Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 08
Sáng hôm sau anh chậm rãi chớp mắt tỉnh dậy.
Ánh nắng ấm áp tràn vào qua cửa sổ. Anh ngửi thấy mùi muối trong không khí.
Mọi thứ có cảm giác như một giấc mơ xinh đẹp.
Nhưng rồi thực tại ập tới, và anh nhớ ra mình đang ở đâu.
Và đã nhìn thấy gì.
“Ôi trời ơi!” anh vừa khàn giọng lầm bầm vừa ngồi dậy trên giường, xoa tay lên mặt.
Calliope nằm cuộn tròn ở mép giường gần chân anh, đuôi quét qua quét lại, mắt nhắm chặt.
Anh ngáp dài rồi lật chăn ra, đặt chân xuống sàn. Anh vươn vai, lách tách giãn khớp lưng. Dù đang ở trong tình cảnh nào đi chăng nữa, anh cũng phải công nhận rằng kể từ khi nào chẳng nhớ nổi, anh chưa từng ngủ ngon giấc đến vậy. Vì việc ấy, cùng với ánh nắng ban mai, và tiếng sóng biển rì rào đằng xa, anh gần như có thể giả vờ rằng đây chẳng qua chỉ là một kỳ nghỉ mình xứng đáng có được, và rằng anh đang…
Có gì đó lạnh lẽo và ướt át quấn quanh mắt cá chân anh.
Linus hét lên và giật chân lên. Trong cơn hoảng sợ, anh tính toán sai sức lực của chính mình, và chân anh hất lên quá đầu rồi anh lộn nhào về phía sau và rơi xuống phía bên kia giường. Anh đáp đất bằng lưng cùng tiếng bịch ghê người, hơi rút cạn khỏi phổi một cách ngoạn mục.
Anh quay đầu về phía gầm giường.
“Chào chú,” Chauncey nói, mắt nhảy nhót trên cuống. “Cháu không định dọa chú thật đâu. Sắp đến giờ ăn sáng rồi ạ. Chúng ta sẽ ăn trứng đấy!”
Linus quay lại nhìn trần nhà và đợi nhịp thở của mình chậm lại.
Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu
Báo cáo #1 về Trại trẻ mồ côi Marsyas
Linus Baker, nhân viên công tác xã hội BY78941
Tôi xin trang trọng thề rằng nội dung của bản báo cáo này là chính xác và đúng với sự thực. Theo chủ trương của DICOMY, tôi hiểu rằng bất kì sự sai lệch nào bị phát hiện có thể dẫn đến việc bị khiển trách và đuổi việc.
Bản báo cáo này, và những bản theo sau, sẽ bao gồm những việc tôi quan sát được xuyên suốt mỗi tuần của cuộc điều tra.
Đảo Marsyas và trại trẻ ở đây không như những gì tôi mong đợi.
Sở nên lưu ý rằng những hồ sơ được giao cho tôi trong nhiệm vụ này thiếu sót một cách đáng thương, bỏ qua những thông tin thích đáng mà tôi tin là đã có thể giúp tôi chuẩn bị cho những gì cuộc điều tra này mang lại. Hoặc những hồ sơ này bị thiếu hụt nhiều phần, hoặc là chúng đã bị kiểm duyệt. Nếu là trường hợp một, thì đây là một sai phạm nghiêm trọng. Nếu là trường hợp hai, cấp độ bảo mật tạm thời của tôi lẽ ra phải được xóa bỏ kiểm duyệt. Tôi đề nghị Sở xem xét lại chính sách đối với mọi nhiệm vụ cấp độ bốn trong tương lai, để đảm bảo rằng không nhân viên công tác xã hội nào đi xử lý tình huống mà không biết những điều cần biết.
Xin thứ lỗi cho tôi nếu những lời này nghe có vẻ đòi hỏi. Chỉ là tôi tin rằng lẽ ra mình phải được cấp cho nhiều thông tin hơn mà thôi.
Trại trẻ mồ côi Marsyas không như những gì tôi đã tưởng. Bản thân ngôi nhà khá ma quái, dù trông có vẻ được gìn giữ kỹ càng. Nhà khá lớn, và nội thất hơi bừa bộn, dù là theo kiểu khiến ngôi nhà có cảm giác có người ở hơn là lãnh địa của một kẻ tích trữ. Dĩ nhiên là ngoài kho tàng thứ thiệt thuộc về Wyvern Theodore, nhưng tôi chưa nhìn thấy cụ thể kho tàng ấy gồm những thứ gì.
Lũ trẻ đều có phòng riêng. Vào những ngày đầu tiên này, tôi đã thấy nội thất của phòng thuộc về cô bé Thần vườn Talia (tường phòng này được trang trí nhiều hoa hơn cả toàn bộ số hoa trong khu vườn gộp lại), cô bé Tinh linh Phee (tôi tin rằng giường của cô bé thật ra là một cái cây mọc xuyên qua ván sàn, dù có chết tôi cũng không hiểu được làm sao chuyện ấy có thể xảy ra), cậu bé… Chauncey (có nước muối đọng trên sàn mà cháu cam đoan với tôi là sẽ được lau dọn một lần mỗi tuần), và cậu bé Theodore (cậu bé này đã làm tổ trên gác mái mà tôi chỉ được phép lên xem một khi tôi tặng cháu chiếc cúc áo khác; vì tôi không có cúc dự phòng, tôi đã phải cắt một cái từ một trong mấy chiếc áo sơ mi ra. Tôi cho là Sở sẽ đền bù thiệt hại này cho tôi).
Tôi chưa xem phòng thuộc về cậu bé Sal. Cháu không tin tôi, và trông thật sự có vẻ khiếp sợ tôi, dù đó không phải là lỗi của cháu. Cháu hiếm khi nói câu nào khi tôi có mặt, nhưng dựa trên chuyện cũ của cháu, tôi có thể hiểu tại sao. Tôi phải nói thêm là những chuyện cũ ấy tôi cũng không được biết vì hồ sơ của cháu phần lớn đều nói về khả năng biến hình (dĩ nhiên là đã bỏ qua phần quan trọng nhất trong đó). Dù chuyện này chắc chắn là thú vị nhưng tôi xin nói rằng như vậy là không đủ. Tôi được cho biết rằng đây là trại trẻ thứ mười ba của cháu. Thông tin này lẽ ra sẽ giúp tôi hiểu rõ tình hình hơn khi đến nơi.
Tôi chưa xem phòng của Lucy. Tôi chưa hỏi đến. Cháu đã đề nghị với tôi nhiều lần. Có lần, cháu dồn tôi vào góc và thì thầm rằng tôi sẽ không tin vào mắt mình đâu, nhưng tôi nghĩ tôi chưa sẵn sàng. Tôi đảm bảo sẽ kiểm tra nơi ấy trước khi rời đi. Nếu đó là việc cuối cùng tôi làm trên đời thì di chúc của tôi đã được nộp lên ban Nhân sự. Nếu di thể của tôi còn đầy đủ, xin hãy sắp xếp hỏa thiêu chúng.
Sở nên lưu ý rằng ngoài lũ trẻ ra, còn có một Tinh linh giữ đảo tên là Zoe Chapelwhite. Việc tôi không được cho biết về sự hiện diện của bà ta cho đến khi đến đây khá là bất thường. Như Sở chắc chắn đã biết, Tinh linh có tính bảo vệ lãnh thổ rất mạnh. Tôi tới một hòn đảo ngoài mặt là của Tinh linh này mà không được bà ta trực tiếp mời tới. Bà ta lẽ ra hoàn toàn có quyền từ chối cho tôi lên đảo, hoặc tệ hơn nữa. Việc này nói lên rằng hoặc DICOMY không biết tới vị này, hoặc không thấy cần phải cho tôi biết về sự hiện diện của bà ta.
Từ việc ấy tôi muốn bàn đến chuyện anh Parnassus. Hồ sơ bao gồm một trang giấy của anh ta không cho tôi biết được điều gì về hiệu trưởng của Trại trẻ mồ côi Marsyas. Như vậy rõ ràng là không ổn. Tôi biết tôi luôn luôn có thể yêu cầu anh ta kể về bản thân, nhưng tôi muốn đọc thông tin về anh ta hơn thay vì đối thoại. Tôi ở đây để quan sát và báo cáo. Bên cạnh những nghĩa vụ hiện giờ, việc tôi còn phải trở thành một người khéo ăn khéo nói khiến tôi thấy khó chịu.
Có điều gì đó ở anh ta, anh Parnassus đó, mà tôi không tài nào nắm bắt được. Rõ ràng anh ta có vẻ khá được việc. Lũ trẻ trông hạnh phúc, thậm chí có khi còn mau ăn chóng lớn. Anh Parnassus có một khả năng kỳ bí là biết được lũ trẻ đang ở đâu vào bất kỳ lúc nào và biết chúng đang làm gì, ngay cả khi chúng không ở trong tầm mắt anh ta. Anh ta không giống bất kỳ ai tôi từng gặp trước đây.
Có lẽ rốt cuộc nói chuyện với anh ta cũng không phải là một nhiệm vụ khó nhằn đến vậy. Và tôi sẽ phải làm ấy. Vì dù lũ trẻ có vẻ hạnh phúc đến đâu, thì ngôi nhà này cũng trông như sắp loạn lạc đến nơi. Khi tôi đến, lũ trẻ đang lang thang trên đảo. Các cháu bảo tôi rằng chúng được phép nuôi dưỡng những vui thú cá nhân vài tiếng mỗi ngày, nhưng có vẻ… không khôn ngoan khi để những đứa trẻ đặc biệt này không có ai giám sát trong bất kỳ khoảng thời gian kéo dài nào. Đã có những tài liệu cho thấy rõ ràng rằng thanh thiếu niên nhiệm màu không hoàn toàn kiểm soát được bất kỳ quyền năng nào chúng sở hữu, có đứa còn thiếu kiểm soát hơn những đứa khác.
Dẫu vậy, tôi hiểu rằng việc bảo mật là cần thiết ở đây vì bản chất những đứa trẻ này. Tôi phải thú thực rằng có thể Sở đang hơi cường điệu hóa vấn đề. Nói cho cùng, dù bối cảnh của các cháu có thế nào, chúng cũng chỉ là trẻ con mà thôi.
Chúng có thể khó bảo đến thế nào dưới chủ trương mà LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH đề ra kia chứ?
“Hỏa ngục và tro tàn!” Lucy vừa rống lên vừa rảo bước qua lại. “Chết chóc và hủy diệt! Ta, kẻ báo hiệu đại họa, sẽ giáng bệnh dịch và dịch bệch xuống cư dân của thế giới này. Máu của những người vô tội sẽ nuôi dưỡng ta, và tất cả các ngươi sẽ phải quỳ xuống tạ ơn vì ta là Thần.”
Thằng bé cúi chào.
Lũ trẻ và anh Parnassus lịch sự vỗ tay. Theodore chiêm chiếp và xoay một vòng.
Linus há hốc miệng.
“Đó là một câu chuyện rất dễ thương, Lucy à,” anh Parnassus nói. “Ta đặc biệt thích cách con sử dụng các phép ẩn dụ. Hãy nhớ rằng bệnh dịch và dịch bệnh về căn bản là cùng một thứ, vậy nên câu cú có hơi trùng lặp ở đoạn cuối, nhưng ngoài chỗ đó ra, thì khá ấn tượng đấy. Giỏi lắm.”
Họ đang ngồi trong phòng tiếp khách của nhà chính, nơi này đã được biến thành một lớp học. Có sáu cái bàn nhỏ dàn hàng trước một cái bàn lớn. Một tấm bảng xanh cũ kỹ đặt gần cửa sổ, trông như thể nó mới được cọ sạch gần đây. Những mẩu phấn mập mạp đặt trong một cái hộp gần đó. Có bản đồ Trái Đất treo trên một mặt tường, và một máy chiếu đặt trên giá kim loại ở trong góc. Các bức tường đều xếp đầy sách, giống y như văn phòng của anh Parnassus. Có sách bách khoa toàn thư, tiểu thuyết, sách kể chuyện thật về các thần và nữ thần Hy Lạp, sách về danh pháp khoa học của hoa cỏ thực vật và Linus nghĩ mình đã thấy một quyển có chữ vàng dập trên gáy ghi Lịch sử Thần vườn: Mối liên hệ trong văn hóa và vị thế trong xã hội. Trông sách có vẻ dày ít nhất là một nghìn trang, và Linus thấy ngứa ngáy muốn đọc vô cùng.
Lucy ngồi vào bàn, trông khá hài lòng với bản thân. Thằng bé là đứa thứ năm biểu diễn trong khoảng thời gian mà anh Parnassus trình bày là một tiết học trong thời khóa biểu có tên Bộc Lộ Bản Thân. Lũ trẻ được mời lên trước lớp để kể một câu chuyện mình tự nghĩ ra, dù là chuyện thật hay chuyện bịa. Talia đã kể một câu chuyện khá gắt gỏng về một kẻ không mời mà tới đi lên một hòn đảo và từ đó không ai nghe tin gì về hắn nữa. Theodore (theo lời anh Parnassus) đã làm một bài vè vui nhộn khiến tất cả mọi người (trừ Linus) lăn ra cười tới khi chảy nước mắt. Phee kể về một cái cây cụ thể nọ trong rừng mà con bé đang trồng và những hy vọng của nó đối với phần rễ cây. Chauncey khiến mọi người say sưa với lịch sử của nghề nhân viên hành lý (thứ mà Linus kết luận là một loạt chuyện còn đang tiếp diễn).
Và rồi đến lượt Lucy.
Lucy, người đã đứng trên bàn của anh Parnassus và về căn bản là đe dọa hủy diệt toàn bộ hành tinh này, hai nắm tay bé nhỏ vung lên quá đầu, hai mắt nảy lửa.
Tiết Bộc Lộ Bản Thân, theo lời anh Parnassus, là một ý tưởng sẽ khiến lũ trẻ tự tin hơn. Linus biết quá rõ nỗi khiếp sợ trong việc phải lên tiếng trước những người ngồi xem. Hai lần một tuần, lũ trẻ sẽ được yêu cầu phát biểu trước mặt nhau về bất kỳ chủ đề gì chúng thích. Ngoài việc cho chúng cơ hội để luyện tập diễn thuyết, anh Parnassus nói anh ta tin rằng tiết học này là nơi để thỏa sức sáng tạo. “Đầu óc trẻ con là một nơi diệu kỳ,” anh ta nói với Linus khi họ theo những người khác đi về phía phòng tiếp khách. “Có vài thứ chúng nghĩ ra dường như còn thách thức trí tưởng tượng của ta kìa.”
Linus thấu hiểu điều ấy từ tận đáy lòng. Anh hoàn toàn tin rằng Lucy có thể làm được mọi điều thằng bé vừa hò hét ra.
Linus ngồi trên cái ghế đặt ở cuối phòng khách. Lũ trẻ đã cho anh chỗ ngồi gần hơn, nhưng anh lắc đầu, nói rằng tốt nhất là anh ngồi cách ra để quan sát. Anh đã cầm sẵn sổ và bút, đặt trên cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH (thứ anh đã định bỏ lại trong phòng, nhưng rồi quyết định không làm vậy; lúc nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để nhỡ đâu cần xem lại quy định) khi đứa đầu tiên lên đứng trước lớp, nhưng cuốn sách đã nhanh chóng trôi vào quên lãng. Anh tự nhủ rằng mình cần phải ghi chép thật nhiều để báo cáo không bị thiếu sót, đặc biệt là vì chẳng có mục nào trong LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH nói về việc trẻ con phát biểu theo kiểu này cả.
Và vì Lucy đã nói xong, như thế có nghĩa là năm đứa trẻ đã phát biểu.
Tức là còn…
“Sal?” anh Parnassus nói. “Mời con.”
Sal càng rũ thấp người trên ghế như thể thằng bé đang cố khiến mình bé nhỏ hơn. Trông cảnh này gần như tức cười, vì khổ người của nó. Nó chớp nhoáng ngoái ra sau liếc Linus rồi lại quay ngoắt đầu về phía trước khi thấy mình đang bị theo dõi. Nó lầm bầm lời gì đó mà Linus không nghe ra được.
Anh Parnassus đứng trước bàn thằng bé. Anh ta cúi xuống gõ một ngón tay lên vai Sal. Anh ta nói, “Những điều ta e sợ nhất thường là những điều ta không nên sợ nhất. Chuyện ấy thật vô lý, nhưng lại là thứ giúp chúng ta thành người. Và nếu chúng ta có thể chinh phục những nỗi sợ ấy, thì sẽ chẳng có gì mà ta không làm được cả.”
Theodore kêu chiêm chiếp từ trên bàn, rung rinh đôi cánh.
“Theodore nói đúng đấy,” Phee nói, hai tay chống cằm. “Anh làm được mà, anh Sal.”
Cặp mắt của Chauncey nhún nhảy. “Đúng đấy! Anh làm được mà!”
“Bên trong anh là một tinh thần cứng cỏi,” Talia nói. “Và chính những điều bên trong mới là quan trọng.”
Lucy ngửa đầu ra sau và nhìn lên trần nhà. “Bên trong ta đang thối rữa và sưng phù như một vết thương nhiễm trùng chảy mủ.”
“Thấy chưa?” anh Parnassus nói với Sal. “Mọi người ở đây đều tin tưởng con. Tất cả những gì con cần làm là tin vào chính mình mà thôi.”
Sal lại ngoái lại liếc Linus, anh cố trao cho thằng bé thứ mà anh hy vọng là một nụ cười động viên. Ý tứ ấy hẳn là không được truyền đạt suôn sẻ cho lắm, vì Sal nhăn mặt, nhưng hoặc là thằng bé đã tìm được dũng khí, hoặc đã buông xuôi bản thân vì không trốn đi đâu được, vì nó mở nắp bàn học và lấy ra một mảnh giấy. Nó chậm rãi đứng dậy. Thằng bé vẫn cứng đờ khi đi lên trước lớp. Anh Parnassus ngồi lên mép bàn mình. Ống quần anh ta vẫn quá ngắn và để lộ cặp tất màu cam chói xúc phạm người nhìn.
Sal đứng trước lớp, nhìn chằm chằm vào mảnh giấy siết chặt trong tay. Tờ giấy khẽ run rẩy. Linus ngồi im như tượng, tin chắc rằng bất kỳ cử động nào của mình cũng sẽ khiến Sal bỏ chạy.
Miệng Sal bắt đầu động đậy, tiếng lầm bầm của thằng bé gần như không thể nghe được.
“To hơn chút nào,” anh Parnassus dịu dàng nói. “Mọi người đều muốn nghe con nói mà. Diễn đạt lên nào, Sal. Giọng nói là một thứ vũ khí đấy. Đừng bao giờ quên điều đó.”
Những ngón tay siết chặt quanh tờ giấy trong tay nó. Linus nghĩ thứ ấy sẽ toạc ra mất.
Sal hắng giọng và bắt đầu lại.
Thằng bé nói, “Ta chỉ là giấy. Vụn vỡ và mong manh. Người đưa ta ra dưới nắng, nắng chiếu xuyên qua ta. Người viết lên ta, ta không còn dùng được nữa. Những vết bút ấy là lịch sử. Chúng là câu chuyện. Chúng kể chuyện cho người đọc, nhưng người chỉ thấy chữ, mà không xem những chữ ấy viết lên đâu. Ta chỉ là giấy, và dù có nhiều người như ta, chẳng có ai hoàn toàn như ta. Ta là giấy da nứt nẻ. Ta có dòng kẻ. Ta có lỗ dập. Làm ta ướt nước, ta sẽ tan ra. Châm lửa đốt ta, và ta sẽ cháy. Siết ta trong những bàn tay cứng rắn, và ta sẽ nhàu nát. Ta rách toạc. Ta chỉ là giấy. Vụn vỡ và mong manh.”
Nó vội vàng về chỗ.
Mọi người hò reo.
Linus trân trối nhìn.
“Thật tuyệt vời,” anh Parnassus nói đầy tán thưởng. “Cảm ơn con vì bài viết này, Sal ạ. Ta đặc biệt thích chi tiết những vết bút như một lịch sử. Ta cảm nhận được điều ấy, vì chúng ta đều có thứ lịch sử ấy, ta nghĩ vậy, dù không lịch sử nào giống lịch sử nào như con đã khéo léo chỉ ra. Làm tốt lắm.”
Linus có thể thề là anh đã thấy Sal mỉm cười, nhưng trước khi anh dám chắc được thì nụ cười đã biến mất.
Anh Parnassus vỗ hai tay vào nhau. “Chà, vậy đó. Chúng ta tiếp tục chứ? Vì hôm nay là thứ ba, như thế có nghĩa là chúng ta sẽ bắt đầu buổi sáng với tiết toán học.”
Lũ trẻ rền rĩ. Theodore liên tục đập đầu xuống mặt bàn.
“Thế nhưng chúng ta vẫn sẽ học tiếp đấy,” anh Parnassus nói, giọng có vẻ khoái chí. “Phee? Con phát sách giáo khoa nhé? Hôm nay, chúng ta sẽ trở lại thế giới số học hoang sơ và diệu kỳ. Với vài đứa thì là trình độ nâng cao, với vài đứa khác thì sẽ là cơ hội xả hơi. Chúng ta may mắn quá các con nhỉ?”
Ngay cả Linus cũng rên rỉ trước những lời ấy.
Linus rời nhà khách sau bữa trưa, chuẩn bị quay lại phòng tiếp khách để dự giờ học hứa hẹn sẽ là một buổi thảo luận thú vị về cuốn Magna Carta thì bà Chappelwhite hiện ra từ thinh không, khiến anh giật mình đến mức gần như lảo đảo lùi về hiên nhà.
“Sao bà lại làm vậy?” anh hổn hển, túm ngực, tin chắc rằng trái tim khốn khổ của mình chuẩn bị nổ tung. “Huyết áp của tôi vốn đã cao rồi! Bà đang cố giết tôi à?”
“Nếu tôi muốn giết cậu, tôi biết nhiều cách khác để thực hiện việc đó kìa,” bà thư thái nói. “Cậu phải đi với tôi.”
“Tôi không việc gì phải làm vậy cả. Tôi có một nhóm trẻ con để quan sát và một bản báo cáo tôi hầu như còn chưa đặt bút viết. Vả lại, cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH ghi rõ rằng một nhân viên công tác xã hội không được để mình bị phân tán tư tưởng khi đang làm nhiệm vụ và…”
“Đây là việc quan trọng.”
Anh cảnh giác nhìn bà. “Tại sao?”
Cặp cánh rung lên sau lưng bà. Trông bà như đang lớn lên cho tới khi đứng cao hơn đầu anh, dù chuyện ấy là không thể. “Tôi là Tinh linh đảo Marsyas. Đây là đảo của tôi. Cậu ở đây vì tôi cho phép cậu. Ghi nhớ điều ấy thì sẽ tốt hơn cho cậu đấy, cậu Baker ạ.”
“Phải, phải, dĩ nhiên rồi,” anh vội vàng nói. “Ý tôi muốn nói là, tôi chắc chắn sẽ đi với bà tới bất kỳ nơi nào bà yêu cầu.” Anh khó nhọc nuốt khan. “Miễn trong mức hợp lý.”
Bà cười khẩy rồi lùi lại một bước. “Lòng dũng cảm của cậu thật là bao la vô ngần.”
Anh xù lông. “Này nghe cho rõ đây, chỉ vì…”
“Cậu còn đôi giày nào khác không?”
Anh nhìn xuống đôi giày lười của mình. “Có nhưng chúng cũng na ná vậy thôi. Sao thế?”
Bà nhún vai. “Chúng ta sẽ đi bộ qua rừng.”
“Ồi Chà! Có lẽ chúng ta nên dời việc đó sang một ngày khác…”
Nhưng bà đã quay đi và bắt đầu đi xa khỏi anh. Anh nghiêm túc cân nhắc việc lờ bà đi và trở lại nơi tương đối an toàn trong nhà chính, nhưng rồi anh nhớ ra vị yêu tinh này có thể trục xuất anh nếu bà muốn.
Và một phần trong anh, dù rất nhỏ nhoi, đang tò mò về thứ bà muốn cho anh thấy. Đã rất lâu rồi kể từ lần cuối cùng anh cảm thấy tò mò về bất kỳ điều gì.
Vả lại, hôm nay là một ngày vô cùng đẹp trời. Có lẽ ở bên ngoài giữa ánh nắng ngập tràn này sẽ có lợi cho anh.
Mười phút sau, anh ước gì mình chết quách cho xong.
Nếu Talia mang xẻng đến chỗ anh, anh nghĩ mình sẽ không ngăn con bé lại.
Nếu Lucy đứng trên cao trước mặt anh, mắt rực cháy, lửa thiêu đốt, anh sẽ dang rộng vòng tay đón chào thằng bé.
Bất kỳ thứ gì đến cứu anh khỏi chuyến lặn lội trong rừng này.
“Tôi đang nghĩ,” anh hổn hển, mồ hôi túa ra trên trán, “rằng đến lúc nghỉ chân một chút rồi. Bà thấy ý này thế nào? Thật tuyệt vời, tôi tin là vậy.”
Bà Chapelwhite ngoái lại nhìn anh, trên mặt là vẻ không tán thành. Trông bà chẳng có vẻ hết hơi chút nào. “Không còn xa nữa đâu.”
“Ồ!” Linus gắng gượng nói. “Tốt! Tốt! Vậy thì… tốt quá.” Anh vấp phải một khúc rễ, nhưng nhờ trời phù hộ đã giữ cho mình đứng thẳng được. “Và tôi mong rằng thước đo khoảng cách và thời gian của Tinh linh cũng giống như của người, tức là câu không còn xa nữa nghe như thế nào thì nghĩa là đúng như vậy.”
“Cậu không thường xuyên ra ngoài, phải không?”
Anh lấy tay áo lau trán. “Tôi đi ra ngoài nhiều hết mức một người làm chức vụ của tôi cần ra ngoài.”
“Ra ngoài thiên nhiên ấy, ý tôi là vậy.”
“Ồ! Thế thì không. Tôi thích sự thoải mái và phải nói là an toàn trong nhà mình hơn. Cảm ơn nhiều nhé, nhưng tôi muốn ngồi vào ghế và nghe nhạc hơn.”
Bà giữ một cành cây to đùng cho anh đi qua. “Cậu đã luôn muốn thấy biển kia mà.”
“Mơ mộng chỉ đơn thuần là… mơ mộng vậy thôi. Chúng nên là những lần trí tưởng tượng của ta bay xa. Chúng không nhất thiết phải trở thành sự thực.”
“Vậy nhưng cậu đã ở đây, bên bờ biển, rời xa khỏi cái ghế và ngôi nhà của cậu rồi.” Bà khựng lại và ngẩng mặt nhìn lên trời. “Âm nhạc có ở muôn nơi, cậu Baker ạ. Cậu chỉ phải học cách lắng nghe thôi.”
Anh nhìn theo ánh mắt của bà. Trên đầu họ, cây cối đu đưa, gió xào xạc thổi qua tán lá. Cành cây kẽo kẹt. Chim hót líu lo. Anh nghĩ mình nghe thấy tiếng sóc chí chóe. Và ẩn dưới tất cả những âm thanh ấy, là khúc ca của biển cả, những con sóng xô bờ, mùi muối nồng đậm trong không trung.
“Tuyệt thật,” anh công nhận. “Vụ đi bộ thì không. Thật lòng mà nói, tôi có thể sống tốt mà không cần đi bộ đường trường. Khá phiền phức với người như tôi.”
“Cậu đang đeo cà vạt đứng ở giữa rừng đấy.”
“Tôi có định đứng ở giữa rừng đâu,” anh cấm cảu. “Thật ra, lẽ ra tôi phải đang ghi chép ở trong nhà kìa.”
Bà lại bắt đầu di chuyển qua những thân cây, đôi chân trần hầu như không chạm đất. “Để phục vụ cuộc điều tra của cậu.”
“Đúng vậy, để phục vụ cuộc điều tra của tôi. Và nếu tôi phát hiện ra bà đang cản đường tôi theo bất kỳ cách nào…”
“Cậu Parnassus có được đọc báo cáo của cậu trước khi cậu gửi chúng đi không?”
Linus nheo mắt khi bước lên một khúc cây mọc đầy rêu. Ở phía trước, anh có thể thấy cát trắng và biển xanh thấp thoáng. “Tuyệt đối không. Như vậy là không đúng quy định. Tôi sẽ không bao giờ…”
“Thế thì tốt,” bà nói.
Lời ấy khiến anh chớp mắt. “Thế à?”
“Đúng thế.”
“Tại sao lại thế?”
Bà quay lại nhìn anh. “Vì cậu sẽ muốn ghi cả chuyện này vào bản báo cáo, và tôi không muốn cậu ấy biết.” Dứt lời, bà bước ra bãi biển.
Anh nhìn chằm chằm theo bà một lát trước khi nối gót.
Đi giày lười cuốc bộ trên bãi biển không phải là một việc Linus thích làm. Anh thoáng nghĩ tới việc cởi giày và tất ra và để ngón chân mình vùi vào trong cát, nhưng suy nghĩ ấy trôi tuột khỏi đầu anh khi anh thấy thứ đang đợi họ trên bãi biển.
Cái bè được chắp vá một cách vội vàng. Nó bao gồm bốn tấm ván gỗ buộc vào với nhau bằng một sợi dây gai dày, màu vàng. Có một cột buồm nhỏ, trên đó phấp phới thứ trông như một lá cờ.
“Cái gì vậy?” Linus hỏi, bước một bước về phía cái bè, chân chìm vào trong cát. “Còn ai đó khác trên đảo này sao? Thứ ấy không đủ lớn cho người đàn ông hay phụ nữ nào cả. Có phải là một đứa trẻ không?”
Bà Chapelwhite u ám lắc đầu. “Không. Bè này được gửi tới đây từ ngôi làng. Ai đó đã thả nó xuống từ thuyền của họ. Tôi tin là họ muốn nó trôi đến cảng như cái trước, nhưng sóng biển đánh nó tới đây.”
“Như cái trước ư?” Linus hỏi, bối rối. “Đã có bao nhiêu cái bè rồi?”
“Đây là cái thứ ba.”
“Tại sao lại có người… Ôi! Ôi trời ơi!”
Bà Chapelwhite đã trải cuộn giấy da buộc trên cột buồm ra. Dòng chữ được viết bằng những chữ cái thô kệch: BIẾN ĐI. CHÚNG TAO KHÔNG MUỐN LOẠI CHÚNG MÀY Ở ĐÂY.
“Tôi chưa kể với cậu Parnassus về những thứ này,” bà khẽ nói. “Nhưng tôi sẽ không ngạc nhiên nếu bằng cách nào đó cậu ấy đã biết rồi. Cậu ấy… tinh ý lắm.”
“Và việc này là nhằm vào ai? Lũ trẻ ư? Anh Parnassus? Hay vào bà?”
“Vào tất cả chúng tôi, tôi nghĩ vậy, dù tôi đã ở đây lâu hơn những người khác rất nhiều.” Bà thả cho lá cờ rơi lại bên cột buồm. “Và nếu chỉ có tôi thì họ khôn ngoan hơn thế này nhiều.”
Anh cau mày trước cảm giác rợn tóc gáy ấy. “Tại sao lại có người làm chuyện như thế này nhỉ? Chúng chỉ là trẻ con mà thôi. Phải, chúng… khác so với hầu hết những đứa trẻ khác, nhưng điều ấy đúng ra chẳng quan trọng gì mới phải.”
“Đúng ra là không,” bà đồng tình với anh, lùi lại một bước, chùi tay như thể chúng bị bẩn vì chạm vào mảnh giấy da. “Nhưng lại có đấy. Tôi đã kể với cậu về ngôi làng rồi, cậu Baker ạ. Và cậu đã hỏi tôi tại sao họ lại cư xử như vậy.”
“Và bà né tránh trả lời câu hỏi của tôi, nếu tôi nhớ không nhầm.”
Miệng bà mím lại thành một đường thẳng. Cánh bà lấp lánh dưới ánh nắng. “Cậu không phải là một người đần độn. Rõ ràng là thế. Họ cư xử như vậy vì chúng ta khác biệt. Ngay cả cậu cũng hỏi tôi có ghi danh không chỉ vài phút sau khi chúng ta gặp mặt.”
“Đây là hành vi ngược đãi,” Linus cứng nhắc nói, cố gắng lờ đi lời châm chích sắc lẻm. “Rõ ràng là vậy. Có lẽ dân làng không biết chính xác là ai ở trên đảo này, và như thế có khi là tốt nhất. Nhưng dù thực tế là vậy, không ai đáng bị buộc phải cảm thấy thấp kém hơn con người thật của họ.” Anh cau mày. “Đặc biệt là khi chính phủ trả tiền cho những người đó để họ giữ im lặng. Thế này hẳn là đã vi phạm hợp đồng nào đó rồi.”
“Không chỉ là ngôi làng này, cậu Baker ạ. Việc cậu không phải nếm mùi định kiến trong cuộc sống hàng ngày không giúp xoá bỏ sự tồn tại của nó đối với những người khác đâu.”
THẤY GÌ Ư, NÓI GÌ ĐI, biển báo trên xe buýt đã ghi vậy. Và thật ra, nó có ở khắp nơi, không phải ư? Gần đây xuất hiện mỗi lúc một nhiều hơn. Trên xe buýt. Trên báo chí. Biển quảng cáo. Quảng cáo trên đài phát thanh. Chà, anh thậm chí còn thấy dòng chữ ấy in trên túi đi chợ chứ không phải trên đâu khác.
“Phải,” anh chậm rãi nói. “Tôi cũng nghĩ là không.”
Bà nhìn anh, những bông hoa cài trên tóc trông như thể đang bung nở. Anh nghĩ chúng thật sự đang nở. “Vậy mà những đứa trẻ này bị tách khỏi bạn bè đồng trang lứa.”
“Dĩ nhiên là vì sự an toàn của những đứa khác.”
“Hoặc vì sự an toàn của chính chúng nó.”
“Không phải hai điều đó là một ư?”
Bà lắc đầu. “Không. Và tôi nghĩ là cậu biết vậy.”
Anh không biết phải nói gì để đáp lời, nên anh không nói gì cả.
Bà Chapelwhite thở dài. “Tôi muốn cậu tận mắt thấy thứ này. Để cậu biết nhiều hơn những gì viết trong mớ hồ sơ kia. Lũ trẻ không biết, và tốt nhất là nên giữ nguyên như vậy.”
“Bà có biết ai thả cái bè này không?”
“Không.”
“Còn anh Parnassus thì sao?”
Bà nhún vai.
Anh nhìn ra xung quanh, đột nhiên thấy lo lắng. “Bà có nghĩ họ đang gặp nguy hiểm không? Ai đó có thể đến đảo này và mưu toan gây hại không?” Chính suy nghĩ ấy khiến bụng anh quặn lại. Không thể thế được. Sử dụng bạo lực với bất kỳ đứa trẻ nào là sai trái, dù chúng làm được những gì đi chăng nữa. Đã có lần anh thấy hiệu trưởng một trại trẻ mồ côi tát lên mặt một bé trai, chỉ vì đứa bé ấy đã biến được một miếng hoa quả thành băng. Trại trẻ ấy đã bị đóng cửa gần như ngay lập tức, và hiệu trưởng bị buộc tội.
Hắn chỉ phải lãnh một hình phạt nhẹ nhàng.
Linus không biết sau đó chuyện gì đã xảy ra với cậu bé.
Nụ cười nở trên mặt bà Chapelwhite không có chút vui vẻ nào. Thật ra, Linus thầm nghĩ nụ cười ấy trông còn hơi dữ dằn. “Chúng không dám đâu,” bà nói, nhe ra hơi bị nhiều răng. “Ngay giây phút chúng bước lên đảo của tôi với ý định làm hại người nào đó trong ngôi nhà kia, đó sẽ là điều cuối cùng chúng làm trong đời.”
Anh tin bà. Anh suy nghĩ kỹ càng một lát, rồi nói, “Có lẽ chúng ta nên gửi một thông điệp đi để trả lời.”
Bà nghiêng đầu về phía anh. “Không phải việc ấy là trái với luật lệ và quy tắc của cậu sao?”
Anh không thể nhìn vào đôi mắt thấu hiểu của bà. “Tôi tin là không có mục nhỏ nào dành cho những tình huống như thế này đâu.”
“Cậu có ý tưởng gì trong đầu?”
“Bà là Tinh linh giữ đảo.”
“Kỹ năng quan sát của anh thật khiến người khác kinh ngạc biết bao.”
Anh khịt mũi. “Có nghĩa là bà có thể điều khiển dòng chảy quanh đảo của mình, đúng không? Và cả luồng gió nữa.”
“Có vẻ như cậu biết rất nhiều về các sinh vật nhiệm màu, cậu Baker ạ.”
“Tôi rất giỏi việc tôi làm,” anh nghiêm túc nói. Anh lấy bút chì ra khỏi túi. “Bà kéo miếng giấy ra cho tôi, được không?”
Bà Chapelwhite lưỡng lự trong chốc lát rồi làm như anh bảo.
Anh mất vài phút làm việc kia. Anh phải tô mỗi chữ cái nhiều lần để khiến câu mình viết hiện rõ hơn. Tới khi anh xong việc, nụ cười của bà Chapelwhite đã dịu xuống, và đó có lẽ là biểu cảm chân thành nhất anh từng thấy kể từ khi gặp bà.
“Tôi không nghĩ cậu lại làm được những việc như thế này, cậu Baker ạ,” bà nói, giọng đầy vui sướng.
“Tôi cũng không,” anh lầm bầm, quệt mồ hôi khỏi trán. “Tốt nhất là chúng ta đừng bao giờ nhắc lại chuyện này nữa.”
Anh giúp bà đẩy lại cái bè xuống nước, dù anh nghĩ bà chỉ đang chiều lòng anh thôi. Bà chắc chắn là không cần anh giúp. Tới khi cái bè lại ra khơi, tờ giấy bay phấp phới, giày lười của anh đã ướt, tất sũng nước, và anh thở một cách nặng nhọc.
Nhưng anh cảm thấy nhẹ nhõm hơn theo cách nào đó. Cảm thấy như anh không phải là lớp sơn hòa lên mặt tường.
Anh cảm thấy mình là thật.
Anh cảm thấy mình đang hiện diện nơi đây.
Gần như là người khác thấy được anh.
Gió nổi lên, và cái bè trôi đi, quay lại về phía đất liền đằng xa.
Anh không biết liệu sẽ có người tìm thấy nó thật không, liệu nó có thật sự vượt qua được eo biển không.
Và kể cả nếu có tìm thấy cái bè, có khi họ cũng lờ nó đi mà thôi.
Việc ấy gần như chẳng quan trọng gì.
BIẾN ĐI. CHÚNG TAO KHÔNG MUỐN LOẠI CHÚNG MÀY Ở ĐÂY, ghi trên một mặt của tờ giấy.
KHÔNG, CẢM ƠN, ghi trên mặt còn lại.
Họ đứng trong cát trên bờ biển và để nước biển bập bềnh vỗ lên chân mình suốt một lúc lâu.