Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Phần kết

Vào một buổi chiều thứ năm ấm áp tiết xuân, tiếng xe tải cũ kỹ chạy trên đường dẫn tới ngôi nhà ầm ĩ trong không trung.

Linus ngẩng lên từ khoảng đất anh đang làm cỏ, đưa tay quệt trán, để lại một vệt đất trên đó.

“Nghe như Helen đến,” anh nói. “Bà ấy đến thăm cháu ư?”

Talia không ngẩng lên trong lúc âu yếm vỗ vỗ nền đất quanh một khóm dạ yến thảo. “Theo như cháu biết thì không. Bác ấy có nhắc tới một tạp chí khác muốn đến xem hoa của cháu, nhưng cũng nói là tháng sau người ta mới đến. Bác ấy không nói gì khi chúng ta vào làng cuối tuần trước.”

Linus vừa đứng lên vừa rên rỉ. “Tốt hơn là chú nên đi xem bác ấy cần gì.”

“Nếu đó là đám đông hâm mộ cháu, hãy bảo họ rằng cháu không sẵn sàng tiếp khách vào lúc này và đến mà không báo trước gì như vậy là thô lỗ lắm đấy.”

Anh khịt mũi, “Chú sẽ đảm bảo là họ hiểu được điều ấy.”

Talia nhìn anh, nheo mắt. “Đừng nghĩ rằng việc này giúp chú trốn nhiệm vụ làm cỏ nhé.”

Anh vỗ vỗ chóp mũ của con bé. “Chú nào dám. Cứ làm đi. Chú sẽ không đi lâu đâu.”

Talia thấp giọng làu bàu bằng tiếng Thần vườn.

Anh lắc đầu, thầm mỉm cười. Những lời đe dọa của con bé ngày càng sáng tạo hơn. Anh hoàn toàn trách Lucy về chuyện đó.

Anh lau tay lên áo và đi ra khỏi vườn, hướng về phía trước nhà. Linus một năm trước sẽ không nhận ra con người đang sống hôm nay. Da anh đã cháy nắng và bong da và cháy và bong tới khi anh có nước da có thể miêu tả là màu chớm bánh mật. Anh đang mặc quần soóc (là tự nguyện) và đầu gối anh lấm lem vì quỳ trong vườn suốt một tiếng qua. Anh vẫn mập mạp, và đã miễn cưỡng chấp nhận chuyện này khi Arthur đã tuyên bố rằng người nọ thích anh như vậy. Tóc anh còn mỏng hơn đã từng, nhưng anh không có thời gian cho những việc vặt vãnh ấy. Lần đầu tiên trong đời anh thấy thoải mái với bản thân mình. Có thể huyết áp của anh vẫn hơi cao, nhưng đời còn nhiều thứ hơn là lo lắng về khúc giữa hay tóc rụng trên gối.

Anh đang ngâm nga khúc nhạc của Buddy Holly khi xe tải đi tới và dừng lại với một cú nhoi tới trước, động cơ khùng khục và lạch xạch rồi tắt ngấm.

“Nghe như cái xe chuẩn bị buông xuôi rồi,” Linus quan sát khi Helen ra khỏi xe. Bà mặc một bộ áo liền quần đầy vết cỏ xanh.

“Hở? Nó vẫn được việc mà.” Bà cười toe toét với anh. “Người cậu bẩn quá. Talia đang bắt cậu thực hiện cam kết, phải không?”

Linus thở dài. “Giờ tôi đã mặc cả với con bé xuống ba ngày một tuần rồi. Tôi không dám xuống thấp hơn. Con bé chưa lấp cái hố lẽ ra là huyệt mộ của tôi đâu. Đó là một lời đe dọa khá có hiệu quả dù là từ phía một đứa trẻ nhỏ như vậy.”

“Bùn đất trông hợp với cậu đấy,” bà nói, vỗ vỗ vai anh. “Arthur trong nhà à? Tôi cần nói chuyện với cả hai người. Và J-Bone muốn tôi nhắc Lucy là số đĩa than thằng bé đặt hàng đã đến rồi.”

“Mọi chuyện vẫn ổn chứ?”

Nụ cười của bà héo đi. “Tôi nghĩ vậy. Nhưng tốt nhất là tôi nên nói cho cả hai cậu biết cùng lúc.”

Anh không thích lời này cho lắm. “Có phải là chuyện gì trong làng không? Tôi tưởng tình hình đang khá khẩm hơn. Cuối tuần trước khi chúng tôi vào làng thì chỉ bị lườm vài cái thôi.”

Bà lắc đầu. “Không… Không phải là việc gì liên quan đến ngôi làng đâu. Và ai gây khó dễ cho các cậu vậy?”

Anh nhún vai. “Những nghi phạm như mọi khi thôi. Nhưng càng ngày chúng tôi càng dễ lờ họ đi hơn. Lũ trẻ đặc biệt cứng cỏi khi cần phải vậy.”

Bà cau mày. “Lẽ ra chúng không cần cứng cỏi mới phải. Tôi hứa tôi sẽ làm hết khả năng để đảm bảo rằng những chuyện như vậy sẽ không xảy ra lần nữa.”

“Bà đã làm được những điều phi thường rồi,” anh trấn an bà. “Nhưng những việc này cần thời gian mà.”

Và không phải ai cũng muốn mọi chuyện thay đổi, dù anh nghĩ mình không cần phải nói với bà điều ấy. Từ khi lên đảo để tự mình thăm thú, Helen đã lấy việc khiến ngôi làng trở thành một nơi thân thiện với tất cả mọi người làm sứ mệnh của mình. Đầu tiên là gỡ xuống những tấm áp phích THẤY GÌ Ư, NÓI GÌ ĐI quanh thị trấn. Việc này thì chẳng mấy ai phản đối. Nhưng có nhiều người càu nhàu hơn khi bà tuyên bố ý định biến làng Marsyas thành một địa điểm du lịch cho tất cả mọi người, con người cũng như sinh vật nhiệm màu. Mãi đến khi bà nhắc nhở chủ cửa hàng, cửa hiệu rằng nhiều khách khứa hơn nghĩa là làng thu được nhiều tiền hơn thì những tiếng càu nhàu mới bắt đầu giảm bớt. Linus thấy tức cười một cách u ám khi định kiến dường như chẳng là gì trước lợi nhuận, đặc biệt vì khoản tiền dân làng được trả để giữ im lặng về hòn đảo đã bị cắt giảm. Khi hội đồng dân làng bỏ phiếu thuận trước việc ấy anh đã coi đó là một thắng lợi, dù giả dối đến đâu đi nữa.

Đó là một bước khởi đầu.

Và rồi, sau Giáng Sinh là lời tuyên bố bất ngờ từ Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu về việc Ban Quản Lý Thượng Tầng đã từ chức hết sau một cuộc điều tra từ bên ngoài cho thấy rằng những ngôi trường họ từng quản lý bị cho là phân biệt đối xử. Cuộc điều tra đã được khơi mào bởi một khiếu nại ẩn danh vạch ra những hành động ghê tởm có liên quan tới thanh thiếu niên nhiệm màu, bao gồm chỉ ra những ví dụ cụ thể về những đứa trẻ dưới sự dẫn dắt của DICOMY đã bị đối xử như công dân hạng hai. Một hội đồng quản lý mới đã được chỉ định ra, và dù họ nói về những thay đổi to tát và chóng vánh nhưng bộ máy quan liêu quả thật hoạt động rất chậm, đặc biệt là khi đối mặt với những la ó phản đối. Sẽ cần nhiều thời gian để cải tổ những thành kiến kéo dài hàng thập kỷ. Nhưng nếu họ có thể bắt đầu với DICOMY, việc ấy sẽ khiến những sở khác làm việc với sinh vật nhiệm màu bắt đầu thay đổi theo thời gian.

Họ cũng phải bắt đầu ở đâu đó chứ.

Một phóng viên đã lên đảo vào tháng hai, có vẻ như đã theo dấu Linus sau khi nghe kể về vụ ra về đầy kịch tính ở DICOMY của anh. Cô ta đã hỏi liệu anh có biết gì về khiếu nại ẩn danh đã làm rúng động chính quyền không. “Một người chỉ điểm,” cô ta nói. “Ai đó biết được nội tình về những hoạt động của Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu.”

Anh lo âu bật cười. “Trông tôi có giống kiểu người gây chuyện náo động không?”

Cô ta không bị anh lừa. “Tôi đã học được rằng không bao giờ nên phán xét một người có thể làm được những gì chỉ bằng vẻ ngoài của họ. Và tôi sẽ bảo vệ sự ẩn danh của anh.”

“Thật không?”

“Tôi hứa với anh. Tôi rất quyết liệt bảo vệ nguồn tin của mình.”

Anh nghĩ về tất cả những đứa trẻ sống ở thế giới ngoài kia, trong những trại trẻ như Marsyas. Những đứa anh đã gặp, và hàng nghìn đứa anh chưa có diễm phúc được gặp, dù anh đã đọc về nhiều đứa trong những hồ sơ mình trộm đi. Có lẽ việc này sẽ giúp giữ cho ngọn đuốc tiếp tục cháy sáng hết mức. Anh là một người trầm lặng, phải, với một trái tim trầm lặng, nhưng anh nghĩ tới chú phượng hoàng kia, đôi cánh xòe ra trong hầm tối và rồi trên bến cảng cho tất cả mọi người đều thấy. Nếu phóng viên này tìm được anh, có thể những người khác cũng sẽ tìm được. Nhưng Linus nghĩ anh đã chán việc trốn trong bóng tối rồi. “Vậy thì nghe cho kỹ, vì câu chuyện tôi muốn kể với cô sẽ không giống như bất kỳ chuyện gì cô từng nghe.”

Cô ta mỉm cười.

Khi rời đi vào năm tiếng sau, mắt cô phóng viên long lanh, và trông cô ta thật đói khát. Cô ta nói mình đã có đủ thông tin cho cả một chuỗi phóng sự và sẽ báo cho họ biết khi nào thì phóng sự được ấn định sẽ phát hành. Cô tin rằng ngay mùa hè này là mình đã sẵn sàng để làm việc ấy rồi. “Các anh có biết phóng sự này sẽ làm nên những gì không?” cô hỏi họ khi đứng trước nhà chính. “Các anh có hiểu điều này sẽ có ý nghĩa như thế nào không?”

“Hơn những gì mà cô biết đấy,” Arthur nói.

Cô phóng viên nhìn anh một lúc lâu rồi gật đầu. Cô ta quay đi về phía xe mình, nhưng dừng lại khi đặt tay lên tay nắm cửa. Cô quay lại nhìn họ. “Một câu hỏi cuối cùng.”

“Lũ phóng viên chết tiệt,” Linus làu bàu.

Cô lờ anh đi, chỉ nhìn Arthur. “Tôi nghe nói từ một nguồn tin rằng một người không giống bất kỳ ai khác đã đồng ý đứng ra làm chứng cho những trải nghiệm khi sống trong sự kiểm soát của Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu. Anh có biết gì về việc đó không?”

“Một người không giống bất kỳ ai khác ư?” Arthur nói. “Tò mò thật đấy.”

“Có đúng là vậy không?”

“Tôi nghĩ thời gian sẽ cho chúng ta câu trả lời thôi.”

Cô ta lắc đầu. Có gì đó lướt qua trên mặt cô mà Linus không phân tích được ra. Cô nói, “Tôi phải giữ sự khách quan của mình. Việc của tôi là thuật lại sự thực, không hơn.”

“Nhưng?” Arthur hỏi.

“Nhưng là một con người, và là người đã thấy được chút ánh sáng le lói trong mọi góc tối, tôi hy vọng người này biết rằng có rất, rất nhiều người tin rằng những điều anh ta nói sẽ mang tới sự thay đổi mà thế giới này cấp thiết cần có. Chúc các anh ngày lành.”

Khi ấy cô ta mới đi, quay về phía cái phà.

Họ đứng dưới hiên khi xe của nữ phóng viên biến mất cuối đường đất, giữa họ là hai bàn tay đan vào nhau.

Linus nói, “Tôi đã bảo rồi mà.”

Arthur mỉm cười. “Quả vậy, phải không? Có lẽ sau cùng anh đã đúng. Anh nghĩ họ sẽ nghe tôi thật ư?”

Linus không ngốc. Anh biết DICOMY rất có thể đang theo dõi anh cũng sát sao như theo dõi những người khác trên đảo. Dù anh không có chút nhiệm màu nào, anh đã rời bỏ DICOMY và tới một nơi về căn bản vẫn được coi là bảo mật, dù sự bảo mật ấy giờ như một trò đùa. Lũ trẻ chẳng hề che giấu con người mình. Và dù vẫn gặp phải vài lần đụng độ, họ vẫn được chào đón ở trong làng bất cứ khi nào họ muốn. Helen đã đảm bảo là vậy.

Ồ, anh không ngây ngô đến mức nghĩ rằng ở đâu cũng như nơi đây. Anh vẫn thấy sinh vật nhiệm màu phải gánh chịu những giận dữ và cay độc trong những thành phố lớn hơn. Có những cuộc biểu tình và diễu hành ủng hộ việc ghi danh, nhưng điều khiến anh hy vọng rằng tình hình đang thay đổi là những người chống ủng hộ tụ họp đông đúc hơn. Phần lớn bọn họ đều là người trẻ tuổi, là tập hợp của cả con người lẫn sinh vật nhiệm màu, và Linus biết chẳng mấy chốc rào cản cũ kỹ kia sẽ lung lay.

Đó đơn thuần chỉ là vấn đề về thời gian mà thôi.

“Thật mà,” anh nói. “Cuối cùng cũng nghe thôi.”

Arthur gật đầu. “Anh tin tôi ư?”

Linus chớp mắt. “Dĩ nhiên là tôi tin anh rồi. Tôi tin mọi người. Nhưng anh là phượng hoàng, Arthur ạ. Anh biết rõ ngọn lửa. Đã đến lúc thiêu rụi mọi thứ và xem xem những gì có thể mọc lên được từ tro tàn rồi.”

“Náo động ấy à,” Arthur nói, rồi khẽ khúc khích. “Giá như họ biết chúng ta có thể làm được những gì.”

Linus mỉm cười. “Rồi họ sẽ biết thôi.”

Anh đang đợi xem DICOMY có phái nhân viên công tác xã hội mới đến đảo không, đặc biệt là sau đơn thỉnh cầu mà Arthur mới nộp lên gần đây. Tới nay, anh chưa nghe tin về việc gì như vậy, dù giờ Helen đã đến đây. Có lẽ bà đã biết được điều gì đó và tới cảnh báo với họ.

“Tôi sẽ tiếp tục cải thiện tình hình,” bà nói với anh.

Anh dịu dàng mỉm cười với bà. “Tôi biết mà. Và chúng tôi đều biết ơn bà vì việc ấy.”

Anh dẫn bà vào nhà. Anh có thể nghe thấy những âm thanh của một mái ấm ngập tràn hạnh phúc xung quanh họ. Nó cọt kẹt và rền rĩ như một ngôi nhà khi đã có tuổi và ấm cúng. Anh thấy chóp của một cái đuôi đang đập đập đầy hạnh phúc dưới sô pha. Khi họ lên cầu thang, có tiếng bàn phím của máy đánh chữ điên cuồng lách cách. Tiếng “Quý vị khỏe không?” vui vẻ phát ra từ phòng Chauncey. Gần đây thằng bé luyện tập mỗi lúc một nhiều hơn, đặc biệt là sau khi quản lý khách sạn hỏi nó xem có muốn làm việc cùng nhân viên hành lý của họ một ngày mỗi tháng không. Có vẻ như người đã cho Chauncey cái mũ của mình đã làm việc nhiều năm rồi và chẳng mấy chốc sẽ muốn về hưu. Chauncey đã ngất xỉu thành một vũng nước run rẩy, một việc mà Linus và Arthur chưa từng biết là thằng bé có thể làm được. Cuối cùng, khi bình tĩnh lại, nó rưng rưng nhận lời. Nó sẽ đi làm ngày đầu tiên vào thứ bảy này.

Linus nghe thấy tiếng Lucy ồn ào kêu lên khi họ tới cửa phòng ngủ. Anh quay lại nhìn Helen, bà nhướn mày với anh. “Lucy là đứa đầu tiên nói chuyện với Arthur về giống loài của anh ấy,” Linus giải thích, “những người khác đều đã biết cả rồi, nhưng Lucy quyết định sẽ thẳng thắn hơn về chuyện ấy. Thằng bé đã đòi Arthur đốt đồ đạc vài tuần nay rồi.”

“Ôi trời!” Helen nói.

Anh đẩy cửa mở ra.

“… Và cứ nghĩ tới chuyện ấy mà xem, Arthur. Nghĩ về tất cả những thứ cháy được. Giấy. Bìa. Cây. Đợi đã. Không. Không phải cây. Phee sẽ giết con nếu chúng ta đốt cây. Nhưng nếu muốn chúng ta vẫn có thể làm vậy. Chỉ có hai ta biết thôi, chúng ta có thể đốt biết bao nhiêu là thứ… Chào chú, Linus.”

Linus lắc đầu. “Lucy. Chúng ta đã thảo luận chuyện này rồi mà.”

Lucy cau có. “Cháu biết. Nhưng chú cũng bảo cháu rằng cách duy nhất để chúng ta học được những điều mới mẻ là hỏi người khác về điều ấy mà.”

Arthur mỉm cười. “Anh đã nói vậy mà, phải không?”

“Tôi hối hận về mọi chuyện mình đã làm,” Linus làu bàu.

“Chú nói dối,” Lucy nói. “Chú yêu cháu mà.” Nụ cười của thằng bé bắt đầu cong lên đầy xấu xa. “Cũng như chú yêu Arthur vậy.”

Linus cảm thấy mặt mình đang đỏ lên, nhưng anh không cố phản bác. Mọi người trong phòng đều sẽ biết anh đang nói dối. “Dù có thể là vậy, chú nghĩ dưới bếp có một đĩa bánh quy đề tên cháu đấy. Sao cháu không đi xem Sal và Chauncey có muốn ăn cùng cháu không nhỉ?”

Lucy nghi ngờ ngước nhìn anh. “Chú đang đuổi cháu ra ngoài để bàn bạc về cháu đấy à? Vì nếu là vậy, cháu không làm bất kỳ chuyện gì chú nghĩ là cháu làm đâu nhé.”

Mắt Linus nheo lại. “Cháu có làm chuyện gì mà chú nên biết không đấy?”

“Bánh quy thôi!” Lucy reo lên, chạy ra khỏi phòng. “Chào bác Helen! Tạm biệt bác Helen!” Nó rống lên gọi anh em mình khi đóng sập cửa lại sau lưng. Một bức tranh trên tường, vẽ con vượn cáo trong tư thế tục tĩu đáng kinh ngạc khiến Arthur vui vẻ một cách khó hiểu, bị rung cho xiêu vẹo.

“Một thằng quỷ nhỏ, phải không nào?” Helen hỏi, ngỡ ngàng nhìn chằm chằm cánh cửa đã đóng.

“Đúng theo nghĩa đen luôn,” Arthur trả lời. “Helen, tôi tưởng chúng tôi không có việc gì để ngóng trông bà tới đây.”

“Xin lỗi về việc ấy,” bà nói. “Tôi… Chuyện không thể đợi được. Tôi cần gặp cậu.” Bà nhìn Linus. “Cả hai cậu. Việc này khá quan trọng.”

“Dĩ nhiên rồi,” Arthur nói, gật đầu về phía cái ghế Lucy vừa bỏ trống. Bà ngồi xuống trong khi Linus đi tới đứng cạnh Arthur. Mặt anh càng đỏ hơn khi Arthur vươn lên nắm lấy tay anh, hôn lên mu bàn tay. Anh không rút tay về.

“Vậy là đang có tiến triển, nhỉ?” Helen hỏi, trong mắt lóe lên tia sáng mà Linus không thích cho lắm.

“Chúng tôi đang đi từng ngày một,” Linus cứng nhắc nói.

“Ồ! Chắc chắn rồi. Tôi hiểu mà. Cuối tuần trước Talia kể với tôi rằng cậu đã không ngủ ở nhà khách kể từ Giáng sinh. Và rằng lũ trẻ đã ngủ lại nhà của Zoe khá nhiều lần, dù tôi nghĩ con bé hoàn toàn không hiểu tại sao.”

Arthur bật cười trong khi Linus rên rỉ. “Cái lũ tí hon nhiều chuyện này.”

“Trông hợp với cậu lắm đấy,” bà khẽ nói. “Cả hai cậu. Tôi mừng là các cậu đã tìm thấy nhau.” Bà tỉnh táo lại. “Tôi đã đợi để tới nói với các cậu chuyện này. Tôi muốn chắc chắn đã, nhưng tôi nghĩ đã gần đến lúc rồi.”

Linus hoang mang. Anh cúi xuống nhìn Arthur rồi lại nhìn Helen. “Bà đang nói về chuyện gì vậy?”

“Một đứa trẻ,” Arthur nói. “Phải không? Bà đã tìm ra một đứa khác.”

Linus cảm thấy sau gáy mình sởn gai ốc.

Helen gật đầu. “Không có hồ sơ nào ghi chép về nó. Nhưng thằng bé chẳng còn ai khác. Nó đang ở với… vài người bạn. Là những người tôi tin tưởng, nhưng họ không có đủ không gian, và giải pháp đó vốn luôn chỉ là tạm thời mà thôi. Và vì… giống loài của thằng bé, nó sẽ cần nhiều hơn mức họ có thể cung cấp.” Bà mỉm cười, dù nụ cười ấy run rẩy. “Tôi biết thế này là đòi hỏi rất nhiều, và việc này có thể lôi kéo nhiều người chú ý hơn là các cậu muốn, nhưng đứa trẻ chẳng còn nơi nào khác để đi. Họ đã tìm họ hàng của nó, nhưng không thành công cho lắm. Tôi nghĩ thằng bé có một mình thôi. Nó nhút nhát, và sợ hãi, và không nói nhiều lắm. Thật ra là hơi khiến tôi nghĩ tới Sal. Hay đúng hơn là nó của ngày xưa. Tôi nghĩ mình chưa từng nghe cậu bé ấy nói nhiều như vài tháng vừa qua đâu.”

“Nói không ngừng nghỉ ấy chứ,” Linus yếu ớt nói. “Tên cháu nó là gì?”

“Cậu nói vậy là tôi biết đây có thể là nơi phù hợp với thằng bé rồi,” Helen nói, nụ cười của bà càng tươi hơn. “Vì cậu không hỏi tôi thằng bé là loài gì, chỉ hỏi nó là ai. Tôi không biết liệu có ai từng làm điều ấy cho nó chua.” Bà thò tay vào một túi trên bộ áo liền quần và lấy ra một tấm ảnh. Bà liếc xuống đó rồi đưa sang. “Tên nó là David. Thằng bé mười một tuổi. Và nó là…”

“Một người tuyết,” Linus ngỡ ngàng nói. Anh nhìn tấm ảnh trong tay Arthur. Trong ảnh, là một cậu bé đang mỉm cười, người phủ một lớp lông dày và trắng. Nhưng chính đôi mắt thằng bé là thứ khiến Linus để ý hơn cả.

Chúng mang màu xanh thẳm.

“Chúng tôi sẽ tiếp nhận cháu,” Linus lập tức nói. “Bất cứ lúc nào cháu sẵn sàng. Chúng tôi có thể đón thằng bé hôm nay không? Cháu nó ở đâu? Nó có nhiều đồ không? Ồ, chúng ta phải nghĩ xem thằng bé sẽ ngủ ở đâu. Nhà khách có thể dùng được nhưng… Chờ đã. Thằng bé ở đây sẽ ổn chứ? Không phải nó thích nơi lạnh lẽo hơn bất kỳ đâu khác ư? Tôi nghĩ chúng ta có thể tìm ra cách nào đó. Bất kỳ điều gì chúng ta làm được để làm cho thằng bé thoải mái…”

Anh cảm thấy Arthur siết tay mình.

Anh cúi xuống. “Tôi lại nhanh nhảu rồi, phải không?”

Và Arthur nói, “Cái con người đáng yêu, đáng yêu vô cùng này. Tôi mê mẩn anh biết chừng nào.”

Linus ho khan. “Ừ. Phải. Tôi cũng vậy. Tương tự.”

Helen đang cười toe toét với họ. “Tôi biết mà. Tôi biết tôi đang làm việc nên làm mà. Và phải, thằng bé thích chỗ lạnh, dù nó đã tồn tại từ lâu mà không có hơi lạnh.”

“Lẽ ra nó không nên chỉ tồn tại,” Linus cáu kỉnh nói. “Nó nên sống mới đúng.”

“Căn hầm,” Arthur nói, và Linus há hốc mồm nhìn anh. “Chúng ta có thể biến căn hầm thành phòng lạnh. Dành riêng cho thằng bé thôi.”

“Anh chắc chứ?”

Arthur gật đầu. “Chắc mà. Đã đến lúc rồi, tôi nghĩ vậy. Đến lúc để quá khứ yên nghỉ rồi. Lấy một nơi ngập tràn giận dữ và buồn đau và biến nó thành nơi tốt đẹp hơn.”

Linus Baker yêu Arthur Parnassus nhiều đến nỗi anh không bao giờ có thể nói nổi thành lời.

“Liệu việc này có gây rắc rối cho đơn xin nhận nuôi những đứa khác của cậu không?” Helen hỏi, giọng lo lắng. “Tôi không muốn chuyện kia bị ảnh hưởng đâu.”

Arthur lắc đầu. “Tôi không thấy tại sao việc kia lại bị ảnh hưởng cả. Nơi này vẫn được coi là trại trẻ mồ côi, dù DICOMY đang xem xét lại đường lối của mình, hoặc theo họ nói thì là vậy. Và thằng bé… không phải người thường, cũng như tất cả chúng tôi. Nếu nó thấy rằng nó thích ở đây, và muốn ở lại, chúng tôi sẽ làm những gì mình có thể để thông qua những kênh thích hợp. Và nếu thằng bé không thích, chúng tôi sẽ tìm ra nơi để nó gọi là nhà.”

Trông Helen nhẹ cả lòng. “Còn nhiều đứa khác, cậu biết không. Biết bao nhiêu đứa khác.”

“Chúng tôi biết,” Linus nói. “Và dù có lẽ chúng tôi không giúp được tất cả, chúng tôi sẽ làm hết sức có thể cho những đứa đến tay mình.”

Lát sau bà ra về với lời hứa sẽ mau chóng liên lạc lại. Họ cần lên kế hoạch, và bà nghĩ tốt nhất là Arthur và Linus sẽ tới chỗ David trước để những đứa trẻ khác không khiến thằng bé choáng ngợp.

Họ đồng ý với nhau.

Linus nhìn chiếc xe tải qua cửa sổ phòng ngủ. Helen đang nói chuyện với Zoe qua kính cửa hạ xuống. Họ đều đang mỉm cười. Linus đã không thấy mối quan hệ của họ nảy nở, mà hình như anh là người duy nhất không nhìn thấy điều ấy. Mãi đến lúc bắt gặp họ hôn nhau thì anh mới biết tại sao dường như Helen lên đảo mỗi lúc một nhiều.

Zoe hôn lên mu bàn tay Helen rồi lùi lại. Xe tải quay đầu, động cơ rền vang khi bà bắt đầu lái xe theo con đường quay lại bến cảng. Linus hơi giật mình khi hai cánh tay quấn vòng quanh eo anh. Anh quay đầu lại một chút để cọ mũi lên má Arthur.

“Anh làm được mà,” anh thì thầm. “Hãy mang thằng bé tới đây. Và làm nó hạnh phúc.”

“Chúng ta làm được mà,” Arthur dịu dàng sửa lời anh. “Vì nó sẽ cần anh cũng nhiều như cần tôi vậy. Nó sẽ cần tất cả chúng ta, tôi nghĩ vậy. Và chúng ta sẽ sẵn sàng.”

Linus quay lại. Anh hôn lên chóp mũi Arthur. “Cảm ơn anh.”

“Vì chuyện gì?”

“Vì chuyện này. Vì mọi thứ. Tất cả những sắc màu này.”

Arthur biết anh muốn nói gì. “Là mắt thằng bé, phải không? Đó là điều anh thấy đầu tiên.”

Linus gật đầu. “Chúng khiến tôi nghĩ về biển cả. Đó là một dấu hiệu. Thằng bé thuộc về nơi đây. Và chúng ta sẽ làm mọi thứ có thể để đảm bảo rằng nó biết điều ấy.”

“Anh có nghĩ chúng ta nên nói với lũ trẻ không?”

“Về David? Dĩ nhiên rồi. Chúng cần…”

Người nọ lắc đầu. “Về đơn xin nhận nuôi kìa. Về việc trên đó cũng có tên anh.”

Linus phân vân. “Chưa đâu. Phải đến khi chúng ta biết chắc rằng đơn sẽ được chấp thuận với tên của cả hai ta trên đó kìa. Tôi không muốn nói gì đó chỉ để sau này phải sửa lại thành chỉ mình anh thôi nếu DICOMY từ chối đơn vì chúng ta…” Anh ho khan. “Tôi biết mà.” Linus ước gì mình có thể chìm xuống sàn. Anh hy vọng Arthur sẽ lờ mình đi.

Arthur không làm vậy. “Vì chúng ta chưa kết hôn.”

“Phải. Vì vậy.” Và không, Linus hoàn toàn không hề nghĩ về chuyện ấy. Một chút cũng không. Chà, ngay suy nghĩ ấy cũng đã ngớ ngẩn rồi. Không chỉ là quá sớm, mà còn…

“Vậy thì có khi chúng ta nên thay đổi chuyện ấy đi thôi.”

Linus há hốc miệng khi Arthur đi về phía cửa. “Sao cơ?”

Arthur ngoái lại qua vai nhìn anh. “Đi thôi nào, Linus yêu quý.”

“Chà, nghe này. Anh không nên… Anh không thể cứ nói ra một chuyện như… Cái quái gì…”

Arthur mở cửa phòng ngủ. Anh đưa tay ra cho Linus.

Linus, dĩ nhiên vẫn đang lắp bắp, nắm lấy thứ người ta đưa cho mình.

Hóa ra họ không nên lo lắng mới phải. Tới khi họ xuống đến chân cầu thang, lũ trẻ và Zoe đã tụ lại trong bếp, và Lucy đã bắt đầu giải thích trong nỗi phấn khích điên cuồng rằng Linus cũng sẽ trở thành cha họ, và rằng Arthur và Linus sẽ kết hôn. Họ sẽ phải nói chuyện với thằng bé lần nữa về việc nghe trộm thôi.

Khi lũ trẻ nhảy bổ lên hai người họ, hò hét bày tỏ hạnh phúc cùng không ít nước mắt, Linus nhận ra mình không khó chịu chút nào.

Đôi khi, anh thầm nghĩ trong căn nhà nhỏ trên đại dương xanh thẳm, ta có thể chọn lấy cuộc đời mà ta muốn.

Và nếu ta may mắn, đôi khi cuộc đời ấy sẽ chọn lại ta.

Lời cảm ơn

Viết có thể là một cuộc hành trình đơn độc. Các nhà văn thường bị cuốn vào chính những suy nghĩ của mình khi họ sốt sắng đặt những suy nghĩ xuống thành lời. Chỉ đến khi sẵn sàng đưa những câu chuyện của mình ra thế giới thì chúng ta mới thấy rõ rằng chúng ta không cần phải trải qua cuộc hành trình đáng sợ và phấn khích này một mình.

Gửi tới những độc giả yêu quý của tôi, Lynn và Mia, những người đầu tiên đọc câu chuyện này. Vẫn như mọi khi, ý kiến của các bạn là vô giá. Các bạn đã biến Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm thành điều gì đó hơn cả mong đợi. Tôi rất biết ơn vì điều đó. Thật là may mắn khi có các bạn.

Gửi tới Deidre Knight, người đại diện của tôi: Cô đã và đang là một món quà ông trời ban cho tôi. Cô có nhớ lúc liên hệ với tôi sau khi đọc xong cuốn sách về loài sói của tôi không? Tôi nhớ đấy. Đó là một trải nghiệm làm thay đổi cuộc đời tôi. Cô đã che chở tôi dưới đôi cánh của mình, thúc đẩy tôi vượt qua những gì tôi nghĩ mình có thể làm được. Nhờ sự làm việc chăm chỉ thay mặt cho tôi của cô mà cuốn sách này và những cuốn khác đã tìm thấy một ngôi nhà chung với một nhà xuất bản hiểu tôi, hiểu được tầm quan trọng của những trải nghiệm liên quan đến những người khác biệt. Cô cực kỳ tuyệt vời và đừng để bất kỳ ai nói với cô điều ngược lại nhé.

Gửi tới Ali Fisher, biên tập viên của tôi: Tôi yêu anh, anh bạn. Tôi đã rất lo lắng khi chúng ta lần đầu nói chuyện qua điện thoại. Tôi không có nhiều kinh nghiệm và dù Deidre đã ở đó và nắm lấy tay tôi nhưng tôi vẫn run rẩy không ngừng. Anh đã giải quyết mọi thứ thật bình tĩnh và sau cuộc nói chuyện, tôi biết rằng sẽ không có nơi nào tốt hơn để tôi kể lại những câu chuyện của mình ngoài anh và Tor. Cảm ơn anh đã cho tôi trải qua một trong những cảm giác hồi hộp lớn nhất trong cuộc đời mình. Đóng góp của anh vào Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm đã khiến nó trở thành câu chuyện hay nhất có thể và tôi chẳng thể đòi hỏi một biên tập viên tốt hơn được nữa. Chúng ta phối hợp với nhau cực kỳ ăn ý.

Gửi đến những người khác:

Cảm ơn Tor đã cho tôi thấy một nhà xuất bản sẽ tin tưởng vào việc kể những câu chuyện trung thực và kỳ lạ (theo cách nói của Antichrist).

Cảm ơn nhà báo của tôi, Saraciea Fennell cùng với Anne-liese Merz và Lauren Levite đã hướng dẫn, hỗ trợ tôi.

Cảm ơn giám đốc nghệ thuật Peter Lutjen và Red Nose Studio đã tạo ra một trong những trang bìa đẹp nhất mà tôi từng có. Nghiêm túc đấy. Khi bạn đọc xong, hãy nhìn ngắm trang bìa. Đó là nghệ thuật.

Ngoài Ali, trợ lý biên tập Kristin Temple đã đảm bảo rằng tôi sẽ không đi chệch hướng, điều mà tôi không được phép. Cảm ơn, Kristin.

Cảm ơn Melanie Sanders và Jim Kapp trong bộ phận sản xuất, nhóm bán hàng Macmillan, nhóm tiếp thị từ Tor (Rebecca Yeager - bạn là một ngôi sao nhạc rock quái dị) và nhóm tiếp thị kỹ thuật số.

Vâng, dù việc viết tiểu thuyết khá là đơn độc và lẻ loi, nhưng như bạn có thể thấy, tôi không chỉ có một mình. Tôi có những người tốt ở phía sau. Đó là điều mà tôi sẽ luôn biết ơn. Họ làm cho tôi trở thành một nhà văn tốt hơn.

Một điều nữa. Gửi tới các bạn, độc giả của tôi. Nếu bạn đã đi được xa đến mức này, tôi hy vọng bạn thích cuộc hành trình. Một số bạn có thể chưa quen tôi với tư cách là một tác giả. Những người khác có thể đã ở bên tôi kể từ khi bắt đầu. Tôi trân trọng từng người trong số các bạn bởi vì nếu không có các bạn, tôi sẽ không có ai để kể những câu chuyện của mình. Cảm ơn vì đã cho phép tôi làm những gì tôi yêu thích nhất.

TJ Klune

22 tháng 8, 2019

Selkie: trong thần thoại Celtic và Bắc âu, selkie là những sinh vật thần thoại có thể biến hình từ hải cẩu thành người bằng cách trút bỏ bộ da lông. ↩

Wing-tip: là phần da trang trí hình chữ W đệm trên mũi giày tây, có hoặc không dập lỗ trang trí (brogue). ↩

Magna Carta: tức Đại Hiến Chương, là một văn kiện thời Trung cổ, soạn ra bởi tổng giám mục Canterbury và phê chuẩn bởi vua John xứ Anh vào năm 1215, để giảng hòa giữa vị vua không được lòng dân này và một nhóm quý tộc nổi dậy. ↩

The day the music died: Vào ngày 03/02/1959, ba nghệ sĩ nổi tiếng đương thời là Buddy Holly, Richie Valens và J. P. Richardson đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn hàng không ở gần Clear Lake, Iowa. Trong văn hóa đại chúng, Ngày Âm nhạc Tạ thế được dùng để chỉ sự kiện này hoặc chỉ ba nghệ sĩ trên. ↩

Categorical Imperative: Mệnh lệnh nhất quyết là khái niệm triết học trung tâm nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi nhất trong triết học về đạo đức theo đạo nghĩa luận của Kant. Được đưa ra vào năm 1785 trong tác phẩm Groundwork of the Metaphysic of Morals, khái niệm này được hiểu là một phương thức đánh giá tính đúng/sai của hành động dựa trên những nguyên tắc đạo đức nền tảng cố định (hay còn gọi là châm ngôn), đối lập với việc đánh giá đúng/sai dựa trên ý chí chủ quan của con người theo như Mệnh lệnh Giả thuyết. ↩

Immanuel Kant (1724-1804): triết gia nổi tiếng người Đức, một trong những triết gia chủ chốt của phong trào Khai Sáng. ↩

Arthur Schopenhauer (1788-1860): triết gia nổi tiếng người Đức, được ca tụng là triết gia của các nghệ sĩ vì những cảm hứng mà những thẩm mỹ của ông ban tặng cho mọi nghệ sĩ. Ông cũng được coi là triết gia của sự bi quan, vì thế giới quan của ông thách thức những giá trị trong việc tồn tại của con người. ↩

Necrotizing fasciitis: Viêm mô hoại tử, hay còn gọi là khuẩn ăn thịt người, là một chứng nhiễm khuẩn gây hoại tử mô mềm có tốc độ lây lan cao. Khu vực thường bị nhiễm khuẩn là tứ chi. Triệu chứng gồm bị tím đỏ ở vùng nhiễm khuẩn, đau dữ dội, sốt và nôn. ↩

Lời bài hát Smile của Nat King Cole. ↩

Frank Sinatra. ↩

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3