Người Chạy Xuyên Không Gian - Chương 07

BẢY

Bóng đèn trên trần nhà rọi luồng ánh sáng rực rỡ và lung linh xuống căn phòng nhỏ xíu. Tôi bị trói vào một cái giường khung thép, hai cổ chân cùng hai cổ tay bị thắt bởi các dây đai, rồi thông qua các móc chốt kim loại mà gắn với bu lông có khoen trên bức tường bê tông.

Có tiếng ba chốt cửa cùng kéo ra, nhưng tôi đã bị tiêm thuốc an thần nên chẳng hề giật mình.

Cánh cửa bật mở.

Leighton đang mặc một bộ lễ phục.

Anh ta đeo cặp kính gọng kim loại mảnh.

Khi anh ta tiến đến gần, tôi thoáng ngửi thấy mùi nước hoa và mùi cồn trong hơi thở của anh ta. Rượu sâm banh chăng? Anh ta vừa đi đâu về nhỉ? Một bữa tiệc sao? Tiệc gây quỹ từ thiện? Có một dải ruy băng màu hồng ghim lên phần ngực áo khoác bằng xa tanh của anh ta.

Leighton ngồi xuống bên mép của tấm nệm mỏng như giấy.

Trông anh ta rất nghiêm túc.

Và buồn một cách khó ngờ.

“Tôi chắc chắn anh có nhiều điều muốn nói, Jason, nhưng tôi hy vọng anh sẽ cho tôi nói trước. Tôi có lỗi rất nhiều trong những chuyện đã xảy ra. Anh đã trở lại, và chúng tôi đã không sẵn sàng để tiếp đón anh... với tình trạng không tốt như vậy. Như lúc này. Chúng tôi đã làm anh thất vọng, và tôi xin lỗi. Tôi không biết phải nói gì khác. Tôi chỉ... Tôi ghét tất cả những gì đã xảy ra. Lẽ ra chúng ta phải ăn mừng sự trở lại của anh mới phải.”

Dù đang phải chịu thuốc an thần liều cao, tôi vẫn run lên vì quá đau lòng.

Vì quá phẫn nộ.

“Kẻ đã đến căn hộ của Daniela, mày cử gã bám theo tao phải không?” Tôi hỏi.

“Anh không để tôi có lựa chọn nào khác. Thậm chí có khả năng anh đã kể với cô ấy về nơi này...”

“Mày đã bảo gã giết cô ấy phải không?”

“Jason...”

“Phải không?”

Anh ta không trả lời, nhưng tôi cũng đã hiểu.

Tôi nhìn chằm chằm vào mắt Leighton, và tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là cào nát mặt anh ta đến tận xương sọ.

“Thằng khốn.”

Tôi không thể chịu nổi nữa.

Tôi bật khóc nức nở.

Tôi không thể loại bỏ khỏi tâm trí hình ảnh máu chảy xuống bàn chân trần của Daniela.

“Tôi rất tiếc, người anh em.” Leighton đặt tay lên cánh tay tôi, còn tôi gắng giật ra mạnh đến nỗi gần như trật khớp vai.

“Đừng đụng vào tao!”

“Anh đã ở trong căn phòng này gần hai mươi tư giờ. Tôi chẳng vui vẻ gì khi phải trói và tiêm thuốc an thần cho anh, nhưng chừng nào anh còn là mối nguy cho bản thân hoặc người khác thì tình trạng này còn tiếp diễn. Anh cần ăn uống chút gì đó. Anh sẵn lòng làm điều đó chứ?”

Tôi chỉ chăm chắm nhìn vào một vết nứt trên tường.

Tôi tưởng tượng việc dùng chính cái đầu của Leighton để tạo ra một vết nứt khác, dộng nó vào bức tường bê tông hết lần này đến lần khác.

“Jason, hoặc là anh chịu ăn, hoặc là tôi sẽ cho gắn ống G vào dạ dày của anh.”

Tôi chỉ muốn nói với anh ta rằng tôi sẽ giết anh ta. Anh ta và mọi người trong phòng thí nghiệm này. Tôi có thể cảm nhận ngôn từ đã dâng lên đến cổ họng tôi, nhưng óc phán đoán tỉnh táo hơn đã thắng thế - tính mạng của tôi đang hoàn toàn nằm trong tay anh ta.

“Tôi biết những gì anh phải chứng kiến trong căn hộ đó thật kinh khủng, và tôi xin lỗi vì điều đó. Tôi ước gì nó chưa từng xảy ra, nhưng đôi khi, một tình huống đã vượt quá tầm kiểm soát... Nghe này, xin hiểu rằng tôi rất tiếc khi anh phải chứng kiến điều đó.”

Đứng trước ngưỡng cửa, anh ta quay lại nhìn tôi, khuôn mặt nửa trong ánh sáng, nửa khuất trong bóng tối.

Anh ta nói: “Có lẽ anh chưa muốn nghe điều này ngay bây giờ, nhưng nơi đây sẽ không thể tồn tại nếu không nhờ có anh. Không ai trong chúng tôi được ở đây, nếu không có công sức của anh, trí tuệ của anh. Tôi sẽ không để ai quên điều đó, nhất là anh.”

Tôi dần bình tĩnh lại.

Tôi vờ như mình đã bình tĩnh lại.

Bởi vì khi bị xích trong căn phòng nhỏ này, tôi sẽ không làm được việc gì cả.

Nằm trên giường, tôi nhìn thẳng vào chiếc camera giám sát gắn trên cửa và đề nghị được gặp Leighton.

Năm phút sau, anh ta đã mở khóa cho tôi và nói: “Tôi nghĩ tôi cũng vui không kém gì anh khi được tháo xích cho anh.”

Anh ta đỡ tôi đứng dậy.

Cổ tay của tôi trầy cả da vì bị cọ xát với đống dây trói.

Miệng tôi khô khốc.

Tôi khát đến mức choáng váng.

Leighton hỏi: “Anh thấy đỡ hơn chưa?”

Tôi nhận ra rằng phản xạ đầu tiên của tôi khi thức dậy ở nơi này là đúng. Hãy là người đàn ông mà họ đang nghĩ đến. Cách duy nhất để làm được việc đó là vờ như tôi đã tạm đánh mất ký ức và danh tính của tôi. Hãy để họ tự lấp đầy khoảng trống. Bởi vì nếu tôi không phải là người như họ nghĩ, thì tôi chẳng còn công dụng gì với họ.

Khi đó tôi sẽ không bao giờ rời khỏi phòng thí nghiệm này mà còn sống.

Tôi nói với anh ta: “Tôi đã hoảng sợ, nên mới bỏ chạy.”

“Tôi hoàn toàn hiểu được điều đó.”

“Tôi xin lỗi đã bắt anh trải qua chuyện này, nhưng anh phải hiểu rằng… tôi hoàn toàn bối rối. Mười năm qua... trong đầu tôi giờ chỉ là một khoảng trống.”

“Và chúng tôi sẽ làm mọi điều trong khả năng để giúp anh phục hồi trí nhớ. Để giúp anh khỏe lại. Chúng tôi sẽ cho chụp MRI. Chúng tôi sẽ kiểm tra tình trạng rối loạn căng thẳng hậu sang chấn. Bác sĩ tâm lý của chúng ta, Amanda Lucas, sẽ sớm nói chuyện với anh. Tôi hứa rằng... sẽ không bỏ sót phương pháp nào cho đến khi cải thiện được tình hình này, cho đến khi anh hồi phục hoàn toàn.”

“Cảm ơn anh.”

“Anh cũng sẽ làm thế vì tôi mà. Nghe này, tôi không biết anh đã trải qua những gì trong mười bốn tháng qua, nhưng người đàn ông mà tôi quen biết mười một năm nay, người đồng nghiệp và người bạn đã gây dựng nơi này với tôi - anh ấy đang bị nhốt ở đâu đó trong đầu anh, và tôi sẽ làm mọi cách để tìm được anh ấy.”

Một ý nghĩ ghê rợn thoáng qua - nhỡ anh ta nói đúng thì sao?

Tôi nghĩ tôi biết mình là ai.

Nhưng một phần trong tôi vẫn băn khoăn... Nếu những ký ức tôi có về cuộc đời thật của mình - một người chồng người cha, một giáo sư - không phải là thật thì sao?

Nếu nó là hậu quả từ một thương tổn trong não mà tôi mắc phải trong lúc làm việc tại phòng thí nghiệm này thì sao?

Nếu tôi thực sự là người mà mọi người trong thế giới này vẫn nghĩ thì sao?

Không.

Tôi biết mình là ai.

Leighton vẫn ngồi trên mép tấm nệm.

Giờ thì anh ta gác hai chân lên và dựa vào bệ đỡ chân.

“Tôi phải hỏi điều này.” Leighton nói. “Anh đã làm gì ở căn hộ của người phụ nữ đó?”

Tôi nói dối.

“Tôi cũng không biết nữa.”

“Sao anh lại quen cô ta?”

Tôi phải cố gắng đè nén cơn giận và những giọt nước mắt chực trào ra.

“Ngày xưa tôi từng hẹn hò với cô ấy.”

“Lại từ đầu nhé. Sau khi anh trốn thoát qua cửa sổ phòng tắm đêm hôm nọ, làm thế nào anh về được nhà anh ở Quảng trường Logan?”

“Tôi đi taxi.”

“Anh có kể với lái xe điều gì về nơi anh vừa trốn khỏi không?”

“Tất nhiên là không.”

“Được rồi, và sau khi thoát được chúng tôi ở nhà anh, anh đã đi đâu?”

Tôi lại nói dối.

“Tôi lang thang ngoài đường cả đêm. Tôi bị mất phương hướng và sợ hãi. Hôm sau, tôi thấy một tấm áp phích quảng cáo cho triển lãm của Daniela. Vậy nên tôi mới tìm được cô ấy.”

“Anh có nói chuyện với ai khác ngoài Daniela không?”

Ryan.

“Không!”

“Anh chắc chứ?”

“Chắc. Tôi quay lại căn hộ của cô ấy, và chỉ có hai chúng tôi ở đó cho đến khi...”

“Anh phải hiểu rằng... chúng ta đã hy sinh mọi thứ vì nơi này. Vì nghiên cứu của anh. Chúng ta đã tất tay cho nó. Bất kỳ ai trong chúng ta cũng sẵn sàng quên mình để bảo vệ nó. Kể cả anh.”

Phát súng nổ.

Hố sâu giữa hai mắt cô ấy.

“Tôi rất đau lòng khi thấy anh như thế này, Jason.”

Anh ta nói điều này với vẻ cay đắng và ân hận chân thành.

Tôi có thể nhìn thấy điều đó trong mắt anh ta.

“Chúng ta từng là bạn bè sao?” Tôi hỏi.

Anh ta gật đầu, quai hàm siết chặt, như thể đang cố ngăn một cơn lũ cảm xúc trào ra.

Tôi nói: “Tôi chỉ không hiểu được vì sao việc giết một ai đó để bảo vệ phòng thí nghiệm này lại dễ dàng được chấp nhận bởi anh hay bất kỳ ai ở đây.”

“Jason Dessen mà tôi biết sẽ không bao giờ băn khoăn về chuyện đã xảy ra với Daniela Vargas. Tôi không nói là anh ấy thấy vui vì điều đó. Không ai thấy vui cả. Nó khiến tôi rất đau lòng. Nhưng anh ấy sẽ sẵn sàng hy sinh.”

Tôi lắc lắc đầu.

Anh ta nói: “Anh đã quên mất những gì chúng ta cùng nhau gây dựng.”

“Vậy hãy chỉ cho tôi đi.”

Họ cho tôi tắm, thay quần áo mới và cho tôi ăn.

Sau bữa trưa, Leighton và tôi đi thang máy xuống tầng hầm số bốn.

Lần cuối cùng tôi đi qua hành lang này, nó được bọc một lớp nhựa, và lúc đó tôi không biết mình đang ở đâu.

Tôi vẫn chưa bị đe dọa.

Chưa nghe họ nói rằng tôi không được phép đi khỏi đây.

Nhưng tôi nhận thấy hiếm khi chỉ có Leighton và tôi ở riêng với nhau. Hai người đàn ông có dáng dấp giống như là cảnh sát luôn luôn ở gần chúng tôi. Tôi nhớ lại những gã bảo vệ này trong đêm đầu tiên tôi ở đây.

“Về cơ bản là có bốn tầng.” Leighton nói. “Có phòng tập thể dục, phòng ghi hình, phòng ăn tập thể và một vài phòng ký túc xá ở tầng một. Phòng thí nghiệm, phòng sạch, phòng hội nghị trên tầng hai. Tầng hầm ba dành riêng cho việc chế tạo. Tầng hầm bốn là bệnh xá và trung tâm điều khiển.”

Chúng tôi di chuyển về phía hai cánh cửa trông như cửa vào hầm kín chứa các bí mật quốc gia.

Leighton dừng lại trước một màn hình cảm ứng gắn trên tường cạnh cửa.

Anh ta rút thẻ từ trong túi ra và đưa xuống dưới máy quét.

Một giọng nữ từ hệ thống máy tính cất lên: Vui lòng đọc tên.

Anh ta ghé lại gần và nói: “Leighton Vance.”

Mã số.

“Một - một - tám - bảy.”

Đã xác nhận giọng nói. Chào mừng Tiến sĩ Vance.

Tiếng chuông cửa khiến tôi giật mình, tiếng vọng của nó nhỏ dần về cuối hành lang phía sau chúng tôi.

Cánh cửa mở ra một cách chậm rãi.

Tôi bước vào một nhà xưởng máy bay.

Từ trần phào cao bên trên, những ngọn đèn rọi xuống chiếu sáng cho một khối lập phương mỗi chiều ba mét sáu mươi sáu centimet, có màu xám đậm.

Nhịp tim của tôi tăng đột biến.

Tôi không thể tin vào mắt mình.

Leighton hẳn đã đánh hơi được sự ngỡ ngàng của tôi nên nói: “Rất đẹp phải không?”

Nó đẹp khó tả.

Lúc đầu, tôi nghĩ tiếng kêu ro ro trong nhà xưởng phát ra từ các ngọn đèn, nhưng không. Tiếng kêu này trầm đến mức tôi có thể cảm nhận nó ở đáy cột sống của tôi, giống như tiếng rung tần số siêu thấp của một khối động cơ lớn.

Tôi đi như người bị thôi miên về phía khối lập phương.

Tôi chưa từng nghĩ sẽ được tận mắt nhìn thấy nó ở cấp độ này.

Lại gần, tôi thấy nó không trơn nhẵn mà có bề mặt khá bất thường, phản chiếu ánh sáng như thể nó có đa diện, gần như là trong suốt.

Leighton chỉ tay về phía mặt sàn xi măng sạch như lau như ly đang sáng bóng dưới ánh đèn. “Chúng tôi đã thấy anh nằm bất tỉnh ngay đằng kia.”

Chúng tôi chậm rãi bước vòng quanh chiếc hộp.

Tôi giơ tay ra và lướt đầu ngón tay trên bề mặt khối hộp.

Nó rất lạnh.

Leighton nói: “Mười một năm trước, sau khi anh giành giải Pavia, chúng tôi đã đến tìm anh và nói chúng tôi có năm tỉ đô la. Chúng tôi đã có thể chế tạo tàu vũ trụ, nhưng chúng tôi đã dành nó cho anh. Để xem anh sẽ đạt được thành tựu gì với một nguồn lực gần như vô hạn.”

Tôi hỏi: “Những nghiên cứu của tôi có ở đây không? Những ghi chép ấy?”

“Tất nhiên rồi.”

Chúng tôi đã sang phía bên kia của chiếc hộp.

Anh ta dẫn tôi sang góc tiếp theo.

Ở mặt này, có một cánh cửa được khoét vào trong lòng hộp.

“Có gì bên trong vậy?” Tôi hỏi.

“Anh tự xem đi.”

Phần đáy của khung cửa nằm cách mặt sàn nhà xưởng khoảng ba mươi centimet.

Tôi kéo tay nắm cửa xuống, đẩy cửa mở ra và bước vào bên trong.

Leighton đặt một tay lên vai tôi.

“Đừng đi xa hơn nữa.” Anh ta nói. “Vì sự an toàn của chính anh thôi.”

“Nó nguy hiểm à?”

“Anh là người thứ ba bước vào bên trong. Và có hai người nữa đi vào sau anh. Tính đến nay, anh là người duy nhất trở lại.”

“Chuyện gì đã xảy ra với họ?”

“Chúng tôi không biết. Không thể dùng thiết bị ghi hình bên trong hộp. Báo cáo duy nhất chúng tôi mong có được lúc này phải đến từ một người đã trở lại. Giống như anh.”

Bên trong hộp trống không và tối.

Các bức tường, sàn và trần làm từ cùng một loại vật liệu với phần vỏ.

Leighton nói: “Nó được cách âm, chống bức xạ, kín khí, và, như anh hẳn đã đoán được, tạo ra một từ trường mạnh.”

Khi tôi đóng cửa, một cái chốt chết ở phía bên kia cửa sập vào.

Khi nhìn chiếc hộp này, tôi cảm thấy như một giấc mơ đã chết từ lâu được hồi sinh.

Nghiên cứu của tôi ở những năm gần ba mươi tuổi bao gồm một chiếc hộp rất giống như thế này.

Chỉ có điều nó là một khối lập phương chưa tới ba centimet mỗi chiều, được thiết kế để đặt một vật thể vĩ mô vào trạng thái chồng chập lượng tử.

Vào trạng thái mà các nhà vật lý học chúng tôi đôi khi gọi, theo ngôn ngữ hài hước của giới khoa học, là trạng thái con mèo.

Giống như trong suy nghiệm nổi tiếng của Schrödinger[34].

Hãy thử hình dung ra một con mèo, một ống thuốc độc, và một nguồn phát phóng xạ ở trong một chiếc hộp bịt kín. Nếu một thiết bị cảm ứng trong hộp ghi nhận được hiện tượng phóng xạ, chẳng hạn như một nguyên tử phân rã, ống thuốc sẽ bị đập vỡ, thuốc độc được giải phóng và giết chết con mèo. Khả năng nguyên tử phân rã hoặc không phân rã là bằng nhau.

Đó là một cách thông minh để liên kết một kết quả trong thế giới cổ điển, thế giới của chúng ta, với một sự kiện ở cấp độ lượng tử.

Cách diễn giải Copenhagen về cơ học lượng tử cho thấy một điều điên rồ: trước khi chiếc hộp được mở ra, trước khi ta quan sát được sự việc, nguyên tử tồn tại trong trạng thái chồng chập - một trạng thái không xác định của cả hai khả năng, phân rã và không phân rã. Điều đó có nghĩa là, con mèo ở trong trạng thái vừa sống vừa chết.

Chỉ khi chiếc hộp được mở ra, và ta quan sát được sự việc, hàm sóng lượng tử mới sụp đổ[35] thành một trong hai trạng thái.

Nói cách khác, ta chỉ nhìn thấy được một trong hai kết quả được dự đoán.

Ví dụ như một con mèo đã chết.

Và đó trở thành hiện thực của chúng ta.

Nhưng rồi mọi việc bắt đầu trở nên lạ lùng.

Liệu có một thế giới khác, cũng thật như thế giới mà chúng ta biết, trong đó, chúng ta mở hộp ra rồi thấy một con mèo còn sống và đang rên hừ hừ không?

Thuyết Thế giới phân nhánh trong cơ học lượng tử quan niệm là có.

Rằng khi ta mở hộp, ta mở ra một nhánh rẽ.

Một vũ trụ nơi ta thấy con mèo đã chết.

Và một vũ trụ nơi ta thấy con mèo còn sống.

Và chính hành động quan sát của ta sẽ giết chết - hoặc cứu sống con mèo.

Và sự việc từ đây còn trở nên lạ lùng hơn nữa.

Vì những kiểu quan sát này diễn ra liên tục.

Vậy nếu thế giới thực sự phân nhánh mỗi khi ta quan sát một sự việc nào đó, nghĩa là sẽ có một số lượng vũ trụ nhiều vô tận, không sao kể hết - một đa vũ trụ - nơi mọi thứ có khả năng xảy ra đều sẽ xảy ra.

Ý tưởng về khối lập phương nhỏ bé của tôi là tạo ra một môi trường được bảo vệ trước mọi sự quan sát và các kích thích bên ngoài, để đối tượng vĩ mô của tôi - một đĩa nhôm nitride có chiều dài bốn mươi micromet, chứa khoảng một nghìn tỉ nguyên tử - có thể tồn tại tự do trong trạng thái con mèo không xác định đó và không phục hồi tách sóng do tương tác với môi trường của nó.

Tôi chưa bao giờ giải quyết được vấn đề đó trước khi khoản tài trợ của tôi bốc hơi, nhưng rõ ràng là một phiên bản khác của tôi đã làm được. Và sau đó nâng toàn bộ khái niệm lên một nấc thang không tưởng. Bởi vì nếu những gì Leighton nói là đúng, thì chiếc hộp này đã làm được điều mà dựa trên những kiến thức vật lý của tôi, đáng lẽ không thể xảy ra được.

Tôi cảm thấy xấu hổ, giống như tôi đã thua trước một đối thủ tốt hơn. Một người đàn ông có tầm nhìn vĩ đại đã tạo ra chiếc hộp này.

Một phiên bản thông minh hơn, tốt hơn của tôi.

Tôi nhìn Leighton.

“Nó có hiệu quả chứ?”

Anh ta nói: “Việc anh đang đứng đây cạnh tôi có vẻ đã chứng minh rằng nó có hiệu quả.”

“Tôi không hiểu được. Nếu muốn đặt một hạt vào trạng thái lượng tử trong phòng thí nghiệm, ta phải tạo ra một buồng cô lập. Loại bỏ tất cả ánh sáng, hút không khí ra, giảm nhiệt độ xuống gần độ không tuyệt đối. Điều kiện ấy sẽ giết chết một con người. Và vật thể càng lớn thì mọi khả năng càng trở nên mong manh. Dù chúng ta ở dưới lòng đất, nhưng vẫn có mọi loại hạt trong không khí - hạt neutrino, tia vũ trụ - có thể xuyên qua khối lập phương và làm xáo trộn trạng thái lượng tử. Thử thách dường như là vô tận.”

“Tôi không biết phải nói thế nào... nhưng anh đã vượt qua tất cả.”

“Làm cách nào?”

Leighton mỉm cười. “Nghe này, khi anh giải thích với tôi, mọi sự thật rõ ràng, nhưng tôi lại không thể giải thích lại cho anh. Anh nên đọc lại ghi chép của mình. Tôi chỉ có thể nói rằng chiếc hộp đó tạo ra và duy trì một môi trường mà mọi sự vật thường ngày đều có thể tồn tại ở trạng thái chồng chập lượng tử.”

“Kể cả chúng ta ư?”

“Kể cả chúng ta.”

Thôi được.

Dù mọi thứ tôi biết đều nói với tôi điều đó là không thể, nhưng rõ ràng tôi đã tìm ra cách tạo ra một môi trường lượng tử phù hợp ở quy mô vĩ mô, có lẽ là tận dụng từ trường để ghép các vật thể ở bên trong vào hệ thống lượng tử ở quy mô nguyên tử.

Nhưng còn những vật thể cư ngụ bên trong hộp thì sao?

Những vật cư ngụ ấy cũng chính là những đối tượng quan sát.

Chúng ta sống trong trạng thái phục hồi tách sóng, trong một hiện thực duy nhất, vì chúng ta liên tục quan sát môi trường của mình và sụp đổ hàm sóng của chính chúng ta.

Hẳn là phải còn điều gì khác trong lúc nghiên cứu.

“Đi nào.” Leighton nói. “Có thứ này tôi muốn cho anh xem.”

Anh ta dẫn tôi về phía một dãy cửa sổ ở mặt bên của nhà xưởng, đối diện với cánh cửa dẫn vào chiếc hộp.

Anh ta quét thẻ từ ở một cánh cửa an ninh khác rồi đưa tôi vào một căn phòng có vẻ là một trung tâm liên lạc hoặc điều khiển nhiệm vụ.

Hiện tại, chỉ có một bàn máy đang có người ngồi, một người phụ nữ đang gác chân lên bàn, đeo tai nghe và không hay biết chúng tôi vừa bước vào.

“Bàn máy kia có người trực hai mươi tư giờ một ngày, bảy ngày một tuần. Tất cả chúng tôi thay phiên nhau chờ đợi ai đó trở về.”

Leighton lách vào phía sau một thiết bị đầu cuối máy tính, nhập một dãy mật khẩu và lục tìm trong vài thư mục cho đến khi thấy thứ anh ta cần.

Anh ta mở một tệp ghi hình ra.

Nó có độ phân giải cao, được quay bởi một camera đối diện cửa hộp, có lẽ được gắn ở vị trí ngay phía trên những ô cửa sổ trong phòng điều khiển.

Ở phía dưới màn hình, tôi thấy mốc thời gian từ mười bốn tháng trước, đồng hồ ghi lại thời gian chính xác đến một phần trăm giây.

Một người đàn ông di chuyển vào trong khung hình và tiếp cận chiếc hộp.

Anh ta đeo một chiếc ba lô, mặc bộ đồ du hành không gian gọn ghẽ, chiếc mũ bảo hộ cùng bộ được kẹp dưới cánh tay trái.

Đến cửa hộp, anh ta xoay cần gạt và đẩy cửa mở. Trước khi bước vào trong, anh ta ngoái lại qua vai, nhìn thẳng vào camera.

Đó là tôi.

Tôi vẫy tay chào, bước vào trong hộp và khóa cửa lại.

Leighton nhấn nút tua băng ghi hình.

Tôi nhìn chiếc hộp bất động suốt năm mươi phút.

Anh ta đưa băng ghi hình trở về tốc độ bình thường khi có người mới xuất hiện trong khung hình.

Một người phụ nữ với mái tóc nâu dài bước về phía chiếc hộp và mở cửa.

Góc quay của camera chuyển sang một chiếc GoPro gắn trên đầu.

Nó giúp tôi nhìn rõ bên trong chiếc hộp, ánh sáng trải ra khắp những bức tường và nền phòng trần trụi, lấp lánh trên bề mặt lồi lõm của kim loại.

“Và bùm một cái!” Leighton nói. “Anh đã biến mất, cho đến...” Anh ta bật một đoạn băng khác lên. “Ba ngày rưỡi trước.”

Tôi thấy mình lảo đảo bước ra khỏi hộp và khuỵu xuống sàn, như thể tôi vừa bị đẩy ra.

Thời gian tiếp tục trôi, và rồi tôi thấy đội cứu hộ xuất hiện và nhấc tôi lên một chiếc cáng.

Tôi không thể gạt bỏ được thứ cảm giác siêu thực khi xem đoạn ghi hình chính xác khoảnh khắc cơn ác mộng của tôi bắt đầu.

Những giây đầu tiên của tôi trong thế giới mới mẻ, gian nan và khốn kiếp này.

Một phòng trong khu vực nghỉ ngơi ở tầng hầm số một đã được chuẩn bị cho tôi, và so với phòng giam hôm qua, nó đã khá hơn đáng kể.

Một giường ngủ sang trọng.

Có bồn tắm và các thiết bị vệ sinh đầy đủ.

Một chiếc bàn trên đó có một lọ hoa tươi tỏa hương ngát phòng.

Leighton nói: “Tôi hy vọng anh sẽ thoải mái hơn khi ở đây. Tôi chỉ muốn nói rằng: xin đừng tìm cách tự sát, vì chúng tôi sẽ trông chừng anh. Sẽ có người ở ngay ngoài cửa để ngăn anh lại, và sau đó anh sẽ phải mặc bộ áo tù nhân ở trong căn phòng giam bẩn thỉu tầng dưới. Nếu anh bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng, hãy nhấc điện thoại và bảo họ đến tìm tôi. Đừng chịu đựng trong im lặng.”

Anh ta chạm khẽ lên chiếc laptop đặt trên bàn.

“Nó chứa đựng nghiên cứu của anh suốt mười lăm năm qua. Thậm chí từ trước khi anh làm ở Phòng Thí nghiệm Vận tốc. Không có mật khẩu đâu. Hãy tự do khám phá nhé. Có lẽ nó sẽ giúp anh mở khóa được bí mật nào đó.” Trên đường ra, anh ta ngoái lại và nói: “Nhân tiện, cửa này sẽ bị khóa.” Anh ta mỉm cười. “Vì sự an toàn của chính anh thôi.”

Tôi ngồi lên giường cùng chiếc laptop, cố gắng tiếp nhận lượng thông tin khổng lồ chứa trong hàng chục ngàn thư mục trong này.

Dữ liệu được sắp xếp theo từng năm, và có những thông tin từ trước khi tôi giành được giải Pavia, từ thời tôi còn đi học, khi dấu hiệu đầu tiên cho tham vọng của cuộc đời tôi bắt đầu lộ diện.

Các thư mục thời kỳ đầu chứa đựng các nghiên cứu mà tôi thấy khá quen thuộc - các bản nháp sau này trở thành tác phẩm được xuất bản đầu tiên của tôi, phần tóm tắt từ các bài báo liên quan, mọi thứ dần dẫn đến những phần việc của tôi trong phòng thí nghiệm của Đại học Chicago và việc tạo dựng khối lập phương nhỏ bé đầu tiên.

Các dữ liệu phòng sạch được sắp xếp rất tỉ mỉ.

Tôi đọc các tập tin trên máy đến khi mắt bắt đầu hoa lên, nhưng vẫn tiếp tục đọc, theo dõi nghiên cứu của tôi tiến xa hơn giới hạn của chính nó trong phiên bản cuộc đời của tôi.

Cứ như thể tôi đã quên mọi thứ về bản thân và sau đó đọc lại tiểu sử của chính mình.

Tôi đã nghiên cứu hằng ngày.

Các ghi chép của tôi ngày một tốt hơn, kĩ càng và cụ thể hơn.

Nhưng tôi vẫn loay hoay tìm cách tạo ra sự chồng chập cho đĩa vĩ mô của tôi, nỗi thất vọng và tuyệt vọng bắt đầu hiện lên trong các ghi chép của tôi.

Tôi không thể mở mắt thêm nữa.

Sau khi với tay tắt đèn trên chiếc bàn cạnh giường, tôi kéo chăn lên.

Căn phòng giờ tối đen như mực.

Điểm sáng duy nhất trong phòng là một chấm xanh tít trên bức tường đối diện với chiếc giường của tôi.

Nó là một chiếc camera ghi hình ban đêm.

Ai đó đang theo dõi từng bước đi, từng hơi thở của tôi.

Tôi nhắm mắt lại, cố gắng quên đi điều đó.

Nhưng tôi lại nhìn thấy thứ vẫn ám ảnh tôi mỗi khi tôi nhắm mắt lại: Dòng máu chảy xuống mắt cá chân, ngang qua đôi bàn chân trần của Daniela.

Hố sâu giữa hai mắt cô.

Vết thương lòng trong tôi lại dễ dàng rạn nứt.

Và rồi tan nát.

Trong bóng tối, tôi chạm vào sợi chỉ buộc trên ngón nhẫn của mình và tự nhắc nhở bản thân rằng cuộc đời kia của tôi mới là thật, rằng nó vẫn còn ở đâu đó ngoài kia.

Giống như khi ta đứng trên bãi biển lúc thủy triều cuốn lớp cát dưới chân ra biển, tôi có thể cảm nhận thế giới của tôi và thực tại đi cùng nó đang bị cuốn dần đi.

Tôi tự hỏi: Nếu tôi không đủ sức chống lại nó, liệu thực tại này có từ từ ngấm vào và nuốt chửng tôi không?

Tôi choàng tỉnh.

Ai đó đang gõ cửa.

Tôi bật đèn và nhảy ra khỏi giường, đầu óc lơ mơ, không biết tôi đã ngủ mất bao lâu.

Tiếng gõ cửa ngày một to hơn.

Tôi nói: “Chờ tôi chút!”

Tôi tìm cách mở cửa, nhưng nó đã bị khóa từ bên ngoài.

Tôi nghe tiếng chốt đẩy ra.

Rồi cửa bật mở.

Phải mất một lúc tôi mới nhận ra tôi đã từng gặp người phụ nữ mặc chiếc váy liền thân màu đen này khi nào và ở đâu. Cô ta đứng ngoài hành lang, cầm theo hai cốc cà phê và kẹp một cuốn sổ dưới cánh tay. Rồi tôi nhận ra - ngay đúng lúc này. Cô ta đã chủ trì, hoặc cố gắng để điều hành, buổi phỏng vấn kỳ quái vào cái đêm mà tôi tỉnh lại bên ngoài chiếc hộp.

“Jason, chào anh. Tôi là Amanda Lucas.”

“Vâng, phải rồi.”

“Xin lỗi, tôi không muốn cứ thế mà xông vào.”

“Không sao đâu.”

“Anh có chút thời gian để trò chuyện chứ?”

“Ừm, chắc chắn rồi.”

Tôi để cô ta vào và đóng cửa lại.

Tôi kéo ghế ra khỏi bàn để cô ta ngồi.

Cô ta giơ một chiếc cốc lên. “Tôi mang cà phê đến, nếu anh muốn uống.”

“Tốt quá.” Tôi đỡ lấy chiếc cốc. “Cảm ơn.”

Tôi ngồi xuống mép giường.

Cốc cà phê ấm nóng trong tay tôi.

Cô nói: “Họ có loại cà phê sô cô la hạt dẻ, nhưng anh thích cà phê đen thông thường thôi, đúng không?”

Tôi nhấp một ngụm. “Vâng, thế này là ngon rồi.”

Cô nhấm nháp cốc cà phê của mình, rồi nói: “Chuyện này hẳn rất kỳ cục đối với anh.”

“Cũng có thể nói như vậy.”

“Leighton đã nói là tôi sẽ đến nói chuyện với anh chứ?”

“Đúng vậy.”

“Tốt rồi. Tôi là bác sĩ tâm lý ở đây. Tôi đã ở đây gần chín năm. Tôi có đầy đủ các chứng chỉ của hội đồng chuyên khoa. Từng điều hành một phòng khám riêng trước khi gia nhập Phòng Thí nghiệm Vận tốc. Anh không phiền nếu tôi hỏi vài câu chứ?”

“Vâng.”

“Anh có nói với Leighton...” Cô ta mở cuốn sổ ra. “Trích nguyên câu nhé: “Mười năm qua... trong đầu tôi giờ chỉ là một khoảng trống.” Đúng chứ?”

“Đúng.”

Cô ta ghi chép lại điều gì đó bằng bút chì lên giấy.

“Jason, gần đây anh có trải qua hoặc chứng kiến một sự kiện nguy hiểm và gây ra nỗi sợ hãi ghê gớm, cảm giác vô vọng, hay kinh hoàng nào không?”

“Tôi đã thấy Daniela Vargas bị bắn vào đầu ngay trước mắt tôi.”

“Anh nói gì vậy?”

“Các người đã giết... người phụ nữ mà tôi đến gặp. Ngay trước khi tôi bị đưa về đây.” Trông Amanda thật sự kinh ngạc. “Khoan nào. Cô không biết gì về việc đó ư?”

Cô nuốt khan rồi lấy lại bình tĩnh.

“Chuyện đó chắc là kinh khủng lắm, anh Jason.” Cô ta nói như thể không tin tôi.

“Cô nghĩ tôi bịa ra sao?”

“Tôi muốn biết anh có nhớ bất cứ điều gì về bản thân chiếc hộp, hay những chuyến đi của anh trong mười bốn tháng qua không.”

“Như tôi đã nói, tôi chẳng nhớ gì cả.”

Cô ta lại ghi chép, và nói: “Một điều đáng chú ý, và có lẽ anh không nhớ điều này... nhưng trong buổi phỏng vấn ngắn ngủi đó, anh nói rằng ký ức cuối cùng của anh là ở trong một quán bar ở Quảng trường Logan.”

“Tôi không nhớ đã từng nói như vậy. Lúc đó tôi khá là lơ mơ.”

“Tất nhiên rồi. Vậy là không có ký ức gì về chiếc hộp. Được rồi, những câu tiếp theo đây sẽ là câu hỏi trả lời Có hoặc Không. Anh có bị khó ngủ không?”

“Không.”

“Mức độ cáu kỉnh hay giận dữ có tăng lên không?”

“Không hẳn.”

“Có bị khó tập trung?”

“Tôi không nghĩ là như vậy.”

“Anh có bị tăng cảnh giác không?”

“Có.”

“Được rồi. Anh có nhận ra anh hay bị hoảng hốt một cách thái quá không?”

“Tôi... không biết chắc.”

“Đôi khi, một tình huống căng thẳng cực độ có thể dẫn đến chứng mất trí nhớ tâm thần, đó là chức năng bộ nhớ bất thường trong trường hợp không có tổn thương cấu trúc não. Tôi có cảm giác ta sẽ loại bỏ được mọi khả năng tổn thương cấu trúc sau khi chụp MRI ngày hôm nay. Điều đó có nghĩa là ký ức của anh trong mười bốn tháng qua vẫn còn đó. Chúng chỉ bị chôn sâu trong tâm trí của anh. Công việc của tôi là giúp anh tìm lại chúng.”

Tôi nhấp ngụm cà phê. “Chính xác là bằng cách nào?”

“Có nhiều phương án điều trị mà ta có thể thử nghiệm. Tâm lý trị liệu, trị liệu nhận thức, trị liệu sáng tạo. Kể cả thôi miên lâm sàng. Tôi chỉ muốn anh biết rằng, đối với tôi, không có gì quan trọng hơn việc giúp anh vượt qua chuyện này.”

Amanda nhìn xoáy vào mắt tôi với sự tập trung đáng sợ và bất ngờ, dò xét như thể các bí ẩn về sự sống của chúng tôi đều được viết trên giác mạc của tôi.

“Anh thực sự không nhận ra tôi sao?” Cô hỏi.

“Không.”

Cô đứng lên và cầm theo các vật dụng của mình.

“Leighton sẽ sớm lên đây và đưa anh đi chụp MRI. Jason, tôi chỉ muốn giúp anh bằng mọi cách có thể. Nếu anh không nhớ ra tôi thì cũng không sao. Chỉ cần biết rằng tôi là bạn của anh. Mọi người ở nơi này đều là bạn của anh. Chúng tôi ở đây là nhờ có anh. Tất cả chúng tôi đều mặc định là anh biết điều đó, vì vậy hãy nghe tôi nói: Chúng tôi rất nể phục anh, nể phục bộ óc của anh, cũng như thứ mà anh đã tạo ra.”

Cô ta dừng lại khi ra tới cửa và quay lại nhìn tôi.

“Tên người phụ nữ đó là gì nhỉ? Người mà anh nghĩ là đã nhìn thấy bị giết ấy.”

“Không phải tôi nghĩ là mình đã nhìn thấy, mà tôi đã thấy thật. Và tên cô ấy là Daniela Vargas.”

Tôi dành thời gian còn lại của buổi sáng ngồi bên bàn, ăn bữa sáng và xem lại những tệp tin đã lưu giữ các thành tựu khoa học của tôi mà tôi không hề có chút ký ức nào về chuyện đó.

Mặc dù hoàn cảnh hiện tại của tôi không mấy dễ chịu, khi đọc những ghi chú của mình, thấy chúng có tiến triển ngày một gần hơn với đột phá của tôi về khối lập phương thu nhỏ, tôi cảm thấy thật phấn chấn.

Chính là giải pháp tạo ra trạng thái chồng chập cho chiếc đĩa của tôi phải không?

Các qubit[36] siêu dẫn gắn với một chùm cộng hưởng có khả năng phát hiện được các trạng thái đồng thời dưới dạng sóng. Nghe thì tẻ nhạt vô cùng, nhưng lại mang tính đột phá.

Nó đã mang về cho tôi giải Pavia.

Và dường như chính nó đã đưa tôi đến với công việc này.

Mười năm trước, vào ngày đầu tiên nhận việc ở Phòng Thí nghiệm Vận tốc, tôi đã viết một bản thông cáo sứ mệnh đáng nhớ dành cho cả nhóm, giúp họ nhanh chóng nắm được các khái niệm trong cơ học lượng tử và đa vũ trụ.

Có một đoạn bàn về các chiều kích của không gian và thời gian đã đặc biệt khiến tôi chú ý.

Tôi đã viết như sau:

Chúng ta tiếp nhận môi trường sống của ta theo ba chiều, nhưng ta không thực sự sống trong một thế giới ba chiều. Ba chiều chỉ mang tính tĩnh. Một bức ảnh chụp chớp nhoáng. Ta phải thêm chiều thứ tư để có thể bắt đầu mô tả bản chất sự tồn tại của chúng ta.

Khối lập phương bốn chiều không gắn thêm một chiều không gian.

Nó chỉ gắn thêm một chiều thời gian.

Nó gắn thêm thời gian, một dòng các khối lập phương ba chiều, đại diện cho không gian khi nó di chuyển dọc mũi tên của thời gian.

Có thể miêu tả điều này rõ nhất bằng cách nhìn lên bầu trời đêm, nhìn những vì sao mà ánh sáng của chúng phải mất năm mươi năm ánh sáng để đến được tới mắt người. Hoặc là năm trăm, thậm chí năm tỉ năm. Chúng ta không chỉ đang nhìn vào không gian, mà còn đang nhìn ngược dòng thời gian.

Con đường mà ta đi qua không-thời gian bốn chiều này là đường vũ trụ (thực tại) của ta, khởi đầu từ khi ta sinh ra, và kết thúc khi ta chết.

Bốn tọa độ (x, y, z, và t [thời gian]) sẽ định vị một điểm trong bốn chiều của khối lập phương.

Và chúng ta nghĩ rằng nó dừng ở đó, nhưng điều đó chỉ đúng nếu mỗi kết quả là điều chắc chắn xảy ra, nếu tự do về mặt ý chí chỉ là một ảo ảnh, và đường vũ trụ của ta là duy nhất.

Sẽ ra sao nếu đường vũ trụ của ta chỉ là một trong vô số đường vũ trụ, và một số đường vũ trụ chỉ thay đổi so với cuộc đời mà ta biết một chút, số còn lại thì khác biệt đáng kể?

Diễn giải Thế giới phân nhánh trong cơ học lượng tử cho rằng mọi hiện thực khả thi đều tồn tại. Rằng mọi thứ có cơ may xảy ra đều đang xảy ra. Mọi thứ có thể đã xảy ra trong quá khứ của ta đều đã xảy ra, chỉ là trong một vũ trụ khác.

Nếu như điều đó là thật thì sao?

Nếu ta thực sự sống trong một không gian xác suất năm chiều thì sao?

Nếu ta thực sự sống trong một đa vũ trụ, nhưng não ta lại tiến hóa theo cách nào đó để tạo ra một bức tường lửa, giới hạn những gì ta nhận thức trong một vũ trụ duy nhất, một đường vũ trụ duy nhất thì sao? Thứ vũ trụ mà ta chọn, hết khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác. Nếu bạn nghĩ kĩ thì nó cũng có lý đấy. Ta không thể nào quan sát đồng thời mọi thực tại khả thi cùng một lúc.

Vậy làm cách nào để ta tiếp cận được không gian xác suất năm chiều này?

Và nếu ta có thể, thì nó sẽ dẫn ta đến đâu?

Leighton cuối cùng cũng đến tìm tôi vào buổi tối.

Lần này chúng tôi đi thang bộ, nhưng thay vì đến thẳng bệnh xá, chúng tôi lại rẽ vào tầng hầm số hai.

“Kế hoạch thay đổi một chút.” Anh ta nói với tôi.

“Không chụp MRI sao?”

“Chưa phải bây giờ.”

Anh ta dẫn tôi vào một nơi tôi từng đến - phòng hội nghị, nơi Amanda Lucas cố phỏng vấn tôi vào cái đêm mà tôi tỉnh dậy bên ngoài chiếc hộp.

Ánh sáng đã được giảm bớt.

Tôi hỏi: “Có chuyện gì thế?”

“Anh ngồi đi, Jason.”

“Tôi không hiểu...”

“Ngồi đi.”

Tôi kéo một chiếc ghế ra.

Leighton ngồi đối diện tôi.

Anh ta nói: “Tôi nghe nói anh đang xem lại những tệp tin cũ.”

Tôi gật đầu.

“Có nhớ thêm nhiều không?”

“Không hẳn.”

“Tệ quá nhỉ! Tôi hy vọng khi thăm lại mạch ký ức, anh sẽ nhớ ra điều gì đó.”

Anh ta ngồi thẳng dậy.

Chiếc ghế của anh ta kêu lên kẽo kẹt.

Ở đây yên tĩnh đến nỗi tôi nghe được tiếng những bóng đèn kêu rè rè bên trên.

Phía bên kia bàn, anh ta vẫn quan sát tôi.

Có điều gì đó không ổn.

Không đúng.

Leighton nói: “Bố tôi đã lập ra Phòng Thí nghiệm Vận tốc này bốn mươi lăm năm trước. Vào thời đó, mọi việc đều khác. Chúng tôi đã chế tạo động cơ phản lực và tuốc bin phản lực cánh quạt. Rồi chúng tôi coi trọng việc giữ các hợp đồng lớn của chính phủ và các doanh nghiệp hơn là khám phá các công nghệ tiên tiến. Bây giờ, công ty chỉ có hai mươi ba người, nhưng có một điều không hề thay đổi. Công ty này luôn là một gia đình, và huyết mạch của ta là lòng tin tuyệt đối.”

Anh ta quay lưng lại phía tôi và gật đầu.

Các bóng đèn sáng rực lên.

Tôi có thể nhìn xuyên qua lớp kính mờ vào phòng dự thính. Bên đó chật ních người, có khoảng mười lăm đến hai mươi nhân viên, giống hệt cái đêm đầu tiên đó.

Nhưng không có ai đứng lên và vỗ tay cả.

Không ai mỉm cười.

Họ đều đang nhìn tôi.

Ánh nhìn dữ dằn.

Căng thẳng.

Tôi nhận thấy cơn hoảng loạn đang lăm le nhào đến từ xa.

“Sao mọi người đều ở đây?” Tôi hỏi.

“Tôi đã nói với anh, chúng ta là một gia đình. Chúng tôi cùng nhau giải quyết những hậu quả của mình.”

“Tôi không hiểu...”

“Anh đang nói dối, Jason. Anh không phải người như anh nói. Anh không phải là một trong số chúng tôi.”

“Tôi đã giải thích rằng...”

“Tôi biết, anh không nhớ gì về chiếc hộp. Mười năm vừa qua chỉ là một hố đen trong đầu anh.”

“Chính xác.”

“Anh muốn giữ nguyên lý lẽ đó chứ?”

Leighton mở chiếc laptop trên bàn lên và gõ gõ gì đó.

Anh ta dựng thẳng nó lên, gõ vào màn hình cảm ứng.

“Chuyện này là sao?” Tôi hỏi. “Có chuyện gì thế?”

“Ta sẽ hoàn thành những gì ta đang làm dở cái đêm mà anh trở về. Tôi sẽ đặt câu hỏi, và lần này, anh sẽ phải trả lời.”

Tôi đứng dậy và tiến về phía cửa, tìm cách mở nó ra. Nó đã bị khóa.

“Ngồi xuống!”

Giọng của Leighton vang như một tiếng súng nổ.

“Tôi muốn rời khỏi đây.”

“Còn tôi muốn anh bắt đầu nói ra sự thật.”

“Tôi đã nói sự thật với anh.”

“Không, anh nói sự thật với Daniela Vargas thì đúng hơn.”

Ở phía bên kia lớp kính, một cánh cửa mở ra và một người đàn ông loạng choạng đi vào phòng dự thính, phía sau là một gã bảo vệ đang tóm chặt lấy gáy anh ta.

Người đàn ông kia bị ép mặt vào lớp kính.

Chúa ơi!

Mũi của Ryan có vẻ đã bị biến dạng, còn một mắt thì nhắm lại hoàn toàn.

Máu từ khuôn mặt sưng to và đầy vết bầm dập của cậu ta dính lên khắp mặt kính.

“Anh cũng kể cho Ryan Holder sự thật.” Leighton nói.

Tôi lao về phía Ryan và gọi tên cậu ta.

Cậu ta cố gắng đáp lời, nhưng tôi không nghe được gì qua lớp rào chắn.

Tôi nhìn xuống Leighton.

Anh ta nói: “Ngồi xuống, không tôi sẽ gọi người vào đây và trói anh vào ghế đấy.”

Cơn giận lúc trước ùn ùn kéo về trong tôi. Gã này phải chịu trách nhiệm cho cái chết của Daniela. Và giờ là cả việc này. Tôi tự hỏi mình có thể gây ra tổn thương ở mức nào trước khi họ kéo tôi ra xa khỏi gã.

Nhưng tôi ngồi xuống.

Tôi hỏi: “Anh đã truy lùng cậu ấy sao?”

“Không, Ryan đến tìm tôi, do quá rối trí trước những điều anh đã kể trong căn hộ của Daniela. Chính là những điều tôi muốn nghe lúc này.”

Khi tôi thấy mấy gã bảo vệ ép Ryan ngồi lên một chiếc ghế ở hàng đầu, tôi chợt nhận ra - Ryan đã chế ra mảnh ghép còn thiếu để làm cho chiếc hộp hoạt động. Thứ “hợp chất” mà cậu ta đã nói đến trong buổi triển lãm nghệ thuật sắp đặt của Daniela. Nếu bộ não người đã ngăn chúng ta nhận biết trạng thái lượng tử của chính mình, thì xem ra lại có một loại thuốc có thể vô hiệu hóa cơ chế này - chính là “bức tường lửa” mà tôi đã viết trong thông cáo sứ mệnh của mình.

Ryan ở thế giới của tôi đã nghiên cứu thùy não và vai trò của nó trong việc tạo ra ý thức. Cũng không quá vô lý khi nghĩ rằng Ryan ở thực tại này có thể đã tạo ra một loại thuốc thay đổi cách não bộ của chúng ta nhận thức thực tại, ngăn chúng ta khỏi việc phục hồi tách sóng môi trường của chúng ta và khiến ta không thể làm sụp đổ các hàm sóng của mình.

Tôi vụt trở lại với hiện thực lúc này.

“Sao anh lại đánh anh ta?” Tôi hỏi.

“Anh nói với Ryan rằng anh là một giáo sư ở đại học Lakemont, rằng anh có một đứa con trai và rằng Daniela Vargas thực ra là vợ anh. Anh nói với anh ta rằng anh đã bị bắt cóc vào một đêm khi đang đi bộ về nhà, và sau đó thức dậy ở đây. Anh nói với anh ta đây không phải là thế giới của anh. Anh có thừa nhận đã nói những điều này không?”

Tôi lại tự hỏi mình có thể gây ra tổn thương cho hắn nhiều đến đâu trước khi ai đó lôi tôi đi. Liệu tôi có thể đấm vỡ mũi hắn? Đánh bay vài chiếc răng? Hay là giết hắn luôn?

Giọng tôi đã biến thành âm thanh gần như gầm gừ. “Mày đã giết người phụ nữ tao yêu, chỉ vì cô ấy đã nói chuyện với tao. Mày đánh bạn của tao. Mày đang giam giữ tao ở đây một cách cưỡng ép. Và mày muốn tao trả lời câu hỏi của mày sao? Mẹ kiếp!” Tôi nhìn chằm chằm qua lớp kính. “Tất cả lũ chúng mày đi chết đi.”

Leighton nói: “Có thể anh không phải là Jason mà tôi biết và yêu mến. Có thể anh chỉ là một cái bóng của anh ta, với một mảnh tham vọng và trí tuệ của anh ấy, nhưng chắc chắn anh trả lời được câu hỏi này: Nếu cái hộp hoạt động thì sao? Vậy nghĩa là chúng ta đang ngồi trên bước đột phá khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại, với các ứng dụng mà chúng ta còn chưa thăm dò hết được, vậy mà anh lại ngồi đôi co chuyện chúng tôi dùng những biện pháp cực đoan để bảo vệ thành quả ấy sao?”

“Tao muốn đi khỏi đây.”

“Anh muốn đi à? Hừm. Hãy nhớ kĩ tất cả những gì tôi vừa nói, và hãy cân nhắc đến việc anh là người duy nhất đã trở về thành công. Anh đã sở hữu những kiến thức quan trọng mà chúng tôi đã đầu tư hàng tỉ đô la và mười năm trong đời để cố gắng có được. Tôi không nói điều này để khiến anh sợ, mà để khơi gợi suy luận logic trong anh - anh có nghĩ rằng có bất cứ điều gì chúng tôi không dám làm để trích xuất được thông tin đó từ anh không?”

Hắn ta để câu hỏi treo lơ lửng ở đó.

Trong cái yên lặng đến khắc nghiệt ấy, tôi nhìn về phía bên kia phòng dự thính.

Tôi nhìn Ryan.

Tôi nhìn Amanda. Cô không chịu nhìn lại. Mắt cô đã ngân ngấn nước, nhưng hàm cô thì nghiến chặt, như thể cô đang chống chọi hết sức để ngăn mình vỡ òa trong cảm xúc.

“Tôi muốn anh nghe cho thật kĩ.” Leighton nói. “Ngay tại đây, lúc này, trong căn phòng này - anh đang có điều kiện có lợi nhất cho mình. Tôi muốn anh cố hết sức để tận dụng thời khắc này. Giờ thì nhìn tôi đây.”

Tôi nhìn hắn ta.

“Anh có tạo ra chiếc hộp kia không?”

Tôi không nói gì.

“Anh có tạo ra chiếc hộp không?”

Vẫn im lặng.

“Anh đến từ đâu?”

Những ý nghĩ của tôi đổ đi mọi hướng, bày ra mọi kịch bản khả thi - kể cho họ mọi điều tôi biết, hoặc không kể gì cho họ, hoặc kể một điều gì đó. Nhưng nếu vậy thì cụ thể là điều gì?

“Đây có phải là thế giới của anh không, Jason?”

Động lực tình thế của tôi về mặt bản chất vẫn không đổi. Sự an nguy của tôi vẫn phụ thuộc vào giá trị sử dụng của tôi. Chừng nào họ còn muốn thứ gì đó từ tôi, tôi vẫn còn tác dụng. Nếu tôi kể hết cho họ mọi điều tôi biết, quyền lực của tôi sẽ biến mất.

Tôi ngước lên khỏi mặt bàn và nhìn vào mắt Leighton.

Tôi nói: “Tôi sẽ không nói chuyện với anh lúc này.”

Hắn ta thở dài.

Rồi xoay xoay khớp cổ.

Rồi không nhắm đến một ai cụ thể, hắn nói: “Tôi đoán vậy là chúng ta xong việc ở đây rồi.”

Cánh cửa phía sau tôi mở ra.

Tôi xoay người lại, nhưng trước khi kịp nhìn ra đó là ai, tôi đã bị nhấc bổng khỏi ghế và đè nghiến xuống sàn.

Ai đó ngồi lên trên lưng tôi, đầu gối gã chặn vào xương sống của tôi.

Họ giữ chặt đầu tôi trong khi một đầu kim xuyên vào cổ tôi.

Tôi tỉnh lại trên một tấm đệm mỏng và cứng quen thuộc với tôi đến phát ngán.

Dù họ đã tiêm loại thuốc gì cho tôi, nó cũng để lại dư âm thật khủng khiếp - cảm giác như có một vết nứt ở giữa hộp sọ của tôi.

Có giọng nói thì thầm bên tai tôi.

Tôi gượng ngồi dậy, nhưng chỉ một cử động nhỏ nhất cũng đẩy cơn đau trong đầu tôi lên một mức độ khác dữ dội hơn.

“Jason?”

Tôi biết giọng nói này.

“Ryan.”

“Chào cậu.”

“Chuyện gì đã xảy ra thế?” Tôi hỏi.

“Họ mang cậu vào đây một lúc trước.”

Tôi gắng sức mở mắt ra.

Tôi đã trở lại nằm trên chiếc giường bằng khung thép trong phòng giam, và Ryan đang quỳ xuống bên cạnh tôi.

Khi nhìn gần, tình trạng của cậu ấy còn tệ hơn.

“Jason, tớ xin lỗi.”

“Cậu không có lỗi gì cả.”

“Không đâu, những gì Leighton nói là thật. Sau khi từ biệt cậu và Daniela đêm đó, tớ đã gọi cho anh ta. Nói rằng tớ đã thấy cậu. Và cho anh ta biết địa điểm.” Ryan nhắm con mắt còn nguyên vẹn lại, mặt cậu ta nhăn nhúm khi nói: “Tớ đâu biết là họ sẽ làm hại cô ấy.”

“Sao cậu lại bị đưa về phòng thí nghiệm?”

“Tớ đoán là cậu không khai ra thứ họ muốn, nên họ đến tìm tớ vào nửa đêm. Cậu có ở đó khi cô ấy chết không?”

“Chuyện đó xảy ra ngay trước mắt tớ. Một gã xông vào căn hộ và bắn vào giữa trán cô ấy.”

“Chúa ơi!”

Trèo vào bên trong lồng, cậu ta ngồi xuống cạnh tôi, cả hai cùng dựa lưng vào bức tường bê tông lạnh lẽo.

Cậu ấy nói: “Tớ nghĩ nếu tớ nói với họ những gì cậu kể với tớ và Daniela, cuối cùng họ cũng sẽ cho tớ một chân trong vụ nghiên cứu. Thưởng cho tớ bằng cách nào đó. Nhưng họ chỉ đánh tớ. Và cáo buộc tớ không kể cho họ tất cả mọi điều.”

“Tớ xin lỗi.”

“Cậu đã giữ bí mật với tớ. Tớ thậm chí còn không biết nơi này là như thế nào. Tớ đã làm tất cả những việc đó cho cậu và Leighton, nhưng cậu...”

“Tớ không giữ bí mật với cậu về việc gì cả, Ryan. Người đó không phải là tớ.”

Cậu ta quay sang nhìn tôi, như thể đang cố gắng hình dung ra ý nghĩa thực sự của câu nói đó.

“Vậy những gì cậu kể ở nhà Daniela đều là thật sao?”

Tôi ghé sát vào cậu ta, thì thầm: “Đúng từng chữ luôn. Cậu nói nhỏ thôi. Có khi họ đang nghe lén đấy.”

“Làm sao cậu đến được đây?” Ryan thì thầm lại. “Vào thế giới này ấy?”

“Ngay bên ngoài phòng giam này, có một nhà xưởng máy bay, và trong nhà xưởng đó, có một hộp bằng kim loại mà phiên bản kia của tớ đã chế tạo ra.”

“Vậy cái hộp đó có công dụng gì?”

“Theo tớ tìm hiểu được thì nó là một cửa ngõ dẫn vào đa vũ trụ.”

Cậu ta nhìn tôi như thể tôi bị điên. “Làm sao có thể như vậy được?”

“Cậu chỉ cần nghe tớ nói thôi. Vào cái đêm tớ trốn thoát khỏi nơi này, tớ đã đến một bệnh viện. Họ xét nghiệm độc tố cho tớ, và kết quả là họ tìm thấy dấu vết của một hợp chất thần kinh bí ẩn. Khi tớ thấy cậu ở bữa tiệc của Daniela, cậu đã hỏi tớ rằng “hợp chất” có hiệu quả không. Chính xác thì cậu đã chế ra thứ gì cho tớ?”

“Cậu đã nhờ tớ chế một loại thuốc tạm thời thay đổi chức năng của các chất hóa học trong não ở ba vùng Brodmann[37] của thùy trán. Tớ đã mất bốn năm. Ít nhất cậu cũng trả công tớ hậu hĩnh.”

“Thay đổi như thế nào?”

“Tạm thời vô hiệu hóa chúng trong một thời gian. Tớ không biết cậu dùng nó vào việc gì.”

“Cậu hiểu về khái niệm nằm sau lý thuyết con mèo của Schrödinger chứ?”

“Có chứ.”

“Và cái cách mà việc quan sát sẽ định đoạt một thực tại?”

“Ừ.”

“Phiên bản kia của tớ đã tìm cách đưa một con người vào trạng thái chồng chập lượng tử. Về lý thuyết là không thể, vì ý thức của ta và thế lực quan sát sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Nhưng nếu có một cơ chế nào đó trong não chịu trách nhiệm về hiệu ứng người quan sát[38]...”

“Cậu muốn tắt nó đi.”

“Chính xác.”

“Vậy là thứ thuốc của tớ ngăn ta phục hồi tách sóng?”

“Tớ nghĩ vậy.”

“Nhưng nó không ngăn được người khác phục hồi tách sóng của chúng ta. Nó không ngăn cản tác động từ hiệu ứng người quan sát của họ định đoạt thực tại của ta.”

“Vậy nên đây là lúc dùng đến cái hộp.”

“Khỉ thật! Vậy là cậu đã tìm ra cách biến con người thành một con mèo sống và chết cùng lúc. Chuyện đó... thật đáng sợ.”

Cửa buồng được tháo chốt và bật mở.

Cả hai chúng tôi cùng ngước lên và thấy Leighton đứng ở bậu cửa, xung quanh là mấy gã bảo vệ - hai gã trung niên mặc áo phông polo bó cực sát, sơ vin trong quần bò, và cơ bắp đã có phần xuống cấp.

Tôi có cảm giác đối với họ, bạo lực là một phần của công việc.

Leighton cất tiếng: “Ryan, anh vui lòng đi với chúng tôi chứ?”

Ryan ngần ngừ.

“Kéo anh ta ra khỏi lồng.”

“Tôi đi đây.”

Ryan đứng dậy và bước khập khiễng ra phía cửa.

Mỗi gã bảo vệ khoác một tay và kéo cậu ta đi mất, nhưng Leighton thì ở lại.

Hắn ta nhìn tôi.

“Đây không còn là tôi nữa, Jason. Tôi ghét chuyện này. Tôi ghét phải trở thành con quái vật chỉ vì anh buộc tôi phải làm thế. Chuyện gì xảy ra tiếp theo, đó không phải là lựa chọn của tôi, mà là của anh.”

Tôi nhảy khỏi giường và lao về phía Leighton, nhưng hắn ta đóng sập cửa trước mặt tôi.

Họ tắt hết đèn trong phòng.

Tất cả những gì tôi thấy là đốm xanh sáng lên từ chiếc camera theo dõi tôi ở phía trên cánh cửa.

Tôi ngồi trong bóng tối, nghĩ lại cái cách tôi rơi vào quỹ đạo va chạm với khoảnh khắc này, kể từ lúc tôi nghe thấy tiếng bước chân vội vã lao tới phía sau lưng tôi, gần khu nhà tôi ở, trong thế giới của tôi, năm ngày trước.

Kể từ lúc tôi thấy chiếc mặt nạ geisha và một khẩu súng, rồi nỗi sợ hãi và hoang mang trở thành những ngôi sao duy nhất sáng lên trong bầu trời của tôi.

Vào thời khắc này, chẳng còn suy nghĩ logic nào nữa.

Không còn tâm trí giải quyết vấn đề.

Không còn phương pháp khoa học nào nữa.

Tôi chỉ đơn giản cảm thấy tuyệt vọng, đau lòng, sợ hãi, và ngấp nghé cảm giác chỉ muốn mọi chuyện kết thúc.

Tôi đã chứng kiến tình yêu của đời tôi bị sát hại ngay trước mắt.

Người bạn cũ của tôi rất có thể đang bị tra tấn trong lúc tôi ngồi đây.

Và không nghi ngờ gì nữa, những người kia sẽ bắt tôi phải chịu đau đớn trước khi tôi được chết.

Tôi rất sợ hãi.

Tôi nhớ Charlie.

Tôi nhớ Daniela.

Tôi nhớ ngôi nhà đá nâu đã có phần xập xệ mà tôi vẫn chưa có tiền để cải tạo một cách tử tế.

Tôi nhớ chiếc xe Suburban đã lỗi thời của chúng tôi.

Tôi nhớ phòng làm việc ở trường đại học của tôi.

Những sinh viên của tôi.

Tôi nhớ cuộc đời thuộc về tôi.

Và ở đó, trong bóng tối, như thể sợi dây tóc bóng đèn lóe sáng, sự thật tìm đến với tôi.

Tôi nghe thấy giọng kẻ đã bắt cóc tôi, có phần quen thuộc, hỏi những câu hỏi về cuộc đời tôi.

Công việc của tôi.

Vợ tôi.

Xem tôi có bao giờ gọi cô ấy là “Dani” không.

Hắn ta biết Ryan Holder là ai.

Lạy Chúa!

Hắn đưa tôi đến một nhà máy điện bỏ hoang.

Đánh thuốc tôi.

Hỏi tôi những câu hỏi về cuộc sống của tôi.

Lấy điện thoại, quần áo của tôi.

Chết tiệt!

Sự thật đang nhìn thẳng vào mặt tôi.

Trái tim tôi run lên vì giận dữ.

Hắn đã làm những việc này để chiếm lấy vị trí của tôi.

Để hắn có được cuộc đời thuộc về tôi.

Người phụ nữ tôi yêu.

Con trai tôi.

Công việc của tôi.

Ngôi nhà của tôi.

Bởi vì hắn chính là tôi.

Gã Jason kia, người đã chế ra cái hộp - hắn đã làm điều này với tôi.

Khi chấm đèn xanh của camera giám sát tắt đi, tôi nhận ra rằng ở một mức độ nào đó, tôi đã biết điều này từ lần đầu tôi thấy chiếc hộp.

Tôi chỉ không dám nhìn thẳng vào sự thật.

Tại sao lại không?

Việc bị lạc trong một thế giới không thuộc về mình là một chuyện.

Nhưng việc biết được ta đã bị thay thế trong thế giới của mình lại là chuyện hoàn toàn khác.

Rằng một phiên bản tốt hơn của ta đã bước vào cuộc đời ta.

Hắn thông minh hơn tôi, chuyện đó khỏi bàn cãi.

Liệu hắn có phải là một người bố tốt hơn với Charlie?

Một người chồng tốt hơn với Daniela?

Một người tình tốt hơn?

Hắn đã làm chuyện này với tôi.

Không.

Chuyện còn tồi tệ hơn thế.

Chính tôi đã làm việc này với tôi.

Khi nghe tiếng chốt cửa rút ra, theo bản năng, tôi thu mình lại trong góc tường.

Đến lúc rồi.

Họ đã đến tìm tôi.

Cánh cửa từ từ mở ra, để lộ bóng một người đứng ở ngưỡng cửa, quay lưng về phía ánh sáng đằng xa.

Người đó bước vào và đóng cánh cửa lại phía sau lưng.

Tôi không nhìn rõ gì cả.

Nhưng tôi có thể ngửi thấy mùi cô ta - mùi hương của nước hoa và sữa tắm.

“Amanda?”

Cô thì thầm: “Nói nhỏ thôi.”

“Ryan đâu?”

“Anh ta đi rồi.”

“Ý cô là sao, đi đâu?”

Giọng cô nghe như suýt khóc, sắp vỡ òa. “Họ giết anh ấy rồi. Tôi xin lỗi, Jason. Tôi tưởng họ chỉ định dọa anh ấy, nhưng...”

“Cậu ấy chết rồi sao?”

“Họ sẽ đến tìm anh bất cứ lúc nào.”

“Sao cô lại...?”

“Vì tôi không tham gia để làm mấy trò này. Những gì họ đã làm với Daniela. Với Holder. Những gì họ sắp làm với anh. Họ đã đi quá những giới hạn không nên bị vượt qua. Không phải vì khoa học, không phải vì bất cứ thứ gì hết.”

“Cô đưa tôi ra khỏi nơi này được không?”

“Không, và cũng không có ích gì khi mặt anh đã lên khắp các trang báo.”

“Cô nói gì thế? Sao tôi lại bị đưa lên báo?”

“Cảnh sát đang đi tìm anh. Họ nghĩ anh đã giết Daniela.”

“Các người đổ tội cho tôi sao?”

“Tôi rất xin lỗi. Nghe này, tôi không thể đưa anh ra khỏi khu thí nghiệm, nhưng tôi có thể dẫn anh vào nhà xưởng.”

“Cô biết cách chiếc hộp hoạt động không?” Tôi hỏi.

Tôi cảm nhận được cô ta đang nhìn tôi, dù không thấy gì.

“Tôi không biết. Nhưng đó là lối thoát duy nhất của anh.”

“Từ những gì tôi nghe được, việc bước vào trong đó giống như nhảy ra khỏi máy bay mà không biết dù có mở không.”

“Nếu đằng nào máy bay cũng rơi thì chuyện đó còn quan trọng nữa không?”

“Vậy còn chiếc camera?”

“Chiếc trong này à? Tôi tắt nó đi rồi.”

Tôi nghe tiếng Amanda bước về phía cửa.

Một vệt ánh sáng dọc xuất hiện và ngày một mở rộng dần.

Khi cửa buồng đã mở ra hết, tôi nhận ra cô đang đeo một chiếc ba lô. Bước ra ngoài hành lang, cô chỉnh lại chân váy bút chì màu đỏ của mình và quay lại nhìn tôi.

“Anh có đi không?”

Tôi vịn vào thành giường mà đứng lên.

Tôi hẳn đã ở hàng giờ trong bóng tối, vì ánh đèn trong hành lang khiến mắt tôi không chịu nổi. Chúng bỏng rát trước thứ ánh sáng đột ngột xuất hiện.

Hiện giờ, trong hành lang chỉ có hai chúng tôi.

Amanda đã tách ra khỏi tôi và đi về phía những cánh cửa như cửa hầm ở đầu kia hành lang.

Cô ngoái nhìn lại và thì thào: “Đi thôi!”

Tôi lặng lẽ bám theo, dãy đèn huỳnh quang cứ vụt qua trên đầu.

Ngoài tiếng vọng từ những bước chân của chúng tôi, không còn âm thanh nào khác trong hành lang.

Khi đã đến được màn hình cảm ứng Amanda chìa thẻ của cô ra dưới máy quét.

“Không có ai khác trong phòng điều khiển sao?” Tôi hỏi. “Tôi tưởng sẽ luôn có người theo dõi...”

“Tối nay tôi trực, tôi sẽ bao che cho anh.”

“Họ sẽ biết cô đã giúp tôi.”

“Lúc họ nhận ra thì tôi cũng đã ra ngoài rồi.”

Giọng nữ trong máy cất tiếng: Xin mời đọc tên.

“Amanda Lucas.”

Mã số.

“Hai - hai - ba - bảy.”

Truy cập bị từ chối.

“Khỉ thật!”

“Chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.

“Chắc ai đó đã thấy chúng ta qua camera ở hành lang và phong tỏa tài khoản của tôi. Leighton sẽ biết ngay thôi.”

“Thử lại lần nữa xem nào.”

Cô lại quét thẻ một lần nữa.

Xin mời đọc tên.

“Amanda Lucas.”

Mã số.

Lần này cô đọc thật chậm rãi, phát âm rất rõ ràng: “Hai-hai-ba-bảy.”

Truy cập bị từ chối.

“Chết tiệt!”

Một cánh cửa ở đầu còn lại của hành lang mở ra.

Khi nhân viên của Leighton bước ra, Amanda tái mặt vì sợ hãi còn vòm miệng tôi lại ứa ra cái vị kim loại sắc lạnh.

Tôi hỏi: “Mã số là do các nhân viên tự đặt ra hay được chỉ định?”

“Ta tự đặt ra.”

“Đưa thẻ cho tôi.”

“Vì sao?”

“Vì có lẽ không ai nghĩ đến chuyện phong tỏa quyền truy cập của tôi.”

Khi cô đưa thẻ cho tôi, Leighton cũng đã bước ra từ cánh cửa kia.

Hắn ta gọi to tên tôi.

Tôi quay lại nhìn khi Leighton và người của hắn từ đầu kia hành lang lao về phía chúng tôi.

Tôi quét thẻ.

Xin mời đọc tên.

“Jason Dessen.”

Mã số.

Tất nhiên rồi, gã này chính là tôi.

Tháng và năm sinh của tôi đọc ngược lại.

“Ba - bảy - hai - một.”

Đã xác nhận giọng nói. Chào mừng Tiến sĩ Dessen.

Tiếng chuông ré lên nghe buốt óc.

Khi hai cánh cửa bắt đầu tách ra, tôi bất lực nhìn những người đàn ông kia chạy về phía chúng tôi - mặt đỏ bừng bừng và tay chân cuồn cuộn cơ bắp.

Họ chỉ còn cách chúng tôi chừng bốn đến năm giây.

Ngay khi cánh cửa mở ra vừa đủ, Amanda vội len người qua.

Tôi bước theo cô vào trong nhà xưởng, chạy trên mặt sàn trơn nhẵn về phía cái hộp.

Phòng điều khiển trống trơn, ánh đèn rọi xuống từ trên cao, và tôi chợt nhận ra rằng chúng tôi sẽ chẳng có cách nào thoát được khỏi nơi này.

Chúng tôi sắp đến chỗ cái hộp thì Amanda hét lớn: “Ta phải vào trong hộp thôi!”

Tôi ngoái lại nhìn khi người đàn ông đầu tiên lao qua cánh cửa hầm rộng mở, tay phải cầm một khẩu súng hoặc súng bắn điện, và trên mặt anh ta có một vệt mờ mà tôi đoán là máu của Ryan.

Anh ta nhắm thấy tôi và giơ súng lên, nhưng tôi đã nấp vào góc hộp trước khi anh ta có thể bắn.

Amanda đang đẩy cửa mở ra, và khi còi báo động vang lên khắp nhà xưởng, cô đã kịp mất hút vào bên trong.

Tôi bám sát gót cô, lao qua ngưỡng cửa để vào trong hộp.

Cô lập tức đẩy tôi sang một bên rồi tì vai để đóng cửa lại.

Tôi nghe giọng người nói và tiếng bước chân mỗi lúc một gần.

Amanda đang vật lộn với cánh cửa nên tôi cũng lao tới và dồn sức của mình đẩy cửa vào.

Nó phải nặng đến cả tấn.

Cuối cùng, nó cũng bắt đầu chịu di chuyển theo chiều đóng lại.

Có mấy ngón tay đã đặt được lên khung cửa, nhưng quán tính đã ủng hộ chúng tôi.

Cánh cửa đóng sầm lại, và một cái chốt khổng lồ lao vào trong rãnh.

Trong này hoàn toàn yên tĩnh.

Và tối như bưng - thứ bóng tối thuần khiết và không vụn vỡ khiến ta có cảm giác như đang quay cuồng trong nó.

Tôi loạng choạng bước lại gần bức tường gần nhất và chống tay lên bề mặt kim loại. Tôi cần dựa vào một thứ gì đó vững chãi trong lúc cố gắng tiếp nhận sự thật rằng tôi đang ở trong thứ này.

“Họ có vào đây được không?” Tôi hỏi.

“Tôi không biết chắc. Về lý thuyết thì nó sẽ tự khóa trong mười phút. Một loại lá chắn có khóa chốt bên trong.”

“Chắn khỏi cái gì?”

“Tôi không biết. Những người đuổi theo anh? Giúp anh thoát khỏi một tình huống nguy hiểm? Anh thiết kế ra món này mà. Có vẻ nó hiệu quả đấy.”

Tôi nghe thấy tiếng sột soạt trong bóng tối.

Một chiếc đèn Coleman[39] chạy bằng pin vừa bật lên, chiếu sáng cho không gian trong hộp bằng thứ ánh sáng xanh lợt.

Cảm giác thật lạ lùng, đáng sợ, nhưng cũng thật sảng khoái khi cuối cùng được ở đây, bao quanh bởi những bức tường dày, gần như không thể bị phá hủy này.

Điều đầu tiên tôi nhận thấy trong ánh sáng ngọn đèn mới bật là bốn ngón tay nằm dưới chân cửa, bị đứt lìa ở đốt thứ hai.

Amanda đang quỳ bên cạnh một chiếc ba lô đã mở, một bên tay thọc vào vai. Xét theo những chuyện vừa xảy ra, cô lại có vẻ điềm tĩnh đến lạ thường, chỉ lặng lẽ xử lý tình huống.

Cô lấy ra một chiếc túi da nhỏ.

Nó đựng đầy những xi lanh, kim tiêm, và mấy ống nhỏ đựng chất lỏng trong suốt mà tôi đoán là hợp chất của Ryan.

Tôi lên tiếng: “Vậy là cô quyết định sẽ làm việc này cùng tôi?”

“Nếu không thì biết làm gì? Ra ngoài đó và giải thích với Leighton tôi đã phản bội anh ta và mọi thứ chúng tôi vẫn đang cùng bỏ công sức ra nghiên cứu như thế nào à?”

“Tôi không biết cái hộp hoạt động như thế nào.”

“Tôi cũng không biết. Vậy nên tôi đoán rằng sắp tới chúng ta sẽ có kha khá điều hài hước đang chờ đón đấy.” Cô kiểm tra đồng hồ của mình. “Tôi đã đặt hẹn giờ lúc cánh cửa khóa lại. Họ sẽ vào được đây sau tám phút, năm mươi sáu giây nữa. Nếu không bị áp lực về thời gian, ta có thể uống mấy ống thuốc hoặc tiêm bắp, nhưng giờ thì ta sẽ phải đi tìm ven. Anh đã tự tiêm cho mình bao giờ chưa?”

“Chưa.”

“Xắn tay áo lên.”

Cô buộc một đoạn dây cao su lên phía trên khuỷu tay của tôi, nắm lấy cánh tay của tôi và giữ nó trước ánh sáng của đèn.

“Thấy mạch máu nằm ở mặt trước khuỷu tay của anh không? Đó là tĩnh mạch trước khuỷu. Đó là chỗ anh cần tiêm vào.”

“Cô tiêm thì có hơn không?”

“Anh sẽ ổn thôi.”

Cô đưa tôi một túi bông đã thấm sẵn cồn.

Tôi mở túi ra, dùng bông lau một mảng da rộng.

Tiếp theo, cô đưa tôi một chiếc xi lanh ba mililit, hai cái kim tiêm và một ống thuốc.

“Đây là kim lọc.” Cô nói và chạm vào một trong hai đầu kim. “Hãy dùng nó để hút chất lỏng lên, anh sẽ không lo hút phải mảnh thủy tinh vỡ. Sau đó chuyển sang cây kim còn lại để tự tiêm cho mình. Hiểu rồi chứ?”

“Chắc là hiểu.” Tôi gắn đầu kim lọc vào xi lanh, bỏ nắp đậy, và sau đó bẻ cổ ống thủy tinh. “Tiêm hết à?” Tôi hỏi.

Cô đang buộc dây cao su quanh cánh tay mình và lau vùng da sắp tiêm.

“Phải.”

Tôi cẩn thận rút chất lỏng trong ống vào xi lanh và đổi mũi kim.

Amanda nói: “Đừng quên búng vào xi lanh liên tục và đẩy từng chút chất lỏng một qua kim tiêm thôi. Anh không muốn tiêm cả bong bóng khí vào hệ mạch của mình đâu.”

Cô ấy cho tôi xem đồng hồ lần nữa: Bảy phút ba mươi chín giây...

Bảy phút ba mươi tám giây.

Bảy phút ba mươi bảy giây.

Tôi dùng ngón cái ấn mạnh vào đầu pít tông, đẩy một giọt hợp chất hóa học của Ryan ra ngoài qua đầu kim.

Tôi hỏi: “Vậy tôi chỉ cần...”

“Đưa đầu kim vào mạch máu từ một góc bốn mươi lăm độ, lỗ ở đầu kim hướng lên trên. Tôi biết việc này khá lạ lẫm với anh. Anh đang làm rất tốt.”

Adrenaline dâng lên trong cơ thể tôi nhiều đến mức tôi gần như không cảm nhận thấy vết chích.

“Giờ thì sao?”

“Hãy đảm bảo là đầu kim đã vào đến mạch máu.”

“Làm sao mà tôi...?”

“Kéo pít tông ra một chút.”

Tôi kéo bơm tiêm ra một chút.

“Anh thấy máu chứ?”

“Có.”

“Tốt lắm. Vậy là vào đúng mạch rồi. Giờ thì hãy cởi ga rô ra và tiêm từ từ.”

Trong lúc từ từ ấn pít tông, tôi hỏi: “Bao lâu thì bắt đầu có tác dụng?”

“Gần như là ngay tức thì, nếu tôi phải...”

Tôi còn không kịp nghe hết câu cô nói.

Tác dụng của thuốc ập đến.

Tôi sụm xuống, ngồi dựa vào tường và mất hết cảm thức về thời gian cho đến khi Amanda hiện ra trước mặt tôi, nói những lời mà tôi dù cố mấy cũng không sao hiểu nổi.

Tôi cúi xuống, thấy cô kéo kim tiêm ra khỏi tay tôi và ép chặt một miếng bông tẩm cồn vào vết tiêm nhỏ xíu.

Cuối cùng tôi cũng nghe ra lời cô nói: “Cứ giữ chặt miếng bông nhé.”

Giờ thì tôi quan sát Amanda duỗi cánh tay ra dưới ánh sáng của ngọn đèn. Khi cô chọc đầu kim tiêm vào mạch máu và nới lỏng ga rô, sự chú ý của tôi chuyển sang mặt đồng hồ của cô và các con số đang lùi dần về không.

Chẳng mấy chốc, Amanda đã nằm dài trên sàn nhà như một kẻ nghiện ngập vừa tiêm thuốc, còn đồng hồ đếm ngược vẫn đang chạy, nhưng chuyện ấy chẳng còn quan trọng nữa.

Tôi không dám tin vào những gì mình đang thấy.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3