Ngôi Nhà Bên Bờ Biển Xanh Thẳm - Chương 19
Ba tuần sau, tình hình chẳng thay đổi gì mấy.
Ồ, phải, anh vẫn mơ về biển xanh, về hòn đảo với bãi cát trắng. Anh mơ về khu vườn và rặng cây che giấu một ngôi nhà nhỏ xinh. Anh mơ về cửa hầm cháy đen và về ngày âm nhạc tạ thế. Về cách Lucy bật cười. Cách Talia càu nhàu bằng tiếng Thần vườn. Cách Sal có thể to đùng nhưng lại nhỏ bé đến vậy trong vòng tay anh. Cách Chauncey đứng trước gương, vừa nói Xin chào, thưa ngài, chào mừng, chào mừng, chào mừng ngài, vừa ngả chiếc mũ của nhân viên hành lý. Cách đôi cánh của Phee lấp lánh dưới nắng, về những chiếc cúc, và về chú Wyvern tên Theodore, về Zoe, tóc phấp phới trong gió khi bà cho xe phóng bạt mạng trên những con đường đầy cát.
Và về Arthur, dĩ nhiên rồi. Anh luôn mơ về Arthur, về lửa cháy, về đôi cánh vươn dài trong ánh cam và vàng rực. Về nụ cười lặng lẽ, về mái đầu thích thú nghiêng nghiêng của người nọ.
Ôi! Anh đã nằm mơ nhiều biết bao.
Mỗi buổi sáng trôi qua, việc rời giường mỗi lúc một khó khăn hơn. Thời tiết mưa gió liên tục. Trời lúc nào cũng xám xịt. Anh cảm thấy mình như giấy. Vụn vỡ và mong manh. Anh mặc quần áo. Anh bắt buýt đi làm. Anh ngồi vào bàn, xử lý hết hồ sơ này đến hồ sơ khác. Anh ăn xà lách héo úa vào bữa trưa. Anh quay lại làm việc. Anh bắt buýt về nhà. Anh ngồi vào ghế, nghe Bobby Darin hát về đâu đó ngoài khơi xa, đâu đó đang đợi ta.
Anh nghĩ về cuộc đời mình đã sống. Làm sao khi xưa anh có thể nghĩ rằng như vậy là đã đủ kia chứ.
Suy nghĩ trong đầu anh tràn ngập một màu xanh thẳm.
Mỗi ngày đi làm, anh dành thời gian chạm lên khung ảnh trên bàn, khung ảnh mà không ai dám có ý kiến. Bà Jenkins thậm chí còn né anh ra, và dù Linus nhận hết điểm trừ này tới điểm trừ khác (Gunther hoan hỉ ghi chép lên bảng kẹp) nhưng bà ta chẳng hé răng nửa lời. Thật ra, người ta lờ anh đi. Linus hoàn toàn thấy ổn với việc ấy. Anh nghi đó là vì cô Kẹo Cao Su đã làm gì đó, cái cô nàng bép xép đó.
Không phải lúc nào anh cũng ủ ê. Anh dành thời gian soát lại những hồ sơ cũ, đánh giá lại những báo cáo cũ anh đã viết cho những trại trẻ anh từng thăm, ghi chú lại, chuẩn bị cho một tương lai lấp lánh mà anh còn không dám chắc là nằm trong tầm tay. Anh nhăn nhó khi đọc vài điều mình đã viết, (nếu anh thành thực với bản thân, thì là phần lớn những điều mình đã viết), nhưng anh nghĩ việc ấy là quan trọng. Anh nhắc nhở bản thân, rằng thay đổi bắt đầu từ tiếng nói của thiểu số. Có thể những việc này chẳng có tác dụng gì, nhưng nếu không thử thì anh sẽ không biết được. Ít nhất, anh có thể theo dấu vài đứa trẻ anh từng gặp trước kia và tìm ra giờ chúng đang ở đâu. Và nếu mọi chuyện tiến triển như anh mong đợi, anh sẽ không để chúng bị bỏ lại hay bị lãng quên.
Đó là lý do tại sao anh bắt đầu trộm mang hồ sơ ra ngoài. Mỗi ngày, anh sẽ mang thêm vài tập. Mỗi lần nhét thêm một hồ sơ khác vào cặp anh đều mồ hôi nhễ nhại, tin chắc rằng bất kỳ lúc nào, ai đó cũng sẽ hô lên tên anh, yêu cầu được biết anh đang làm gì, đặc biệt là khi anh bắt đầu đụng tới hồ sơ thuộc về những nhân viên khác.
Nhưng chẳng ai làm vậy.
Lẽ ra anh không nên cảm thấy sung sướng như vậy khi phá luật. Lẽ ra việc này phải khiến bụng anh thắt lại, lồng ngực nóng ran, và có lẽ là vậy thật, ở một mức độ nào đó. Nhưng những cảm giác ấy không sánh nổi với quyết tâm của anh. Anh mở to mắt quan sát, và từng ngày trôi qua những giây phút vui sướng ngắn ngủi ấy chẳng mấy xoa dịu đam mê phá luật của anh.
Vào ngày thứ hai mươi ba sau khi trở lại từ hòn đảo, tiếng bàn phím lách cách và tiếng nói chuyện rì rầm lại lần nữa im bặt khi một bóng người xuất hiện ở cửa phòng làm việc của nhân viên công tác xã hội.
Cô Kẹo Cao Su chóp chép nhai kẹo, ôm một tập hồ sơ trên ngực.
Cô ta liếc qua những dãy bàn trước mặt.
Linus sụm xuống thật thấp trên ghế. Anh sắp sửa bị đuổi việc, anh biết mà.
Anh nhìn cô ta đi về phía văn phòng của bà Jenkins. Bà Jenkins trông có vẻ chẳng vui vẻ gì khi thấy cô ta, và càng cau có hơn khi nghe bất kỳ câu hỏi nào cô Kẹo Cao Su đang hỏi. Bà ta trả lời và chỉ ra các dãy bàn.
Cô Kẹo Cao Su quay đi và đi giữa những dãy bàn, hông đánh qua lại nhìn mà sướng mắt. Đàn ông nhìn chằm chằm cô ta. Vài người phụ nữ cũng vậy. Cô ta tảng lờ tất cả bọn họ.
Linus tính đến chuyện bò xuống gầm bàm.
Anh không bò xuống, dù cũng suýt làm vậy.
“Anh Baker,” cô ta bình thản nói. “Anh đây rồi.”
“Xin chào,” Anh nói, hai tay đặt trên đùi để cô ta không thấy chúng đang run rẩy.
Cô gái cau mày. “Tôi có cho anh biết tên tôi chưa nhỉ?”
Anh lắc đầu.
“Tôi là Doreen.”
“Rất hân hạnh, cô Doreen.”
Cô ta chóp chép. “Suýt nữa thì tôi tin anh đấy. Tôi có cái này cho anh, anh Baker ạ.”
“Thế à?”
Cô ta đặt tập hồ sơ xuống bàn anh, trượt nó qua trước mặt anh. “Mới được đưa xuống sáng nay thôi.”
Linus nhìn nó chằm chằm.
Doreen nghiêng xuống, môi kề cận tai anh. Trên người cô ta có mùi quế. Cô gõ gõ móng tay lên tấm lót chuột của anh. “Bạn không ước mình được đến đây ư?” Anh nhìn ngón tay cô gái chuyển sang tấm ảnh và vuốt dọc khung. “Hừ. Trông xem kìa?” Cô ta hôn lên má anh, cái hôn dinh dính, ngọt ngào và ấm áp.
Rồi cô bỏ đi.
Linus gần như không thở nổi.
Anh mở tập hồ sơ ra.
Trong đó có bản báo cáo cuối cùng của anh.
Và phía dưới là bốn chữ ký.
CHARLES WERNER
AGNES GEORGE
JASPER PLUMB
MARTIN ROGERS
Và dưới đó là một con dấu đỏ thắm.
ĐỀ XUẤT ĐƯỢC CHẤP THUẬN.
Anh đọc lại lần nữa.
Được chấp thuận.
Được chấp thuận.
Được chấp thuận.
Đây là…
Anh đã có thể…
Anh còn đủ sức để làm theo kế hoạch của mình không?
Anh nghĩ là có.
Anh đứng dậy khỏi bàn, chân ghế ầm ĩ cạo lên sàn bê tông lạnh lẽo.
Mọi người quay ra nhìn anh.
Bà Jenkins lại ra khỏi văn phòng, Gunther theo sau.
Được chấp thuận.
Trại trẻ sẽ vẫn giữ nguyên.
Anh nghe thấy tiếng sóng biển.
Bạn không ước mình được đến đây ư? Nó thì thầm.
Có.
Có, anh muốn chứ.
Nhưng đó là cái kỳ quặc về những điều ước. Đôi khi tất cả những gì ta cần làm để biến nó thành sự thật là bước một bước đầu tiên.
Anh ngẩng đầu.
Anh nhìn ra xung quanh.
“Chúng ta đang làm gì vậy?” Anh hỏi, giọng anh âm vang quanh phòng.
Không ai trả lời, nhưng cũng chẳng sao. Anh không trông mong bọn họ sẽ lên tiếng.
“Tại sao chúng ta lại làm công việc này? Được cái ích lợi gì kia chứ?”
Căn phòng lặng ngắt.
“Chúng ta đang làm sai rồi,” anh nói, lên giọng. “Tất cả những việc này. Đều sai rồi. Chúng ta đang phục vụ một cỗ máy sẽ nuốt chửng tất cả chúng ta. Tôi không thể nào là người duy nhất nhìn ra điều ấy được.”
Rõ ràng anh là người duy nhất.
Nếu là một người dũng cảm hơn, có lẽ anh sẽ nói nhiều hơn. Có lẽ anh sẽ nhặt cuốn LUẬT LỆ VÀ QUY ĐỊNH lên và ném nó vào thùng rác, hoành tráng tuyên bố rằng đã đến lúc tống khứ mọi luật lệ đi rồi. Theo cả nghĩa đen, và nghĩa bóng.
Khi ấy, bà Jenkins sẽ yêu cầu anh im lặng. Và, nếu còn dũng cảm hơn nữa, anh sẽ nói không. Anh sẽ hét lên cho mọi người cũng nghe rằng anh đã thấy thế giới trông sẽ như thế nào khi có sắc màu trong đó. Khi có hạnh phúc. Có vui tươi. Thế giới nơi họ đang sống đây không đúng, và nếu không cho rằng như vậy thì họ đều là những kẻ khờ khạo.
Nếu là một người dũng cảm hơn, anh sẽ leo lên bàn và reo lên rằng anh là Chỉ huy trưởng Linus, và đã đến lúc đi phiêu lưu rồi.
Người ta sẽ nhào đến bắt anh, nhưng anh sẽ nhảy từ bàn này qua bàn khác, Gunther kêu oai oái khi hắn cố tóm lấy chân Linus nhưng hụt mất.
Anh, con người dũng cảm ấy, sẽ đáp xuống gần cửa ra. Bà Jenkins sẽ hét lên rằng anh bị đuổi việc, nhưng anh sẽ phá lên cười với bà ta và hô lên đáp trả rằng người ta không thể đuổi việc anh vì anh bỏ việc đây.
Nhưng Linus Baker là một người đàn ông mềm mỏng với trái tim đang mong mỏi được về nhà.
Vậy nên anh ra đi cũng lặng im như khi đến đây.
Anh xách cặp lên, mở nó ra trên bàn. Anh trìu mến đặt khung ảnh vào cặp rồi đóng lại. Không còn hồ sơ nào để trộm mang ra khỏi DICOMY nữa. Anh đã có mọi thứ anh cần.
Anh hít một hơi thật sâu.
Và bắt đầu đi qua những dãy bàn về phía cửa ra.
Những nhân viên công tác xã hội khác bắt đầu sôi nổi thì thào.
Anh lờ họ đi, ngẩng cao đầu. Anh hầu như chẳng va vào cái bàn nào.
Và ngay khi anh ra tới cửa, bà Jenkins hô lên gọi anh.
Anh ngừng lại, ngoái đầu qua vai.
Trên mặt bà ta là vẻ cuồng nộ. “Anh nghĩ anh đang đi đâu vậy?”
“Về nhà,” anh đơn giản trả lời. “Tôi đang về nhà.”
Và rồi anh rời khỏi Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu một lần sau cuối.
Trời đang mưa.
Anh đã bỏ quên ô trong Sở.
Anh ngửa mặt lên bầu trời xám đen và cười và cười và cười thật to.
Calliope trông thật kinh ngạc khi thấy anh xông qua cửa chính. Cũng hợp lý, khi ấy còn chưa tới trưa.
“Có khi tao quẫn trí rồi,” anh nói với cô ả. “Không phải rất tuyệt vời ư?”
Con mèo meo meo lên hỏi, đây là lần đầu tiên cô ả lên tiếng từ khi họ rời đảo.
“Đúng,” anh nói. “Đúng. Đúng vậy.”
Linus Baker biết cuộc đời chung quy vẫn là những gì chúng ta tạo dựng nên. Là về những lựa chọn, cả lớn lẫn bé.
Sáng sớm hôm sau, hoá là là một ngày thứ tư, Linus khép cửa một cuộc đời để theo đuổi cuộc đời khác.
“Lại đi à?” Bà Klapper hỏi từ bên kia đường.
“Lại đi đây,” Linus công nhận.
“Lần này là bao lâu?”
“Cháu mong là mãi mãi. Nếu họ chào đón cháu.”
Bà cụ trợn tròn mắt. “Nói lại xem nào?”
“Cháu đi đây,” anh nói, và suốt những năm tháng cuộc đời anh chưa từng chắc chắn đến vậy về bất kỳ điều gì.
“Nhưng… Nhưng,” bà cụ lắp bắp. “Còn nhà cậu thì sao? Còn công việc của cậu thì sao?”
Anh cười toe toét với bà. “Cháu bỏ việc rồi. Còn về ngôi nhà, chà. Có lẽ cháu bà và vị hôn phu dễ thương sẽ muốn sống cạnh bà. Hãy coi như đó là quà cưới của cháu. Nhưng ngay bây giờ việc ấy không quan trọng. Cháu sẽ suy nghĩ sau. Cháu phải về nhà đã.”
“Cậu đang ở nhà mà, thằng ngốc này.”
Anh vừa lắc đầu vừa xách lồng của Calliope và va li lên. “Chưa đâu. Nhưng chẳng mấy chốc cháu sẽ về đến nhà thôi.”
“Chuyện nào không làm… Cậu phát điên rồi hả? Và cậu đang mặc cái quái gì thế kia?”
Anh nhìn xuống người mình. Sơ mi màu be cài cúc, quần soóc màu be, tất màu nâu. Trên đầu anh đội một chiếc mũ cối. Anh lại bật cười. “Đây là trang phục chúng ta phải mặc khi đi phiêu lưu. Trông kỳ quặc lắm, phải không? Nhưng có thể sẽ có thổ dân ăn thịt người và rắn ăn thịt người và côn trùng đục khoét da thịt cháu và ăn sống nhãn cầu từ bên trong. Khi đối mặt với những thứ ấy, chúng ta phải ăn mặc cho phù hợp thôi. Thôi nhé, bà Klapper. Cháu không biết liệu chúng ta còn gặp lại nữa không. Từ nay đám sóc của bà sẽ hoàn toàn được yên thân. Cháu tha thứ cho bà về chuyện khóm hướng dương của cháu.”
Anh bước xuống từ hiên nhà ra dưới mưa, bỏ lại số 86 đường Hermes Way phía sau.
“Đi du lịch à?” cậu tiếp viên tàu hỏa hỏi, nhìn xuống tấm vé. “Một mạch tới cuối tuyến, tôi hiểu rồi. Có hơi trái mùa, nhỉ?”
Linus nhìn ra cửa sổ toa xe, nước mưa ròng ròng chảy trên kính. “Không,” anh nói. “Tôi đang trở lại nơi tôi thuộc về.”
Bốn tiếng sau, mưa ngừng rơi.
Một tiếng sau đó, anh nhìn thấy khoảng xanh đầu tiên giữa màn mây.
Sau hai tiếng nữa, anh nghĩ mình đã ngửi thấy mùi muối trong không trung.
Anh là người duy nhất xuống tàu. Cũng hợp lý thôi, vì anh là người duy nhất còn trên tàu.
“Ôi trời!” Anh nói, nhìn con đường vắng tanh cạnh sân ga. “Có lẽ tao chưa tính kỹ rồi.” Anh lắc đầu. “Chẳng sao cả. Thời gian chẳng chờ đợi ai hết.”
Anh nhấc va li và lồng lên, bắt đầu đi về phía ngôi làng khi đoàn tàu rời ga.
Đến lúc thấy được những ngôi nhà đầu tiên anh đã ướt sũng mồ hôi. Mặt anh đỏ bừng và anh có cảm giác như va li của mình chẳng xếp gì vào đó ngoài đá cuội.
Anh tin là mình sắp sửa ngất xỉu khi tới được vỉa hè phố chính trong làng. Anh đang tính ngả lưng (có lẽ là vĩnh viễn) thì nghe thấy ai đó thốt lên tên mình.
Anh nheo mắt ngẩng lên.
Là Helen, đứng trước cửa tiệm của mình, cầm bình tưới trong tay.
“Xin chào,” anh xoay sở thốt lên. “Thật vui khi được gặp lại bà.”
Bà thả rơi bình tưới, và nước trong bình trào ra nền bê tông. Bà chạy vội về phía anh khi anh nặng nề ngồi lên va li.
“Cậu đi bộ đến đây đấy à?” bà hạch hỏi, nhăn mặt khi hai tay thu về ướt đẫm sau khi đặt lên vai anh.
“Làm việc tùy hứng không hẳn là sở trường của tôi,” anh thú nhận.
“Gã ngốc này,” bà nói. “Gã ngốc đến kinh ngạc này. Tỉnh ra rồi, phải không?”
Anh gật đầu. “Tôi nghĩ vậy. Hoặc là tỉnh ra, hoặc là hoàn toàn mất tỉnh táo rồi. Tôi chưa biết là thế nào nữa.”
“Họ không biết cậu tới đây à?”
“Không. Vậy mới tùy hứng. Tôi chưa giỏi việc này lắm, nhưng tôi mong là mình sẽ dần giỏi lên thông qua tập luyện.” Anh thở khò khè khi bà vỗ lưng anh bằng mấy đầu ngón tay.
“Tôi nghĩ cậu đã có một khởi đầu thuận lợi rồi, chí ít là vậy. Dù tôi cho rằng như vậy có nghĩa là Merle cũng không biết cậu ở đây.”
Anh nhăn mặt. “Ồ! Phải. Cái phà. Rất quan trọng, phải không? Ra đảo và những thứ khác.”
Bà đảo mắt. “Làm sao cậu sống được tới từng này tuổi nhỉ, tôi sẽ không bao giờ hiểu nổi.”
“Tôi đã đập vỡ bong bóng của mình,” anh nói với bà, anh cần bà phải hiểu. “Bong bóng ấy giữ cho tôi an toàn, nhưng nó cũng không để tôi được sống. Lẽ ra từ đầu tôi không nên bỏ đi.”
Vẻ mặt bà dịu đi. “Tôi biết mà.” Bà vươn thẳng hai vai. “Nhưng giờ cậu đã ở đây rồi, và đó là tất cả những gì quan trọng. May cho cậu, tôi là thị trưởng. Tức là khi tôi muốn làm việc gì, việc ấy sẽ được thực hiện. Cậu ở yên đây nhé. Tôi phải đi gọi điện.”
Bà vội vàng đi vào tiệm.
Linus nhắm mắt trong một khoảng mà anh nghĩ chỉ kéo dài chốc lát thôi, nhưng lại giật mình tỉnh cơn gà gật khi tiếng còi xe vang lên trước mặt mình.
Anh mở mắt ra.
Một chiếc xe tải xanh cũ kỹ đang tạm dừng bên vệ đường. Thân xe lốm đốm gỉ sét, và lốp xe viền trắng trông gần như chẳng còn cái rãnh nào. Helen ngồi sau vô lăng. “Thế nào?” Bà hỏi qua cửa kính kéo xuống. “Cậu cứ ngồi đó đến hết ngày à?”
Không. Không, anh sẽ không ngồi đây.
Anh chất va li lên phía sau xe tải. Calliope kêu rừ rừ khi anh đặt cô ả lên băng ghế liền trong buồng lái. Cửa xe cọt kẹt sau lưng anh khi anh đóng nó lại.
“Bà thật tốt bụng khi giúp tôi thế này.”
Bà khịt mũi. “Tôi tin là tôi nợ cậu đôi ba cái ân tình. Coi như chúng ta huề nhé.”
Chiếc xe rền rĩ khi bà lái nó rời khỏi vệ đường. Giọng Doris Day đang vang lên từ radio, ca vang rằng hãy mơ những giấc mơ nho nhỏ về em.
Merle đang đợi ở cảng, trông vẫn khó chịu như mọi khi. “Tôi không thể cứ bỏ hết mọi việc khi bà yêu cầu được,” ông ta cau mày nói. “Tôi có… Cậu Baker?”
“Xin chào, Merle. Thật vui khi được gặp ông.” Ngạc nhiên thay, lời ấy gần như là thật lòng.
Miệng Merle há hốc.
“Đừng có đứng đờ ra đó,” Helen nói. “Hạ cầu phà xuống.”
Merle hoàn hồn. “Tôi phải cho bà biết rằng giá của tôi đã gấp bốn…”
Helen mỉm cười, “Ồ! Tôi không nghĩ vậy đâu. Như vậy thì phi lý quá. Hạ cầu phà xuống đi trước khi tôi tông đổ nó.”
“Bà không dám làm vậy đâu.”
Bà rồ ga.
Merle chạy vội lên phà.
“Lão già phiền phức,” bà nói. “Nếu có ngày lão ngã khỏi phà và trôi ra ngoài biển thì tôi cũng chẳng phiền lòng đâu.”
“Thế thì khủng khiếp quá,” Linus nói. Rồi, “Chúng ta có thể khiến chuyện ấy xảy ra đấy.”
Bà bật cười, nghe có vẻ kinh ngạc. “Sao nào, cậu Baker, tôi chưa từng nghĩ mình sẽ nghe lời như vậy thốt ra khỏi miệng cậu. Tôi thích rồi đấy. Đưa cậu về nhà thôi nào, nhỉ? Tôi nghĩ cậu có vài điều cần nói đấy.”
Anh lẩn xuống trên ghế.
Hòn đảo trông vẫn như lúc anh đi. Mới vài tuần trôi qua thôi. Mà đã như một kiếp người.
Merle càu nhàu gì đó bảo Helen mau mau trở lại, và bà bảo ông ta rằng họ sẽ thong thả hết mức cần thiết và bà không muốn nghe ông ta nói một lời nào nữa. Ông ta nhìn bà chằm chằm, nhưng cũng chậm rãi gật đầu.
Bà lái xe theo con đường đất quen thuộc, quanh co dẫn tới đầu kia hòn đảo khi mặt trời bắt đầu lặn. “Tôi đã đến đây vài lần từ khi cậu đi.”
Anh nhìn sang bà. “Để thăm vườn ư?”
Bà nhún vai. “Và để trông nom những điều cậu bỏ lại.”
Anh lại quay ra cửa sổ. “Tình hình thế… thế nào?”
Bà vươn tay qua cái lồng đặt giữa họ và siết cánh tay anh. “Họ ổn mà. Buồn bã, dĩ nhiên là vậy. Nhưng vẫn ổn. Lần đầu tới đây tôi ở lại ăn tối. Họ bật nhạc lên. Dễ thương lắm. Họ nhắc nhiều đến anh.”
Anh nuốt trôi cục nghẹn trong cổ. “Ồ!”
“Trong thời gian ở trên đảo anh đã ghi dấu trong lòng mọi người ở đây.”
“Họ cũng tương tự trong lòng tôi.”
“Việc ấy xảy ra một cách thật lạ kỳ, phải không? Việc chúng ta có thể tìm thấy những điều không ngờ tới nhất khi ta còn chẳng có ý tìm kiếm chúng ấy.”
Anh chỉ có thể gật đầu.
Đèn đang bật trên tầng hai của nhà chính.
Đèn lồng giấy treo dưới vọng lâu trong vườn đang thắp sáng.
Giờ là năm rưỡi chiều, tức là lũ trẻ đang làm việc riêng. Sal, anh thầm nghĩ, hẳn đang viết lách trong phòng. Chauncey hẳn đang luyện tập trước gương. Phee đang đi cùng Zoe trong rừng. Theodore rất có thể đang ở dưới sô pha, và Talia ở trong vườn. Lucy và Arthur ở trên tầng, trò chuyện về triết học và về nhền nhện trong đầu.
Lần đầu tiên trong nhiều tuần qua anh đã có thể hít thở.
Helen dừng lại trước ngôi nhà. Bà mỉm cười với anh. “Tôi nghĩ đây là nơi chúng ta tạm thời chia tay. Cậu hãy nói với Arthur là tôi vẫn sẽ tới đây vào thứ bảy. Hình như hôm ấy sẽ có một chuyến phiêu lưu gì đó.”
“Thứ bảy nào cũng có,” Linus thì thầm.
“Đừng quên va li của cậu nhé.”
Anh nhìn bà. “Tôi… Cảm ơn bà.”
Bà gật đầu. “Tôi mới là người nên cảm ơn cậu. Cậu đã khiến tình hình thay đổi, cậu Baker ạ, dù là vô tình hay hữu ý. Đây là một khởi đầu nho nhỏ thôi, nhưng tôi nghĩ nó sẽ ngày một lớn lên. Và tôi sẽ không quên công cậu đâu. Đi đi. Tôi nghĩ có vài người ở đây muốn gặp cậu đấy.”
Linus lo lắng cựa quậy. “Có khi chúng ta nên…”
Bà bật cười. “Ra khỏi xe của tôi ngay, cậu Baker.”
“Là Linus. Cứ gọi tôi là Linus đi.”
Bà mỉm cười ngọt ngào. “Biến khỏi xe của tôi ngay, Linus.”
Anh làm theo, xách Calliope ra với mình. Anh vươn người vào thùng xe tải và nhấc va li của mình ra. Đá dăm lạo xạo dưới bánh xe tải khi Helen lái đi cùng cái vẫy tay.
Anh nhìn chằm chằm theo bà tới khi đèn pha chiếu hậu biến mất trong rừng.
“Được rồi, anh bạn già,” anh lầm bầm. “Mày làm được mà.”
Calliope meo lên từ trong lồng.
Anh cúi xuống mở cửa lồng. “Giờ thì, đừng đi xa…”
Con mèo chạy bắn về phía vườn.
Anh thở dài. “Hiển nhiên rồi.”
Anh đi theo cô ả.
Hoa đang nở rộ, và chúng như rực rỡ hơn cả trong ký ức của anh. Anh đi theo lối mòn tới khi nghe tiếng làu bàu bằng ngôn ngữ xa lạ. Anh vòng qua một hàng giậu và thấy một Thần vườn nho nhỏ có râu quai nón đang đào đất.
Anh dừng bước.
“Xin chào,” anh khẽ nói.
Vai con bé cứng đờ rồi lại tiếp tục đào. Calliope ngồi bên nó.
Anh tiến thêm bước nữa về phía nó. “Thế là dụng cụ mới dùng tốt, nhỉ?”
Con bé không trả lời, nhưng đất bay lên tứ tung quanh nó.
“Helen nói với chú rằng bà ấy rất ấn tượng với khu vườn của cháu đấy. Rằng đây là một trong những khu vườn đẹp nhất bà ấy từng thấy.”
“Ừ, phải rồi,” Talia cáu kỉnh nói. “Cháu là Thần vườn mà. Cháu phải giỏi việc này chứ.”
Anh khúc khích. “Dĩ nhiên là cháu giỏi rồi.”
“Sao chú lại ở đây?”
Anh lưỡng lự, nhưng chỉ thoáng chốc thôi. “Vì đây là nơi chú thuộc về. Và lẽ ra từ đầu chú không bao giờ nên bỏ đi. Chú chỉ đi để đảm bảo rằng mọi người được an toàn. Tất cả mọi người. Và giờ…”
Con bé thở dài và đặt thuổng xuống rồi quay sang nhìn anh.
Nó đang khóc.
Linus không chần chừ gì mà bế nó lên trong vòng tay mình.
Con bé vùi mặt vào cổ anh, chòm râu cọ vào yết hầu anh ngưa ngứa. “Cháu sẽ chôn chú ở đây,” nó nức nở. “Nói cho chú biết, cháu đang đào huyệt cho chú đấy.”
“Chú biết mà,” anh nói, tay xoa xoa lưng nó. “Chú cũng đoán là vậy.”
“Sẽ không ai có thể tìm ra chú đâu. Và kể cả nếu họ làm được, thì cũng đã quá muộn rồi và chú chỉ còn là xương trắng thôi!”
“Có lẽ chúng ta có thể hoãn việc đó lại, ít nhất là trong chốc lát đã. Chú có chuyện quan trọng cần nói với tất cả mọi người.”
Con bé sụt sịt. “Có lẽ vậy. Nhưng nếu cháu không thích điều chú nói, chúng ta sẽ quay lại ngay và chú sẽ trèo xuống huyệt mà không được cãi đâu đấy.”
Anh bật cười, phóng khoáng và rạng rỡ. “Nhất trí.”
Con bé chạy đằng trước, Calliope đuổi theo sau. Linus nấn ná một lát để hít vào mùi hương của khu vườn quanh anh. Anh lắng nghe tiếng sóng. Nếu anh từng có nghi ngờ nào trước khoảnh khắc này, thì giờ chúng đã bay biến. Anh chỉ hy vọng rằng những người khác cũng cảm thấy như vậy.
Đến lúc rồi.
Anh rời khỏi khu vườn, vòng qua hông nhà. Anh khựng lại khi thấy khung cảnh đang đợi mình.
Họ đã tụ tập lại ở trước nhà. Zoe trông thật sốt ruột khi thấy anh, lắc lắc đầu trìu mến. Phee đang lườm anh. Anh hy vọng rằng con bé sẽ không biến anh thành cây. Hoặc, nếu nó làm vậy, ít ra đừng biến anh thành cây táo. Anh không thích cái suy nghĩ rằng họ sẽ ăn anh khi anh đơm hoa kết trái.
Chauncey đang bồn chồn ngọ nguậy, như thể muốn chạy vội về phía Linus, nhưng lại biết mình phải một lòng với những người xung quanh. Sal đứng khoanh tay. Theodore ngồi trên vai thằng bé, nghiêng đầu.
Talia đang quệt mắt và làu bàu bằng tiếng Thần vườn. Linus nghĩ anh nghe thấy con bé nói rằng nó sẽ phải đào rộng huyệt cho anh vì anh vẫn mập mạp như vậy.
Và Lucy, dĩ nhiên rồi. Lucy, người đứng trước tất cả mọi người, trên mặt là biểu cảm lạ lùng. Linus tự hỏi liệu mình chuẩn bị được ôm, hay máu mình sẽ bắt đầu sôi lên, khiến nội tạng bị nấu chín từ bên trong. Tình huống này thật sự có thể tiến triển theo một trong hai cách.
Arthur đứng sau lũ trẻ, và dù trên mặt không tỏ vẻ gì và hai tay chắp sau lưng, Linus vẫn biết rằng người ấy đang đề phòng, anh có thể thấy điều ấy trên đôi vai cứng đờ kia. Sự thật rằng vẻ đề phòng ấy phần nào do Linus khiến anh nôn nao. Lẽ ra Arthur không bao giờ phải bất an đến vậy. Không phải bất an trước chuyện này.
Linus giữ nguyên khoảng cách, dù Calliope dường như chẳng có vấn đề gì về khoản ấy cả. Con mèo vừa ồn ào meo meo vừa cọ lên chân Sal, lắm mồm hơn bao giờ hết kể từ khi họ rời đảo.
Sao anh có thể ngu ngốc đến vậy? Sao anh có thể nghĩ rằng mình bỏ được nơi này mà đi? Nơi đây ngập tràn sắc màu, rực rỡ và ấm áp, và anh có cảm giác như trái tim mình cuối cùng cũng đập trở lại. Anh chưa từng nhận ra rằng mình đã bỏ nó lại sau lưng. Lẽ ra anh phải biết chứ. Lẽ ra anh phải nhận ra điều ấy chứ.
“Xin chào,” anh khẽ nói. “Thật vui khi được gặp lại tất cả mọi người.”
Họ không nói gì, dù Chauncey cựa quậy, hai mắt phấn khích nhảy nhót.
Linus hắng giọng. “Tôi không mong mọi người hiểu cho. Tôi không biết bản thân có hiểu hay không nữa. Tôi đã mắc lỗi, lỗi nọ còn lớn hơn lỗi kia. Nhưng tôi…” Anh hít một hơi thật sâu. “Tôi từng nghe điều nọ. Một điều rất quan trọng, dù tôi nghĩ mình đã không biết thật ra nó quan trọng tới mức nào. Một người vô cùng khôn ngoan đã đứng trước những người khác, và dù thằng bé vô cùng lo âu, nó đã nói ra những câu từ đẹp đẽ sâu lắng nhất mà tôi từng nghe.” Linus cố gắng mỉm cười, và nụ cười ngay lập tức méo xẹo. Anh nói, “Ta chỉ là giấy. Vụn vỡ và mong manh. Người đưa ta ra dưới nắng, nắng chiếu xuyên qua ta. Người viết lên ta, ta không còn dùng được nữa. Những vết bút ấy là lịch sử. Chúng là câu chuyện. Chúng kể chuyện cho người đọc, nhưng người chỉ thấy chữ, mà không xem những chữ ấy viết lên đâu. Ta chỉ là giấy, và dù có nhiều người như ta, chẳng có ai hoàn toàn như ta. Ta là giấy da nứt nẻ. Ta có dòng kẻ. Ta có lỗ dập. Làm ta ướt nước, ta sẽ tan ra. Châm lửa đốt ta, và ta sẽ cháy. Siết ta trong những bàn tay cứng rắn, và ta sẽ nhàu nát. Ta rách toạc. Ta chỉ là giấy. Vụn vỡ và mong manh.”
Mắt Sal mở to.
“Đoạn văn ấy khắc ghi trong lòng tôi,” Linus tiếp tục. “Vì nó quan trọng biết bao. Mọi người đều quan trọng biết bao.” Giọng anh lạc đi, và anh lắc đầu. “Không việc gì phải sợ Sở Phụ Trách Thanh Thiếu Niên Nhiệm Màu nữa. Nơi đây là nhà của các cháu, và sẽ luôn là nhà của các cháu. Các cháu có thể ở đây, lâu hết mức các cháu muốn. Và nếu chú làm được việc mình muốn làm, những bạn khác như các cháu cũng sẽ được trải qua những tháng ngày an yên.”
Talia và Phee thảng thốt. Miệng Chauncey há ra. Lucy cười toe toét trong khi Theodore xòe cánh và gầm lên một tiếng phấn khởi nho nhỏ. Sal buông tay, nhẹ nhõm thõng người.
Zoe nghiêng đầu.
Arthur vẫn đứng im.
Từng ấy là chưa đủ. Linus biết vậy.
Vậy nên anh trao đi mọi thứ còn lại trong mình. “Tôi nghĩ mọi người rất đáng yêu. Tất cả mọi người. Và dù tôi đã sống trong một thế giới mà ở đó mọi người không có mặt suốt phần lớn quãng đời của tôi, tôi tin đó không phải là nơi để tôi sống thêm một ngày nào nữa. Mọi chuyện bắt đầu từ nắng, và nắng rất ấm. Rồi tới biển, và biển không giống bất kỳ điều gì tôi từng thấy trước kia. Tiếp theo là nơi này, hòn đảo rất mực bí ẩn và tuyệt vời này. Nhưng chính mọi người đã cho tôi sự thanh thản và vui sướng mà tôi chưa từng có trước kia. Mọi người đã cho tôi tiếng nói riêng và mục đích sống. Nếu không nhờ tất cả mọi người thì sẽ chẳng có gì thay đổi cả. Tôi tin là họ đã lắng nghe tôi, nhưng lý do duy nhất khiến tôi biết phải nói gì là vì những điều mọi người đã dạy tôi. Chúng ta không đơn độc. Chưa bao giờ là vậy. Chúng ta đã có nhau. Nếu phải rời đi lần nữa, tôi cũng sẽ ước mình được về đây. Tôi không muốn ước ao nữa. Nếu mọi người chấp nhận tôi, tôi muốn ở lại. Mãi mãi.”
Lặng im như tờ.
Anh bồn chồn xoa gáy, tự hỏi mình có nên nói gì thêm không.
“Chúng cháu xin phép ra đây một lát, chú Baker ạ,” Lucy nói. Thằng bé quay về phía những đứa khác và ra hiệu cho chúng lại gần. Lũ trẻ cúi đầu và bắt đầu hăng say thì thào. Zoe đưa mu bàn tay lên che miệng cười.
Arthur chưa từng rời mắt khỏi Linus.
Linus biết cố nghe lỏm một cuộc họp mà anh không phải thành viên là bất lịch sự. Tuy nhiên, biết vậy cũng không ngăn anh dỏng tai lên được. Thật không may, lũ trẻ dường như chẳng quan tâm rằng anh rất có thể sắp lên cơn đau tim đến nơi. Anh nhìn chúng hội ý. Có lúc, Lucy còn lướt ngón tay ngang cổ, mắt trợn ngược, lưỡi thè ra. Talia gật đầu tán thành. Linus nghĩ Chauncey đã nói gì đó về việc cho thổ dân ăn thịt người ăn, nhưng có khi anh đã nghe nhầm. Theodore lách cách đớp. Phee ngoái đầu qua vai lườm Linus rồi quay lại với các bạn. Sal thấp giọng làu bàu gì đó, và lũ trẻ sùng bái ngước nhìn thằng bé.
“Rồi, vậy, chúng ta đều nhất trí chứ?” Lucy hỏi.
Lũ trẻ gật đầu.
Chúng lại quay về phía anh.
Chính Lucy là đứa lên tiếng đại diện. “Còn ai biết chú ở đây nữa không?”
Linus lắc đầu.
“Vậy thì chúng cháu có thể giết chú, và không ai sẽ biết gì hơn.”
“Phải, dù chú muốn tránh trường hợp đó nếu có thể.”
“Dĩ nhiên là chú sẽ muốn vậy rồi,” Lucy nói. “Bọn cháu có điều kiện.”
“Chú cũng đoán là vậy.”
Talia nói, “Chú phải giúp cháu trong vườn vào mùa xuân và làm đúng những gì cháu bảo.”
Anh không lưỡng lự gì. “Được.”
Phee nói. “Chú phải dành ra một ngày mỗi tháng với cháu và Zoe trong rừng.”
“Được.”
Chauncey nói, “Chú phải để cháu giặt đồ cho chú.”
Ôi! Trái tim anh như sắp nứt ra biết bao. “Nếu đó là việc cháu muốn làm.”
“Và chú phải boa cho cháu.”
“Dĩ nhiên.”
Theodore chiếp chiếp và tặc lưỡi, đầu gật gù lên xuống.
“Mọi chiếc cúc mà chú tìm được nhé,” Linus đồng ý.
Sal nói, “Chú phải để chúng cháu gọi chú là Linus.”
Mắt anh cay xè. “Chú không muốn gì hơn vậy.”
Lucy tà ác cười toe toét. “Và chú phải khiêu vũ với cháu, và khi cháu gặp ác mộng, chú phải đến và nói với cháu rằng mọi chuyện sẽ ổn thôi.”
“Được. Được. Mọi việc đều được. Việc gì cũng được. Vì các cháu, chú sẽ làm mọi thứ.”
Nụ cười của Lucy héo đi. Trông nó thật bé bỏng. “Tại sao ban đầu chú lại bỏ đi?”
Linus cúi đầu. “Đôi khi, ta không biết mình đang có những gì tới khi những điều ấy không còn nữa. Và chú cần phải lên tiếng vì các cháu. Để những người ở xa tít tắp có thể nghe các cháu nói bằng toàn bộ con người thật của mình.”
“Các con,” Arthur nói, lên tiếng lần đầu tiên. “Các con vào nhà và giúp Zoe chuẩn bị bữa tối được không? Ta cần nói đôi lời với chú Baker.”
Lũ trẻ lập tức phàn nàn.
“Ngay bây giờ.”
Lucy giơ hai tay lên. “Con không biết tại sao thầy không hôn chú ấy cho xong việc đi. Người lớn thật ngốc nghếch.”
Zoe nghẹn cười. “Đi nào. Hãy để đám người lớn ngốc nghếch được yên thân. Chúng ta sẽ tuyệt đối vào nhà và bắt đầu chuẩn bị bữa tối và không quan sát họ qua cửa sổ đâu.”
“Ồ!” Talia nói. “Cháu hiểu rồi. Phải, hãy đi quan sát… Ý cháu là, chuẩn bị bữa tối thôi.”
Họ vội vã đi lên bậc tam cấp dẫn lên nhà. Sal ngoái lại liếc họ rồi đóng cửa lại sau lưng.
Và lập tức xuất hiện nơi khung cửa với những người khác, dù họ cố giấu mình sau rèm cửa mà không thành. Kể cả Zoe.
Linus yêu họ vô cùng.
Trên cao sao trời bắt đầu hiện ra. Bầu trời vằn vện sắc cam, hồng và xanh, xanh, xanh thẳm. Hải âu gáy vang. Sóng đánh lên đá.
Nhưng điều quan trọng duy nhất vào giây phút này là người đàn ông trước mặt anh. Người đàn ông thanh tú này.
Linus chờ đợi.
“Tại sao lại là bây giờ?” Cuối cùng Arthur hỏi. Giọng anh nghe thật mệt mỏi.
“Đã đến lúc rồi,” Linus nói. “Tôi… Tôi trở về, vì nghĩ rằng đó là điều nên làm. Tôi trình kết quả điều tra lên Ban Quản Lý Thượng Tầng.” Anh ngừng lại, suy tư. “Có lẽ nói trình lên là giảm tránh. Thành thật mà nói, tôi đã rất cứng rắn.”
Môi Arthur giần giật. “Thật ư?”
“Tôi đã không biết rằng mình có thể cứng rắn như vậy.”
“Tại sao anh lại làm vậy?”
Linus xòe hai tay ra trước. “Vì tôi… Tôi đã thấy nhiều điều. Ở đây. Đã biết được những điều mình không biết trước kia. Việc ấy đã thay đổi tôi. Tôi không biết mình đã thay đổi biết bao cho tới khi những điều ấy không còn nữa. Khi tôi không thể thức dậy và đi bộ sang nhà chính để ăn sáng nữa. Hay nghe anh dạy dỗ lũ trẻ nữa. Hay thảo luận về những suy nghĩ ngốc nghếch của anh về triết học nữa. Hay mặc những bộ đồ ngớ ngẩn đi phiêu lưu vào thứ bảy trong khi bị cái chết rùng rợn đe dọa nữa.”
“Tôi không biết nữa,” Arthur nói. “Hình như anh chẳng có vấn đề gì với việc mặc trang phục ấy vào lúc này.”
Linus kéo cái áo sơ mi. “Tôi bắt đầu thích kiểu đồ này rồi. Ý tôi là tôi ra đi vì sợ hãi những điều có thể xảy ra, không phải là những việc vốn đã xảy ra. Tôi không còn sợ nữa.”
Arthur gật đầu và ngoảnh mặt đi, nghiến chặt răng. “Và trại trẻ thì sao?”
Linus lắc đầu. “Không phải là… Anh biết không, anh đã có lần nói với tôi rằng từ trại trẻ mồ côi là cách gọi sai lầm. Rằng không ai tới đây để nhận nuôi trẻ con.”
“Tôi có nói vậy, phải không nhỉ?”
“Phải. Và như tôi đã bảo Ban Quản Lý Thượng Tầng, đây không phải trại trẻ mồ côi. Đây là một mái ấm. Và nơi này sẽ luôn là vậy.”
“Thật ư?”
“Thật.”
“Và còn những đứa khác thì sao? Anh nói anh nghĩ rằng mình có thể giúp mọi đứa trẻ khác.”
Linus gãi gãi gáy. “Có thể tôi đã làm một việc… phạm pháp? Lấy trộm vài tập hồ sơ. Có lẽ nhiều hơn là một vài tập. Tôi có một ý tưởng, dù chuyện ấy sẽ mất thời gian để thực hiện.”
“Chà chà, Linus Baker. Tôi vô cùng ngạc nhiên về anh đấy. Làm gì không làm, lại đi ăn trộm. Như thế là không đàng hoàng đâu.”
“Phải, chà,” anh làu bàu. “Tôi đổ toàn bộ trách nhiệm lên đầu mọi người ở đây. Mấy người đã dạy hư tôi đấy.”
Linus nghĩ mình vừa thấy ánh lửa lóe lên trong mắt Arthur. “Anh thật sự đã làm tất cả những việc ấy ư?”
“Phải. Tôi sợ muốn chết, nhưng đó là việc nên làm.” Anh lưỡng lự. Rồi, “Tôi cũng bỏ việc rồi.”
Arthur trông thật kinh ngạc. “Tại sao?”
Linus nhún vai. “Vì tôi không thuộc về nơi đó.”
“Vậy đâu mới là nơi anh thuộc về, hả Linus?”
Và với chút dũng khí cuối cùng, Linus Baker nói, “Nơi đây. Với mọi người. Nếu mọi người chấp nhận tôi. Hãy hỏi lại đi. Làm ơn, xin anh đấy. Hãy yêu cầu tôi ở lại lần nữa.”
Arthur gật đầu cộc lốc. Anh hắng giọng. Giọng anh khản đặc khi cất lên, “Linus.”
“Vâng, Arthur?”
“Ở lại đi. Ở đây. Với mọi người. Ở lại với tôi đi.”
Linus gần như không thở nổi. “Vâng. Mãi mãi. Vâng. Vì lũ trẻ. Vì anh. Vì…”
Người ấy đang hôn anh. Anh còn không thấy Arthur di chuyển. Giây trước, anh nghĩ mình sắp bật khóc rồi, và giây sau, mặt anh đã nằm trong hai bàn tay ấm áp và một đôi môi đang áp lên môi anh. Anh cảm thấy như mình đang bốc cháy, đang thiêu đốt từ bên trong. Anh vươn lên, phủ hai bàn tay mình lên tay Arthur, giữ chặt chúng. Anh không muốn khoảnh khắc này kết thúc chút nào. Sau tất cả những bản tình ca từng nghe trong đời, anh vẫn chưa hề sẵn sàng trước những gì mình cảm nhận được trong giây phút này.
Arthur rời anh ra và bắt đầu bật cười khi Linus cuống cuồng hôn lên cằm và má, và mũi và trán người nọ. Arthur buông hai tay xuống và vòng tay quanh người Linus, ôm anh vào lòng. Linus có thể nghe thấy tiếng lũ trẻ reo hò trong nhà khi họ bắt đầu đu đưa trong ánh nắng rọi tới từ mặt trời đang lặn.
“Tôi xin lỗi,” Linus thì thầm bên cổ Arthur, không bao giờ muốn giây phút này qua đi.
Arthur càng ôm anh chặt hơn. “Con người ngốc nghếch, tuyệt vời này. Chẳng có gì để xin lỗi cả. Anh đã đấu tranh vì chúng ta. Tôi không bao giờ có thể giận anh vì chuyện ấy được. Tôi trân trọng anh đến vậy kia mà.”
Linus cảm thấy trái tim mình đã nguôi ngoai trong ngực.
Trong khi hai người tiếp tục đu đưa theo khúc hát chỉ mình họ nghe được, vầng thái dương cuối cùng cũng lặn xuống nơi chân trời, và mọi chuyện đều yên vui ở góc trời nhỏ tí hon này.
Bạn không ước mình được đến đây ư?