas không thích giống loài chúng tôi.
Tinh linh ư?
Mọi sinh vật nhiệm màu, cậu Baker ạ.
Anh Parnassus gật đầu, như thể đọc được suy nghĩ của Linus. “Tôi không thể nói rằng chúng tôi không được chào đón, nhưng người ta ám chỉ rằng tốt nhất là chúng tôi ở đâu thì ở yên đấy. Tin đồn thường cứ tràn lan và cố đi ra trước mặt họ cũng giống như cố đẩy lui một bức tường lửa trên đồng cỏ khô vậy. Dẫu vậy, tôi nghĩ rằng việc chính phủ trả tiền cho dân làng để họ giữ im lặng về sự tồn tại của nơi này đã phần nào giúp ích cho chúng tôi. Cũng chẳng ảnh hưởng gì khi món tiền này đi đôi với những lời đe dọa kiện cáo hầu như không che đậy. Chúng tôi ở yên tại chỗ thì sẽ dễ dàng hơn cho tất cả mọi người. May thay, hòn đảo này lớn hơn là anh thấy đấy và nó cho lũ trẻ những gì chúng cần. Mỗi tuần hoặc hơn, bà Chapelwhite sẽ vào làng mua đồ. Họ biết bà ấy, rõ hết mức có thể biết được.”
Đầu Linus xoay mòng mòng. Anh đã không biết người dân được trả tiền để ngậm miệng lại, dù anh nghĩ việc ấy cũng có cái lý vặn vẹo của nó. “Anh không rời đảo ư?”
Anh Parnassus nhún vai. “Tôi hạnh phúc ở nơi đây vì lũ trẻ hạnh phúc ở nơi đây. Tôi cho là chúng tôi có thể suy tính việc đi xa hơn Marsyas và ngôi làng, nhưng chưa hề thực hiện việc ấy. Ít ra là giờ thì chưa. Tôi nghĩ một ngày nào đó chúng tôi sẽ phải xử lý chuyện ấy thôi.”
Linus vừa lắc đầu vừa cầm sổ với bút chì lên. “Sal. Thằng bé biến thành chó.”
“Một con phốc sóc, nếu phải nói cụ thể.”
“Và anh bảo đây là khoảng thời gian lâu nhất cậu bé này từng ở yên một chỗ?”
“Quả thật là vậy.”
“Có những đứa trẻ không được phân cấp cũng không khác thằng bé là bao. Tôi đã gặp một đứa có thể biến thành nai. Tại sao thằng bé lại ở đây?”
Anh Parnassus nhìn anh đầy cảnh giác. “Vì cháu nó có thể truyền cho người khác khả năng biến hình thông qua vết cắn.”
Linus cảm thấy không khí vèo cái rút cạn khỏi phổi. “Thật đấy à?”
Anh ta gật đầu. “Đúng vậy. Đã có một… vụ việc xảy ra. Ở một trong những trại trẻ thằng bé từng ở trước kia. Nó bị một người phụ nữ làm trong bếp đánh vì cố lấy một quả táo. Nó trả đũa theo cách duy nhất mà nó biết. Vào tuần sau đó thì bà ta biến hình.”
Linus nghĩ căn phòng đang xoay vòng vòng. “Tôi chưa bao giờ… Tôi đã không biết việc ấy có thể xảy ra. Tôi tưởng năng lực là do di truyền.”
“Tôi nghĩ anh sẽ được thấy nhiều việc khó tin xảy ra ở đây đấy.”
“Còn Talia?”
“Một trong những đứa trẻ đầu tiên tôi nhận. Gia đình con bé thiệt mạng đầy bi thảm khi vườn nhà họ bị cháy. Vài người nghĩ ai đó đã cố tình đốt khu vườn, dù có vẻ như chẳng ai quan tâm nhiều lắm đến chuyện ấy.”
Linus nhăn mặt. Anh nhớ về biển quảng cáo kêu gọi mọi người THẤY GÌ Ư, NÓI GÌ ĐI treo ở đuôi xe buýt. “Anh nói tiếng Thần vườn à.”
“Tôi nói nhiều thứ ngôn ngữ, anh Baker ạ. Tôi thích học những điều mới mẻ. Và như vậy giúp tôi gần gũi hơn với lũ trẻ.”
“Và tại sao con bé lại bị phân cấp bảo mật?”
“Anh đã gặp một nữ Thần vườn bao giờ chưa, anh Baker?”
Không. Anh chưa từng. Kể cũng lạ, vì anh thậm chí còn chưa bao giờ nghĩ tới chuyện này trước kia. Linus nhanh chóng nguệch ngoạc vào sổ. “Và rồi còn Phee nữa.”
Anh Parnassus cười khúc khích. “Cô bé ấy tự lập một cách quyết liệt. Cháu nó ở đây vì chưa từng có một Tinh linh từng ấy tuổi mà lại đầy quyền năng như vậy. Khi người ta cố gắng giải cứu con bé khỏi một tình huống… hết sức hiểm nghèo, nó đã biến được ba người thành cây. Một Tinh linh khác, lớn hơn nó nhiều, đã biến họ lại thành người. Cuối cùng thì là vậy. May cho tôi là bà Chapelwhite giúp nó theo nhiều cách mà tôi không thể giúp. Bà ấy đã che chở nó dưới đôi cánh của mình, theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Con bé đã nảy nở một cách vô cùng tốt đẹp dưới sự dìu dắt của bà Chapelwhite. Chúng tôi rất may mắn vì bà ấy đã đề nghị hỗ trợ.”
“Và tại sao bà ấy lại làm vậy? Linus hỏi. “Đây là đảo của bà ấy. Tinh linh vô cùng bảo vệ lãnh thổ của họ. Tại sao bà ấy còn cho phép mọi người ở đây?”
Anh Parnassus lại nhún vai. “Vì lợi ích lớn lao hơn, tôi nghĩ vậy.”
Anh ta nói năng y như Tinh linh vậy, lời nói đan xen thành những vòng lặp nhỏ mơ hồ. Linus không thích điều ấy chút nào. “Và lợi ích đó là gì nhỉ?”
“Là được nhìn thấy những đứa trẻ không ai cần có thể phát triển. Anh cũng biết rõ như tôi rằng cụm từ trẻ mồ côi là không chính xác, anh Baker ạ. Không ai tới đây để nhận nuôi trẻ con cả.”
Phải, anh nghĩ không ai làm vậy cả, vì Trại trẻ mồ côi Marsyas bị che giấu khỏi gần như là bất kỳ ai. Nhưng chuyện ấy có thật sự quan trọng không? Anh có từng biết đứa trẻ nào trong những trại trẻ giống nơi này được nhận nuôi chưa? Anh không thể nghĩ ra dù chỉ một ví dụ. Tại sao anh chưa bao giờ để ý thấy chuyện này trước kia nhỉ? “Theodore thì sao?”
“Không phải tất cả những chuyện này đều có trong hồ sơ anh cầm sao, anh Baker?”
Không. Không phải. Thật ra, Linus nghĩ anh Parnassus đã đúng khi nói rằng hồ sơ đó chẳng qua chỉ là xương trắng mà thôi. “Tôi nghe trực tiếp từ nguồn tin vẫn là tốt nhất. Người ta có thể bỏ lỡ nhiều sự tình khi thông tin chỉ là chữ viết trên giấy.”
“Thằng bé không chỉ là một con thú đâu,” anh Parnassus nói.
“Tôi chưa bao giờ nói cậu bé ấy như vậy.”
Anh ta thở dài. “Đúng vậy, tôi nghĩ là anh chưa từng. Hãy thứ lỗi cho tôi. Tôi đã làm việc với những người như anh trước đây. Tôi quên mất là các anh không phải đều cùng một giuộc, dù tôi hoàn toàn chưa biết nên nghĩ gì về anh nữa.”
Linus cảm thấy mình trần trụi đến lạ kỳ. “Tôi là những gì anh nhìn thấy. Đây là toàn bộ con người tôi.”
“Ồ! Tôi vô cùng nghi ngờ điều ấy đấy,” anh ta nói. “Theodore rất… đặc biệt. Tôi biết anh hiểu người như cháu nó hiếm có đến thế nào.”
“Vâng.”
“Thằng bé vẫn còn là thiếu nhi, dù tuổi chính xác của nó là không xác định được. Nó… suy nghĩ theo cách khác so với tất cả chúng ta. Dù chúng tôi hiểu nhau nhưng đó là hiểu bằng suy nghĩ trừu tượng hơn là cụ thể. Nói vậy có dễ hiểu không?”
“Không dễ hiểu chút nào,” Linus thú nhận.
“Anh sẽ thấy thôi,” anh Parnassus nói. “Sau cùng, anh sẽ ở đây nguyên một tháng kia mà. Và tôi tin là còn lại một đứa, dù tôi nghĩ anh cố tình làm vậy. Bà Chapelwhite nói rằng bà ấy tìm thấy anh trong tình trạng chết ngất khi chỉ mới nghĩ về nó thôi.”
Linus đỏ mặt, hắng giọng. “Chuyện ấy… thật nằm ngoài mong đợi.”
“Đó là một cụm từ hay ho để miêu tả Lucy, tôi tin là vậy.”
“Thằng bé có phải…” Linus lưỡng lự. Thế rồi, “Có thật không? Nó có phải là Kẻ Phản… Ý tôi là con trai của Quỷ?”
“Tôi tin là vậy thật,” anh Parnassus nói, và hơi thở của Linus nghẹn lại trong cổ. “Dù khái niệm về việc mà người như nó phải làm là một điều hư cấu hơn là sự thực.”
“Nếu điều đó là thật, vậy thì nó phải mang Tận Thế tới đấy!” Linus thảng thốt.
“Cháu nó mới sáu tuổi thôi.”
“Thằng bé tuyên bố mình là hỏa ngục và bóng tối khi nó dọa dẫm tôi đấy.”
Anh Parnassus khúc khích cười. “Đó là cách thằng bé chào hỏi ấy mà. Đối với một đứa trẻ nhỏ tuổi như vậy thì khiếu hài hước của nó thật rùng rợn. Một khi anh quen rồi thì việc ấy cũng dễ thương ra phết đấy.”
Linus há hốc miệng nhìn anh ta.
Anh Parnassus thở dài rồi nghiêng người về phía trước. “Anh Baker, nghe này. Tôi biết từng ấy chuyện là… rất nhiều để tiếp thu, nhưng tôi đã nuôi Lucy một năm rồi. Người ta đã lên kế hoạch để… À thì, hãy cứ cho rằng đây là biện pháp cuối cùng. Dù dòng giống của nó thế nào, thằng bé vẫn là một đứa trẻ. Và tôi từ chối tin rằng số mệnh của một con người đã được tạc vào trong đá. Con người có nhiều thứ đáng kể hơn là xuất xứ của họ.”
“Hơn là thân xác của họ.”
Anh Parnassus gật đầu. “Đúng vậy. Chính xác. Lucy có thể khiến phần lớn thế gian này khiếp sợ, nhưng nó không làm tôi sợ hãi. Tôi đã thấy nó có thể làm được những gì. Đằng sau đôi mắt và con quỷ trong tâm hồn nó là sự duyên dáng, dí dỏm và thông minh khủng khiếp. Tôi sẽ chiến đấu vì nó cũng như vì bất kỳ đứa con nào của tôi.”
Linus không đồng tình với điều ấy. “Nhưng chúng không phải con anh. Anh là hiệu trưởng, không phải cha lũ trẻ. Chúng là học trò của anh.”
Anh Parnassus mỉm cười cụt lủn. “Dĩ nhiên rồi. Lỡ miệng ấy mà. Ngày hôm nay khá vất vả, và tôi nghĩ ngày mai cũng sẽ mang đến từng ấy công chuyện. Vậy nhưng cũng đáng mà.”
“Thật ư?”
“Dĩ nhiên rồi. Tôi không tưởng tượng nổi mình sẽ làm bất kỳ việc gì khác. Còn anh thì sao?”
“Chúng ta không ngồi đây để nói chuyện về tôi, anh Parnassus ạ,” Linus chỉ ra.
Anh ta xòe tay. “Và tại sao lại thế nhỉ? Có vẻ như anh biết mọi điều về chúng tôi mà. Và bất kỳ điều gì anh không biết thì anh có thể đọc được từ thứ mà tôi tin là một bộ hồ sơ khá tỉ mỉ.”
“Không phải mọi điều đâu,” Linus nói, đóng sổ lại. “Ví dụ như, dường như không có nhiều thông tin về anh cho lắm. Thật ra, hồ sơ của anh khá mỏng đấy. Tại sao vậy nhỉ?”
Anh Parnassus trông lại có vẻ khoái chí, và Linus tự hỏi anh đã bỏ qua điều gì. “Chẳng phải đó nên là một câu hỏi dành cho Ban Quản Lý Thượng Tầng ư? Họ là những người phái anh đến đây cơ mà.”
Anh ta nói đúng, dĩ nhiên là vậy. Việc có ít thông tin đến vậy khiến anh thật bất an. Hồ sơ của ngài Arthur Parnassus không cho anh biết gì ngoài tuổi tác và trình độ học vấn. Ở cuối hồ sơ lại viết một câu khá kỳ lạ: Anh Parnassus sẽ là một tấm gương mẫu mực đối với những đứa trẻ có nhiều vấn đề nhờ vào khả năng của anh ta. Linus đã không biết phải hiểu câu này như thế nào, và giờ, mặt đối mặt nhìn anh ta chỉ khiến anh có thêm nhiều câu hỏi. “Tôi có dự cảm rằng họ sẽ không cho tôi biết nhiều hơn những gì đã nói đâu.”
“Về vấn đề đó, tôi nghĩ là anh đúng rồi đấy.”
Linus đứng dậy. “Tôi mong đợi sự minh bạch hoàn toàn và sự phối hợp của anh trong cuộc điều tra này.”
Anh Parnassus bật cười. “Chuyện gì đã xảy ra với việc chuyến đi này chỉ là một lần thăm hỏi thôi vậy?”
“Đó là lời của anh, thưa anh, không phải của tôi. Hai ta đều biết chuyến đi này là gì. Lý do duy nhất khiến DICOMY phái tôi tới đây là vì đã có căn nguyên cho sự quan ngại của họ. Và tôi có thể thấy được là tại sao. Anh đang chứa một thùng thuốc nổ trong nhà, thứ thuốc quyền năng hơn mức nên có mặt trên đời này.”
“Và nó nên bị kết tội vì đã có mặt trên đời ư? Nó có lựa chọn gì trong việc này đâu?”
Chuyện này có cảm giác như một cuộc thảo luận dành cho những lúc Linus mang theo não trong đầu. Hoặc có thể là không bao giờ nên có. Chỉ riêng những ẩn ý trong đó đã khiến anh cảm thấy yếu ớt lần nữa. “Tôi đến đây để xem liệu có cần áp dụng những biện pháp mạnh tay hơn không.”
“Biện pháp mạnh tay hơn à,” anh Parnassus nói, giọng lần đầu tiên để lộ chút nản lòng thoái chí. “Chúng chẳng có ai cả, anh Baker ạ. Chẳng có ai ngoài tôi hết. Anh thật sự nghĩ là DICOMY sẽ để cho đứa trẻ như Lucy nhập học một trong mấy ngôi trường của họ ư? Hãy nghĩ cho kỹ trước khi trả lời nhé.”
“Chuyện đó chẳng liên quan gì đến việc này cả,” Linus cứng nhắc nói.
Anh Parnassus ngẩng đầu nhìn trần nhà. “Dĩ nhiên là không rồi. Vì đó là chuyện xảy ra sau khi anh xong việc, và anh chẳng thèm quan tâm.” Anh ta lắc đầu. “Giá như anh biết được.”
“Nếu không có trục trặc gì thì anh chẳng có gì phải lo cả,” Linus nói. “Có thể anh nghĩ tôi đã chai sạn, anh Parnassus ạ, nhưng tôi đảm bảo với anh rằng tôi có quan tâm. Nếu không tôi cũng sẽ không làm chức vụ này.”
“Tôi tin là anh tin như vậy.” Anh ta lại nhìn Linus. “Tôi xin lỗi, anh Baker ạ. Phải, anh sẽ làm việc của mình, bằng cách này hay cách khác thôi. Nhưng tôi nghĩ nếu anh mở to hai mắt, anh sẽ thấy điều ở ngay trước mặt mình thay vì những thứ được liệt kê ra trong một tập hồ sơ đấy.”
Linus có cảm giác da mình sởn cả gai ốc. Anh cần phải ra khỏi văn phòng này. Dường như bốn bức tường đang dồn ép lại đây. “Cảm ơn vì đã tiếp đón tôi, ngay cả khi anh không có quyền chọn lựa. Tôi đi nghỉ đây. Ngày hôm nay đã khá bận rộn, và tôi nghĩ ngày mai còn hơn thế nữa kìa.”
Anh quay lưng và mở cửa. Trước khi đóng cửa lại sau lưng, anh nghe thấy câu, “Chúc ngủ ngon, anh Baker.”
Calliope đang đợi phía sau cánh cửa khi anh trở về nhà khách. Anh đã không chạm trán bất kỳ ai khác từ khi rời khỏi văn phòng, dù có nghe thấy tiếng nói âm vang xung quanh sau những cánh cửa đóng. Anh ép mình không được chạy ra khỏi cửa chính.
Calliope ném cho anh một cái liếc mắt trước khi đi qua cánh cửa để mở để làm việc riêng tư của mình. Không khí khá lạnh và trong lúc đứng đợi, anh ngẩng lên nhìn nhà chính. Ánh sáng chiếu qua những ô cửa sổ ở tầng hai, và anh nghĩ mình thấy có ai đó di chuyển đằng sau những tấm rèm buông xuống. Nếu nhớ đúng bố trí của tầng trên, thì anh hẳn đang nhìn cửa sổ phòng Sal.
“Mười hai trại trẻ mồ côi khác nhau,” anh tự lẩm bẩm. “Chuyện như vậy lẽ ra phải có trong hồ sơ của thằng bé chứ. Thế quái nào nó lại chưa nhập học vào trường?”
Calliope trở vào trong nhà, vừa kêu rừ rừ vừa cọ lên chân anh. Anh đóng cửa và khóa lại để đề phòng, dù anh đoán nếu ai đó muốn, thì họ vẫn có thể vào được.
Về phòng ngủ, anh nhớ lại lời cảnh báo của anh Parnassus về việc Chauncey thích trốn dưới gầm giường để hù dọa người ta thế nào. Anh hoàn toàn không thấy được khoảng tối dưới gầm giường vì nó đã bị che giấu bởi tấm chăn buông gần chạm đất.
Anh chà một tay lên mặt. “Tao đang nghĩ nhiều quá rồi. Dĩ nhiên thằng bé không có ở đó. Chuyện ấy thật ngớ ngẩn.”
Anh quay lưng đi ra nhà tắm để làm việc thường làm mỗi đêm.
Đang đánh răng dở, bọt kem đánh răng dồn đống trên cái cằm phúc hậu, thì anh quay lưng và xồng xộc đi về phòng ngủ. Anh quỳ xuống, lật tấm chăn lên, và ngó xuống gầm giường.
Không có con quái vật nào (dù là trẻ con hay gì khác) trốn dưới đó cả.
“Đấy,” anh nói qua một miệng đầy kem đánh răng. “Thấy chưa? Ổn cả mà.”
Anh gần như tin là thế thật.
Tới khi đã mặc đồ ngủ vào và trèo lên giường, anh tin chắc là mình sẽ trằn trọc hết đêm nay. Anh không ngủ ngon ở chỗ lạ, và biết được mọi điều anh biết hôm nay chẳng giúp ích gì. Anh thử đọc quyển LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH (vì dù anh Parnassus có nói cái gì đi nữa, anh chắc chắn là không hề học thuộc lòng quyển sách này), nhưng anh phát hiện ra mình đang nghĩ về một đôi mắt nâu trầm phía trên một nụ cười lặng lẽ, và rồi chẳng còn gì khác ngoài một màu trắng tinh.