Người Chạy Xuyên Không Gian - Chương 08
TÁM
Tôi ngồi dậy.
Hoàn toàn minh mẫn và tỉnh táo.
Amanda cũng không còn nằm trên sàn. Cô đang đứng cách tôi vài bước, quay lưng về phía tôi.
Tôi gọi tên cô và hỏi xem cô có ổn không, nhưng cô không trả lời.
Tôi gượng đứng dậy.
Amanda đang cầm cây đèn, và khi tôi di chuyển về phía cô, tôi thấy ánh đèn không hắt lên trên bức tường của chiếc hộp, mà lẽ ra, ngay trước mặt chúng tôi phải có một bức tường như thế.
Tôi bước lên trước cô.
Cô cầm cây đèn bước theo tôi.
Ánh đèn chiếu sáng lên một cánh cửa khác, giống hệt cánh cửa mà chúng tôi vừa bước qua để từ nhà xưởng vào trong hộp.
Tôi tiếp tục bước.
Cứ ba mét sáu mươi sáu centimet, chúng tôi lại thấy một cánh cửa khác.
Rồi một cánh cửa khác.
Rồi một cánh cửa khác.
Ngọn đèn chỉ chiếu sáng ngang với một bóng đèn sáu mươi watt, và bên ngoài bán kính hai mươi đến hai lăm mét, ánh sáng lụi dần thành những vệt yếu ớt, lập lòe trên bề mặt lạnh lẽo của bức tường kim loại ở một bên, và dãy cửa cách nhau đều chằn chặn ở phía bên kia.
Bên ngoài quầng sáng của ngọn đèn là bóng tối tuyệt đối.
Tôi dừng lại, kinh ngạc không thốt nên lời.
Tôi nghĩ tới hàng ngàn bài báo và cuốn sách mà tôi đã đọc trong đời. Những bài kiểm tra tôi đã làm. Những lớp học tôi đã dạy. Những lý thuyết đã thuộc lòng. Các phương trình trải đầy trên mặt bảng đen. Tôi nhớ lại hàng tháng trời tôi ở trong phòng sạch, cố gắng tạo ra một thứ mà chỉ là phiên bản mờ nhạt của thứ này.
Với các sinh viên học vật lý và thiên văn, những thứ hữu hình gần nhất trong các khái niệm nghiên cứu mà họ với đến được là các thiên hà cổ xưa thông qua kính viễn vọng. Những bài phân tích dữ liệu đi kèm các va chạm hạt mà ta biết là đã xảy ra nhưng lại không bao giờ được chứng kiến.
Luôn có một đường biên giới, một rào cản giữa các phương trình và hiện thực mà chúng đại diện cho.
Nhưng giờ thì không còn ranh giới đó nữa. Ít nhất với tôi là như vậy.
Tôi không thể ngừng nghĩ rằng mình đang ở đây. Tôi đang hiện diện tại đây. Nơi đây thực sự tồn tại.
Ít nhất, trong chốc lát, nỗi sợ đã rời bỏ tôi. Trong tôi chỉ còn nỗi kinh ngạc.
Tôi thốt lên: “ “Điều đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm là sự bí ẩn”.”
Amanda quay sang nhìn tôi.
“Einstein nói đấy, không phải tôi đâu.”
“Nơi này có thật không vậy?” Cô hỏi.
“Theo cô, thế nào là “thật” ?”
“Ta có đang đứng trong một không gian vật lý không?”
“Tôi nghĩ tâm trí chúng ta đã tự sáng tác ra khung cảnh này nhằm nỗ lực giải thích về mặt thị giác một thứ mà não chúng ta chưa kịp tiến hóa để hiểu được.”
“Đó là...”
“Trạng thái chồng chập.”
“Vậy là ta đang trải nghiệm một trạng thái lượng tử ngay lúc này?”
Tôi ngoái lại nhìn dọc hành lang, rồi nhìn vào bóng tối trước mặt. Ngay cả trong thứ ánh sáng yếu ớt này, không gian này cũng có tính đệ quy[40], như thể hai tấm gương được đặt đối mặt nhau.
“Phải. Nơi này trông giống một hành lang, nhưng tôi nghĩ thực ra đó chỉ là chiếc hộp đang tự lặp lại chính mình trên mọi hiện thực có chung một điểm trong không gian và thời gian.”
“Giống như một giao lộ?”
“Chính xác. Theo một vài thuyết trong cơ học lượng tử, thứ chứa đựng mọi thông tin trong hệ thống - trước khi nó sụp đổ do sự quan sát - được gọi là một hàm sóng. Tôi nghĩ hành lang này là cách mà tâm trí ta hình dung ra nội dung của hàm sóng, của tất cả những kết quả khả thi, cho trạng thái chồng chập lượng tử của ta.”
“Vậy thì hành lang này sẽ dẫn đến đâu?” Cô hỏi. “Nếu ta cứ đi mãi, nó sẽ đưa ta đến đâu?”
Lúc tôi nói ra những lời này, cảm giác kinh ngạc cứ rút dần, và nỗi sợ thế chỗ vào đó: “Nó không có điểm cuối.”
Chúng tôi cứ đi mãi để xem có chuyện gì diễn ra, để xem có gì thay đổi không, và xem chúng tôi có thay đổi không.
Nhưng chỉ thấy những cánh cửa nối nhau xuất hiện.
Khi đã đi được một lúc lâu, tôi nói: “Tôi đã đếm từ khi ta bắt đầu đi dọc hành lang, và đây là cánh cửa thứ bốn trăm bốn mươi. Cứ ba mét sáu mươi sáu centimet thì cái hộp lại lặp lại, vậy nghĩa là ta đã đi được tròn một dặm[41].”
Amanda dừng lại và tuột chiếc ba lô khỏi vai.
Cô ngồi dựa lưng vào tường, còn tôi ngồi xuống cạnh cô ấy, đặt ngọn đèn ở giữa hai chúng tôi.
Tôi nói: “Nếu Leighton quyết định dùng thuốc và lao vào đây để đuổi theo chúng ta thì sao?”
“Anh ta sẽ không bao giờ làm như vậy.”
“Vì sao?”
“Vì anh ta sợ cái hộp. Tất cả chúng tôi đều sợ. Ngoại trừ anh, chưa có ai vào đó mà trở lại cả. Vậy nên Leighton sẽ dám làm mọi cách để bắt anh khai ra cách sử dụng hộp.”
“Những người thử nghiệm đã gặp chuyện gì?”
“Người đầu tiên vào hộp tên là Matthew Snell. Bấy giờ chúng tôi chưa biết mình sắp phải đối diện với điều gì, nên Snell nhận được những chỉ dẫn rõ ràng và đơn giản: Vào trong hộp. Đóng cửa. Ngồi xuống. Tự tiêm thuốc cho mình. Dù chuyện gì xảy ra, dù có nhìn thấy gì, anh ta cũng phải ngồi nguyên một chỗ, chờ thuốc hết tác dụng, rồi đi trở lại nhà xưởng ngay. Dù có nhìn thấy những điều này, anh ta hẳn là không rời chiếc hộp của mình. Anh ta cũng không di chuyển.”
“Vậy chuyện gì đã xảy ra?”
“Một giờ trôi qua. Anh ta đã quá hạn trở về. Chúng tôi muốn mở cửa, nhưng lại sợ can thiệp vào bất cứ chuyện gì anh ta đang trải nghiệm bên trong. Hai mươi tư giờ sau, cuối cùng chúng tôi mở cửa ra.”
“Và cái hộp trống không.”
“Đúng vậy.” Amanda trông thật nhợt nhạt trong ánh đèn xanh lơ. “Việc bước vào hộp và tiêm thuốc cũng giống như đi vào đường một chiều. Không có đường quay lại, và không ai dám mạo hiểm bám theo ta. Ở đây chỉ có chúng ta. Vậy anh muốn làm gì?”
“Giống như bất cứ nhà khoa học chân chính nào, tôi muốn thử nghiệm. Thử mở một cánh cửa, xem chuyện gì xảy ra.”
“Và tôi nói thẳng luôn, anh không biết đằng sau những cánh cửa kia có gì, đúng không?”
“Không biết một chút nào cả.”
Tôi đưa tay kéo Amanda đứng dậy. Khi vác ba lô lên vai, tôi nhận thấy dấu hiệu đầu tiên của cơn khát và tự hỏi liệu cô ấy có mang theo nước không.
Chúng tôi đi dọc hành lang, và sự thật là tôi do dự khi phải đưa ra lựa chọn. Nếu số lượng cánh cửa là vô tận, thì từ góc độ thống kê mà nói, sự lựa chọn vừa là quan trọng nhất lại vừa chẳng còn ý nghĩa gì cả. Mọi lựa chọn đều đúng. Và mọi lựa chọn đều sai.
Cuối cùng, tôi dừng lại và nói: “Cửa này nhé?”
Cô nhún vai. “Được đấy.”
Nắm lấy tay cầm bằng kim loại lạnh lẽo, tôi hỏi: “Chúng ta vẫn còn nhiều ống thuốc, phải không? Bởi vì có thể là...”
“Tôi đã kiểm tra túi thuốc khi ta dừng lại một phút trước.”
Tôi vặn tay nắm cửa xuống, nghe tiếng thanh chốt trượt ra và thu về.
Cánh cửa mở vào phía bên trong, làm thông thoáng khung cửa.
Cô thì thầm: “Anh thấy gì ngoài đó?”
“Chưa thấy gì. Ngoài này tối quá. Đưa tôi cái đèn nào.” Khi tôi cầm lấy chiếc đèn từ tay cô, tôi nhận thấy chúng tôi lại đang đứng trong một chiếc hộp duy nhất. “Nhìn kìa!” Tôi nói. “Hành lang đã biến mất rồi.”
“Điều đó khiến anh ngạc nhiên sao?”
“Thật ra, điều đó lại rất hợp lý. Môi trường bên ngoài cánh cửa đang tương tác với vùng bên trong hộp. Nó khiến trạng thái lượng tử trở nên bất ổn định.”
Tôi quay lại nhìn cánh cửa đang mở và giơ chiếc đèn ra phía trước. Tất cả những gì tôi có thể thấy là mặt đất trước mặt tôi.
Vỉa hè bị nứt toác.
Những vết dầu đã khô.
Khi tôi bước xuống, có nhiều mẩu kính vỡ vụn dưới chân tôi.
Tôi giúp Amanda trèo ra ngoài, và khi chúng tôi đi được vài bước đầu tiên, ánh sáng khuếch tán ra xa, hắt lên một cây cột bê tông.
Một chiếc xe tải nhỏ.
Một chiếc xe mui trần.
Một xe hơi năm chỗ.
Đây là một nhà để xe.
Chúng tôi đi theo một lối đi hơi dốc, hai bên đều đầy rẫy ô tô, lần theo những vệt lờ mờ của sọc sơn trắng phân chia các làn đường bên trái và bên phải.
Chiếc hộp đã cách chúng tôi một đoạn khá xa và khuất tầm nhìn, giấu mình trong bóng đen như hũ nút.
Chúng tôi đi qua một tấm biển chỉ dẫn có một mũi tên chỉ sang trái và dòng chữ:
LỐI RA PHỐ
Khi đi hết một góc nhà để xe, chúng tôi bắt đầu leo lên con dốc tiếp theo.
Dọc phía bên phải chúng tôi, các mảng bê tông rơi từ trần nhà xuống đã nghiền nát kính chắn gió, mui và nóc của những chiếc xe. Chúng tôi càng đi xa, tình hình càng trở nên tồi tệ hơn, cho đến khi chúng tôi phải trèo qua những tảng bê tông vỡ và mò mẫm tìm đường qua đống cốt thép đã gỉ sét, chĩa lên tua tủa và sắc như dao.
Đi được nửa tầng tiếp theo, chúng tôi phải dừng lại khi gặp một bức tường chắn ngang do phế liệu và gạch vụn chất đống mà thành.
“Có lẽ ta nên quay lại.” Tôi nói.
“Nhìn kìa...” Cô ấy giật lấy chiếc đèn và tôi bám theo cô đến một lối vào cầu thang.
Cánh cửa đang hé mở, và Amanda dùng sức để đẩy cho nó mở rộng hơn.
Xung quanh chúng tôi toàn là bóng tối.
Chúng tôi tiến lên cánh cửa ở trên đầu cầu thang.
Cả hai cùng dồn sức mới có thể mở được nó.
Gió thổi vào qua sảnh tòa nhà ngay phía trước chúng tôi.
Có một thứ trông gần giống như ánh sáng tự nhiên chiếu xuyên qua những khung thép trống rỗng, nơi từng là những ô cửa sổ hai tầng cỡ lớn.
Ban đầu, tôi nghĩ thứ trên sàn nhà là tuyết, nhưng trời không lạnh.
Tôi quỳ xuống và bốc một nắm lên xem. Nó khô và phủ một lớp dày đến cả ba mươi centimet trên sàn đá cẩm thạch. Nó trôi tuột qua các ngón tay của tôi.
Chúng tôi lê bước qua một bàn tiếp tân dài, dòng tên của khách sạn ghép từ các khối chữ nghệ thuật vẫn gắn trên mặt tiền của chiếc bàn.
Ở lối vào, chúng tôi đi qua hai dãy chậu trồng cây khổng lồ chỉ còn trơ lại những cành héo rũ xuống và những mảnh lá đã khô giòn, phất phơ trong gió.
Amanda tắt đèn đi.
Chúng tôi bước qua những cánh cửa quay đã mất cả kính.
Dù trời có vẻ như không lạnh chút nào, cảnh tượng bên ngoài trông vẫn như một cơn bão tuyết đang hoành hành.
Tôi bước ra phố và ngước nhìn lên khoảng không giữa những tòa nhà tối tăm, bầu trời nhuốm một thứ màu đỏ mờ nhạt. Không gian có màu sắc mờ ảo như những lúc bầu trời thành phố nặng trĩu mây, cùng ánh đèn từ các tòa nhà phản chiếu qua màn hơi ẩm trong không khí.
Nhưng không có ánh đèn nào.
Không một ngọn đèn nào trong tầm mắt tôi.
Những hạt nhỏ li ti rơi xuống như tuyết, tạo thành một tấm màn trắng xóa, chạm vào mặt tôi nhưng chúng không gây buốt chút nào.
“Đó là bụi tro.” Amanda nói.
Một cơn lốc bụi tro.
Ngoài phố, tro phủ ngập đến đầu gối, và không khí mang mùi của một chiếc lò sưởi đã nguội ngắt vào ban sáng, trước khi đống tro tàn được xúc đổ đi.
Cái mùi hôi hám của tàn tro đã lụi tắt.
Màn tro rơi dày đặc đến mức làm mờ mịt cả các tầng cao của các tòa nhà chọc trời. Không có âm thanh nào ngoài tiếng gió lùa giữa các tòa nhà và xuyên qua các tòa nhà, cũng như tiếng rít của tro quét qua rồi chất lại thành đống len lỏi giữa những chiếc xe hơi và xe buýt đã bị bỏ lại từ lâu.
Tôi không dám tin vào mắt mình.
Rằng tôi thực sự đang đứng trong một thế giới không phải của tôi.
Chúng tôi đi ra giữa đường quay lưng lại với hướng gió.
Tôi không thể rũ bỏ được cảm giác rằng màu đen của các tòa nhà này có gì đó không ổn. Chúng chỉ còn là những khung xương, những hình bóng điêu tàn trong cơn mưa tro bụi trút xuống xối xả. Trông chúng giống một rặng núi ảo ảnh hơn là một cảnh quan nhân tạo. Một số tòa nhà thì nghiêng ngả, và một số đã đổ sụp. Đối mặt với những cơn gió mạnh nhất, ở phía trên cao, tôi có thể nghe thấy tiếng gầm của khung thép gồng mình xoắn lại khi đã chịu đựng quá sức căng của nó.
Chợt có một lực ép nhẹ vào phía sau nhãn cầu của tôi.
Nó đến và đi chỉ trong vòng chưa đầy một giây, như thể vừa có gì đó bị tắt đi.
Amanda hỏi: “Anh có cảm thấy cái đó không?”
“Áp lực phía sau mắt phải không?”
“Đúng là nó đấy.”
“Tôi có thấy. Tôi cá là do thuốc đã hết tác dụng.”
Khi đi thêm được vài dãy nhà, chúng tôi không thấy các tòa nhà nữa. Chúng tôi đến một lan can chạy dọc trên mặt đập ngăn biển. Mặt hồ trải ra hàng kilomet dưới bầu trời đầy phóng xạ, và trông nó thậm chí còn không giống hồ Michigan nữa, mà giống một sa mạc mênh mông màu xám. Tro tích tụ trên bề mặt của hồ và nhấp nhô như một chiếc đệm nước, những đợt sóng mang bọt đen ập vào thành đập.
Đường quay trở lại của chúng tôi đón thẳng hướng gió.
Tro bụi táp vào mắt, vào miệng chúng tôi.
Lối mà chúng tôi vừa đi qua đã lại phủ kín tro.
Khi chúng tôi chỉ còn cách khách sạn một dãy nhà, có tiếng gì đó vang lên, như thể tiếng sấm rền từ khoảng cách khá gần.
Mặt đất rung lên dưới chân chúng tôi.
Một tòa nhà khác vừa sụp đổ.
* * *
Chiếc hộp vẫn nằm ở đúng vị trí mà chúng tôi rời đi ban nãy, trong góc xa của tầng hầm sâu nhất của nhà xe.
Người chúng tôi đều phủ đầy tro, và chúng tôi dừng lại giây lát trước cửa để phủi sạch tro khỏi quần áo và trên tóc. Khi chúng tôi đã ở trong hộp, chốt cửa lại sập vào sau lưng chúng tôi.
Chúng tôi lại ở trong một chiếc hộp đơn giản và hữu hạn.
Bốn bức tường.
Một cánh cửa.
Một chiếc đèn.
Một chiếc ba lô.
Và hai con người vẫn chưa hết hoang mang.
Amanda ngồi xuống, ôm lấy hai đầu gối.
“Anh nghĩ chuyện gì đã xảy ra ngoài kia?” Cô hỏi.
“Siêu núi lửa phun trào. Sao Chổi va vào Trái Đất. Chiến tranh nguyên tử. Không rõ nữa.”
“Ta đang ở tương lai chăng?”
“Không, chiếc hộp chỉ dẫn ta đến những hiện thực thay thế ở cùng một điểm trong không thời gian. Nhưng tôi đoán có một vài thế giới trông sẽ như ở tương lai nếu họ đã tạo ra những tiến bộ kỹ thuật mà thế giới của ta chưa tìm thấy.”
“Nếu như mọi thế giới đều đã bị phá hủy như vừa rồi thì sao?”
Tôi đáp: “Ta nên dùng thuốc lần nữa. Tôi không nghĩ ta thực sự an toàn dưới vòm trời đang vụn nát này.”
Amanda cởi giày ra và giũ sạch tro bám trên đó.
Tôi nói: “Những gì cô đã làm cho tôi ở khu thí nghiệm... Cô đã cứu mạng tôi.”
Cô nhìn tôi, môi dưới của cô run run. “Tôi thường mơ về những người thử nghiệm đầu tiên đã vào trong hộp. Toàn là ác mộng. Tôi không thể tin chuyện này đang diễn ra.”
Tôi kéo khóa ba lô và bắt đầu lôi đồ bên trong ra để xếp lại.
Tôi tìm thấy chiếc túi da đựng các ống thuốc và bộ kim tiêm.
Ba cuốn sổ bọc giấy bóng kính.
Một hộp đựng bút.
Một con dao bọc nilon.
Một bộ sơ cứu.
Chăn siêu nhẹ.
Áo mưa.
Bộ dụng cụ vệ sinh.
Hai cuộn tiền.
Bộ đếm Geiger[42].
La bàn.
Hai chai nước loại một lít, đều còn đầy.
Sáu gói lương khô.
“Cô đã thu xếp tất cả những đồ này à?” Tôi hỏi.
“Không, tôi cứ vơ đại từ phòng kho. Đều là đồ cứu hộ cơ bản, thứ mà ai cũng mang khi vào trong hộp. Lẽ ra ta nên mặc đồ du hành, nhưng tôi không kịp lấy.”
“Đúng rồi đấy. Thế giới bên ngoài như thế kia cơ mà. Mức độ phóng xạ có thể vượt quá ngưỡng cho phép nhiều lần, hoặc lớp vỏ khí quyển đã thay đổi mạnh mẽ. Nếu áp suất không khí không như trước - ví dụ xuống quá thấp - thì máu và tất cả các chất lỏng trong cơ thể chúng ta sẽ sôi lên.”
Mấy chai nước đang mời gọi tôi. Tôi chưa được uống gì suốt mấy giờ qua, kể từ sau bữa trưa.
Tôi đang khát cháy cổ.
Tôi mở chiếc túi da. Có vẻ nó được thiết kế riêng để đựng các ống thuốc, mỗi ống thủy tinh đều có đai giữ riêng.
Tôi bắt đầu đếm số ống.
“Năm mươi.” Amanda giải thích. “Mà giờ chỉ còn bốn mươi tám thôi. Tôi đã định lấy hai túi, nhưng...”
“Cô không định đi cùng tôi.”
“Tình hình của ta tệ đến mức nào?” Cô hỏi. “Hãy nói thật xem.”
“Tôi không biết. Nhưng đây là phi thuyền của ta. Tốt nhất ta nên học cách điều khiển nó.”
Khi tôi bắt đầu nhét mọi thứ trở lại vào ba lô, Amanda với tay lấy bộ dụng cụ tiêm.
Lần này, chúng tôi bẻ cổ ống thủy tinh và uống thuốc, chất lỏng chảy qua lưỡi tôi, để lại cái vị nhờ nhợ vừa ngòn ngọt vừa găn gắt khá khó chịu.
Còn lại bốn mươi sáu ống.
Tôi bật chế độ hẹn giờ trên đồng hồ của Amanda và hỏi: “Ta có thể uống thứ này với tần suất bao nhiêu mà không hóa điên?”
“Đợt trước, chúng tôi có thử nghiệm.”
“Lôi một gã vô gia cư nào đó ở trên phố vào để thử nghiệm à?”
Suýt chút nữa thì cô bật cười. “Không ai chết đâu. Chúng tôi đã tìm hiểu được rằng việc dùng thuốc nhiều lần chắc chắn có ảnh hưởng đến hoạt động thần kinh và có gây kháng thuốc. Tin tốt là tác dụng của thuốc khá ngắn, nên nếu ta không nạp liên tục hết ống này đến ống khác, ta sẽ ổn thôi.” Cô xỏ chân vào đôi giày bệt và nhìn tôi. “Anh có tự thấy mình thật đáng kinh ngạc không?”
“Ý cô là sao?”
“Anh đã tạo ra thứ này.”
“Vâng, nhưng tôi vẫn chưa biết bằng cách nào. Tôi nắm được lý thuyết, nhưng việc tạo ra được trạng thái lượng tử ổn định cho con người là...”
“Một bước đột phá bất khả thi?”
Dĩ nhiên rồi. Tóc gáy tôi dựng đứng khi nhận ra sự bất khả thi của nó thật ra lại vô cùng hợp lý.
Tôi nói: “Tỉ lệ thành công là một phần tỉ, nhưng ta đang nói đến đa vũ trụ. Nói đến sự vô tận. Có lẽ có tới cả triệu thế giới như thế giới của cô mà tôi chưa hiểu được hết. Nhưng ta chỉ cần một thế giới mà trong đó tôi tìm ra câu trả lời là đủ.”
Khi đồng hồ hẹn giờ hiển thị đã được ba mươi phút, tôi nhận thấy tín hiệu đầu tiên của việc thuốc đã phát tác - cảm giác thấp thoáng của cơn hưng phấn dạng nhẹ.
Cảm giác khoan khoái rất dễ chịu.
Dù không hẳn mãnh liệt như lúc ở trong hộp tại Phòng Thí nghiệm Vận tốc.
Tôi quay sang nhìn Amanda.
Tôi bảo: “Tôi nghĩ mình đang cảm nhận được nó.”
Cô đáp: “Tôi cũng vậy.”
Và chúng tôi quay trở lại dãy hành lang ban nãy.
Tôi hỏi: “Đồng hồ của cô vẫn chạy chứ?”
Amanda kéo tay áo len lên và làm cho mặt đồng hồ chuyển sang ánh sáng màu xanh tritium.
Ba mươi mốt phút mười lăm giây.
Ba mươi mốt phút mười sáu giây.
Ba mươi mốt phút mười bảy giây.
Tôi nói: “Vậy là hơn ba mươi mốt phút kể từ lúc ta uống thuốc. Cô có biết nó sẽ thay đổi các phản ứng hóa học của não trong bao lâu không?”
“Tôi nghe nói khoảng một giờ.”
“Cứ đánh dấu thời gian cho chắc.”
Tôi bước trở lại phía cánh cửa dẫn vào nhà để xe ban nãy và mở nó ra.
Giờ thì tôi đang nhìn thấy một khu rừng.
Chỉ có điều, không có vết tích nào của màu xanh cây lá.
Không có dấu hiệu nào của sự sống.
Chỉ toàn là những thân cây đã cháy sém trải dài trong tầm mắt tôi.
Những thân cây này thật ma quái, các cành cây khẳng khiu trông giống như những mạng nhện màu đen giăng trên nền trời tối như than.
Tôi đóng cửa vào.
Nó tự động khóa lại.
Cơn chóng mặt ập đến khi tôi nhìn chiếc hộp lùi dần ra xa tôi và chìm vào trong vô cực.
Tôi mở khóa cửa và kéo cánh cửa mở ra.
Hành lang lại biến mất.
Cánh rừng chết vẫn ở đó.
Tôi nói: “Thôi được rồi, giờ thì ta đã biết kết nối giữa các cánh cửa và những thế giới này chỉ tồn tại trong một phiên tác dụng của thuốc. Vậy nên không một người thử nghiệm nào của cô trở về được phòng thí nghiệm.”
“Vậy là khi thuốc phát tác, hành lang cửa này sẽ tự sắp xếp lại?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Vậy làm sao ta tìm được đường về nhà?”
* * *
Amanda bắt đầu bước.
Mỗi lúc một nhanh hơn.
Đến mức gần như đang sải bước chạy bộ.
Rồi cô chạy mãi.
Vào trong bóng tối bất biến.
Vô hạn.
Hậu cảnh của đa vũ trụ.
Việc ráng hết sức lực này khiến tôi đổ mồ hôi và khát đến mức không chịu nổi, nhưng tôi vẫn không nói gì, vì tôi nghĩ rằng có lẽ cô ấy cần điều này. Cần đốt cháy chút năng lượng. Để thấy rằng cho dù cô có đi bao xa, hành lang này cũng sẽ chẳng bao giờ kết thúc.
Tôi cho rằng cả hai chúng tôi đều đang cố gắng chấp nhận sự thật rằng sự vô tận đáng sợ đến như thế nào.
Cuối cùng, cô cũng đuối sức.
Và đi chậm lại.
Không có tiếng động nào ngoài tiếng bước chân dội vào trong bóng tối phía trước chúng tôi.
Tôi váng vất vì đói và khát, và không thể ngừng suy nghĩ về hai lít nước trong ba lô. Tôi muốn uống, nhưng tôi cũng biết cần phải để dành nó.
Giờ thì chúng tôi di chuyển trong hành lang một cách có tính toán.
Tôi cầm đèn để soi xét mọi bức tường của mỗi chiếc hộp.
Tôi không biết chính xác thì mình đang tìm kiếm điều gì.
Một chi tiết sẽ phá vỡ sự đồng nhất này chăng?
Bất cứ điều gì cho phép chúng tôi kiểm soát được nơi mà chúng tôi sẽ đến.
Cùng lúc đó, những suy nghĩ của tôi cũng chạy đua trong bóng tối...
Điều gì sẽ xảy ra khi không còn nước uống?
Khi thức ăn cũng hết?
Khi nguồn pin cho ngọn đèn này - nguồn ánh sáng duy nhất của chúng tôi - cũng cạn?
Làm cách nào để tôi tìm được đường về nhà?
Tôi tự hỏi đã bao nhiêu giờ đồng hồ trôi qua kể từ lần đầu tiên chúng tôi vào trong chiếc hộp đặt tại nhà xưởng máy bay của Phòng Thí nghiệm Vận tốc.
Tôi đã mất mọi cảm thức về thời gian.
Tôi bắt đầu mất sức.
Cơn mỏi mệt đè nặng lên vai tôi, đến nỗi tôi thèm ngủ còn hơn cả thèm uống nước.
Tôi liếc nhìn sang Amanda, trong thứ ánh sáng xanh kia, gương mặt cô thật lạnh lùng nhưng cũng rất đẹp.
Cô có vẻ sợ hãi.
“Anh đói chưa?” Cô hỏi.
“Cũng hơi đói rồi.”
“Tôi rất khát, nhưng chúng ta nên để dành nước, đúng không?”
“Tôi nghĩ đó là một lựa chọn khôn ngoan.”
Cô nói tiếp: “Tôi cảm thấy rất mơ hồ, và mỗi lúc lại càng tệ hơn. Tôi lớn lên ở North Dakota, và ở đó thường có những trận bão tuyết dữ dội. Trắng trời trắng đất. Khi ta lái xe trên một khoảnh đất trống, bão tuyết sẽ thổi mạnh đến nỗi làm ta mất hết cảm giác về phương hướng. Đến nỗi ta cảm thấy chóng mặt khi quan sát nó qua lớp kính chắn gió. Anh sẽ phải tạt vào bên vệ đường và chờ bão qua đi. Khi ngồi trong chiếc xe lạnh lẽo, anh sẽ cảm giác như thế giới đã biến mất. Đó cũng là cảm giác của tôi lúc này.”
“Tôi cũng sợ hãi. Nhưng tôi đang tìm cách xử lý vấn đề này.”
“Như thế nào cơ?”
“Đầu tiên, ta phải tìm hiểu xem chính xác thì thuốc này sẽ cho ta bao nhiêu thời gian để ở trong hành lang có dãy cửa. Chính xác đến từng phút.”
“Anh muốn hẹn giờ đếm ngược bao lâu?”
“Nếu cô nói thuốc có tác dụng khoảng một giờ, thì thời hạn đếm ngược của ta là chín mươi phút. Nó bao gồm ba mươi phút đầu tiên chờ thuốc ngấm, và sáu mươi phút thuốc có tác dụng.”
“Tôi nhẹ cân hơn anh. Nếu thuốc có tác dụng lâu hơn với tôi thì sao?”
“Cũng không quan trọng. Vào lúc thuốc mất tác dụng với một trong hai chúng ta, người đó sẽ gây phục hồi tách sóng của trạng thái lượng tử và làm dãy hành lang biến mất. Nhưng để cho an toàn, ta sẽ mở cửa vào lúc đồng hồ chỉ tám mươi lăm phút.”
“Và chính xác thì ta mong tìm thấy điều gì?”
“Một thế giới không ăn tươi nuốt sống ta.”
Cô dừng bước và nhìn tôi. “Tôi biết anh không thực sự tạo ra chiếc hộp, nhưng ít ra anh phải có chút ý tưởng về cách thức nó hoạt động chứ.”
“Nghe này, kỹ thuật này đã đi trước hàng năm ánh sáng so với bất cứ thứ gì tôi từng...”
“Vậy tóm lại nghĩa là “Tôi không biết gì hết” phải không?”
“Cô muốn hỏi điều gì, Amanda?”
“Ta đang bị lạc à?”
“Ta đang thu thập thông tin. Ta đang giải quyết vấn đề.”
“Nhưng vấn đề là chúng ta đang bị lạc, phải không?”
“Ta đang khám phá.”
“Chúa ơi!”
“Sao nào?”
“Tôi không muốn dành phần đời còn lại đi lang thang trong đường hầm không bao giờ kết thúc này.”
“Tôi sẽ không để điều đó xảy ra.”
“Bằng cách nào?”
“Tôi vẫn chưa biết.”
“Nhưng anh đang tìm cách xử lý nó phải không?”
“Đúng, tôi đang tìm cách.”
“Và chúng ta không hề bị lạc.”
Chúng tôi lạc quá đi chứ. Trôi dạt trong một khoảng không vô cùng giữa những vũ trụ bao la, theo đúng nghĩa đen.
“Chúng ta không bị lạc đâu.”
“Tốt.” Cô mỉm cười. “Vậy tôi sẽ tạm thời không phát hoảng nữa.”
Chúng tôi di chuyển trong im lặng một hồi lâu.
Những bức tường kim loại trơn nhẵn và chẳng có gì đặc biệt để phân biệt giữa bức tường này với những bức tường tiếp theo.
Amanda băn khoăn: “Theo anh thì ta có khả năng mở cánh cửa vào những thế giới nào?”
“Tôi vẫn đang cố gắng giải đáp điều này. Cứ cho rằng đa vũ trụ khởi đầu từ một sự kiện duy nhất vụ nổ Big Bang. Đó là điểm khởi đầu, phần gốc của một cái cây to lớn, tinh xảo nhất ta hình dung ra được. Dần dần theo thời gian, vật chất bắt đầu hợp thành các ngôi sao và các hành tinh trong tất cả các trật tự sắp xếp khả thi, cái cây cũng theo đó mà mọc thêm cành, và từ những cành này mọc thêm các nhánh. Và cứ thế, mười bốn tỉ năm trôi qua, cho đến khi ở một nơi nào đó, sự ra đời của tôi vẽ thêm một nhánh mới. Và từ đó, mọi lựa chọn mà tôi đã hoặc không thực hiện, và hành động của những người khác ảnh hưởng đến tôi - tất cả đều làm nảy sinh thêm những nhánh cây mới, với số lượng Jason Dessen vô tận, sống trong các thế giới song song. Một số thế giới sẽ rất giống với thế giới tôi gọi là nhà, và một số thế giới khác thì khác biệt đến mức khó tin.
Mọi việc có khả năng xảy ra đều sẽ xảy ra. Mọi thứ. Ý tôi là, ở một nơi nào đó trong hành lang này, có một phiên bản của cô và tôi đã không vào được trong hộp khi cô tìm cách giúp tôi trốn thoát. Và giờ thì họ đang bị tra tấn hoặc đã chết.”
“Cảm ơn sự động viên tinh thần của anh.”
“Chuyện còn có thể tệ hơn mà. Tôi không nghĩ chúng ta có thể tiếp cận tất cả các nhánh của đa vũ trụ. Ý tôi là, nếu có một thế giới mà ở đó mặt trời thiêu rụi ngay mọi sinh thể lúc còn ở dạng thức sống đầu tiên, khi tế bào nhân nguyên thủy vừa xuất hiện trên Trái Đất, thì tôi nghĩ sẽ chẳng có cánh cửa nào mở ra thế giới đó đâu.”
“Vậy thì ta chỉ có thể bước vào những thế giới mà...”
“Nếu phải đoán thì tôi đoán là những thế giới gần giống với thế giới của ta. Các thế giới đã phân nhánh tại một thời điểm nào đó trong quá khứ gần, ngay sát thế giới của chúng ta. Thế giới chúng ta đang tồn tại, hoặc đã từng tồn tại trong đó. Chúng đã phân nhánh từ điểm nào trong quá khứ thì tôi không biết, nhưng tôi cho là có một số hình thức lựa chọn với các điều kiện nhất định. Đây chỉ là giả thuyết chưa hoàn chỉnh của tôi.”
“Nhưng chúng ta vẫn đang nói về vô số thế giới như vậy, phải không?”
“Ừ thì... đúng vậy.”
Tôi nâng cổ tay cô lên và bật đèn chiếu mặt đồng hồ.
Mặt đồng hồ hình vuông nhỏ xíu với ánh sáng xanh phản quang hiện lên:
Tám mươi tư phút năm mươi giây.
Tám mươi tư phút năm mươi mốt giây.
Tôi lên tiếng: “Thuốc sẽ hết tác dụng trong khoảng năm phút nữa. Tôi đoán là đã đến lúc rồi.”
Tôi tiến về phía cánh cửa tiếp theo, đưa đèn cho Amanda và nắm chặt tay cầm ở cửa.
Gạt tay cầm xuống, tôi kéo cánh cửa mở ra khoảng ba phân.
Tôi thấy sàn nhà bằng bê tông.
Năm centimet.
Một cửa sổ gắn kính quen thuộc đang ở phía trước mặt tôi.
Tám centimet.
Amanda nói: “Đây là nhà xưởng máy bay.”
“Cô muốn làm gì?”
Amanda đẩy tôi sang một bên và bước ra khỏi hộp.
Tôi đi theo cô, ánh đèn từ trên trần rọi xuống chúng tôi.
Phòng điều khiển không một bóng người.
Nhà xưởng máy bay hoàn toàn yên tĩnh.
Chúng tôi dừng lại cạnh góc hộp và ngó qua mép cạnh hộp, về phía cánh cửa hầm.
Tôi bảo với cô: “Ở đây không an toàn đâu.” Những lời của tôi truyền đi trong nhà xưởng như những lời thì thầm trong một thánh đường.
“Vậy ở trong hộp thì an toàn sao?”
Sau một tiếng vang to như tiếng sấm, cánh cửa hầm tách ra và từ từ hé mở.
Những giọng nói hoảng loạn lọt vào qua khe hở.
Tôi nói: “Đi thôi. Ngay bây giờ.”
Một người phụ nữ đang cố hết sức luồn qua khe hở giữa hai cánh cửa.
Amanda thốt lên: “Chúa ơi!”
Cánh cửa hầm chỉ cách chúng tôi mười lăm mét, và tôi biết chúng tôi nên quay trở lại hộp, nhưng tôi lại không thể rời mắt khỏi cảnh tượng kia.
Người phụ nữ len qua khe hở vào trong nhà xưởng máy bay, rồi quay lại để giúp người đàn ông đi ngay sau cô.
Người phụ nữ đó là Amanda.
Khuôn mặt của người đàn ông kia sưng to và biến dạng đến mức tôi suýt không nhận ra anh ta chính là tôi nếu không nhìn vào bộ quần áo giống hệt của tôi lúc này.
Khi họ bắt đầu chạy về phía chúng tôi, tôi bắt đầu tự động lùi dần về cánh cửa hộp.
Nhưng họ chỉ chạy được khoảng ba mét thì người của Leighton lao qua cánh cửa hầm và đuổi theo họ.
Một tiếng súng nổ đã khiến cả Jason và Amanda đứng khựng lại.
Amanda đang đi cùng tôi định lao về phía họ, nhưng tôi đã kịp kéo tay cô lại.
“Ta phải giúp họ.” Cô thì thầm.
“Ta không giúp được đâu.”
Lén nhìn qua góc hộp, chúng tôi quan sát hai kẻ giống hệt mình từ từ quay người lại, đối diện với tay sai của Leighton.
Chúng tôi nên đi.
Tôi biết điều đó.
Một phần trong tôi đang gào thét đòi bỏ đi.
Nhưng tôi không tài nào quay đi được.
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là chúng tôi đã đi ngược dòng thời gian, nhưng dĩ nhiên chuyện ấy là không thể. Chiếc hộp không giúp ta du hành thời gian. Đây chỉ đơn giản là một thế giới nơi Amanda và tôi bỏ trốn muộn một vài tiếng.
Đúng hơn là thử trốn nhưng thất bại.
Người của Leighton đã giương súng lên, và họ đang thận trọng tiến vào trong nhà xưởng, về phía Jason và Amanda.
Khi Leighton bước vào theo sau họ, tôi nghe thấy phiên bản kia của tôi nói: “Cô ấy không có lỗi. Tôi đã đe dọa cô ấy. Tôi bắt cô ấy làm việc này.”
Leighton quay sang nhìn Amanda.
Anh ta hỏi: “Có thật không? Anh ta đã ép cô à? Tôi đã quen biết cô hơn một thập kỷ nay, và chưa từng thấy ai ép được cô làm gì bao giờ.”
Vẻ mặt Amanda thoáng chút sợ hãi, nhưng cũng đầy thách thức.
Giọng cô run lên khi nói: “Tôi sẽ không làm ngơ khi anh tiếp tục làm hại người khác đâu. Tôi đã phát ngán rồi.”
“Ồ, được thôi, vậy thì...”
Leighton đặt tay lên bờ vai rộng của gã đàn ông đang đứng bên phải mình.
Tiếng súng nổ làm tôi chói tai.
Ánh sáng lóe lên từ nòng súng cũng khiến tôi lóa mắt. Amanda kia ngã vật xuống như một cỗ máy vừa bị ai ngắt công tắc, còn Amanda đứng cạnh tôi thì bật ra một tiếng rú khẽ phía sau bàn tay đang bịt chặt lấy miệng.
Khi Jason kia lao về phía Leighton, gã bảo vệ thứ hai bắn ra tia điện nhanh như chớp, khiến anh ta gục xuống sàn nhà xưởng, vừa la hét vừa co giật.
Tiếng rú của Amanda đã khiến chúng tôi bị lộ.
Leighton đang nhìn về phía chúng tôi với vẻ bối rối cực độ.
Anh ta hét lên: “Này!”
Họ lao về phía chúng tôi.
Tôi tóm lấy cánh tay Amanda và kéo cô qua cánh cửa của chiếc hộp và đóng sầm nó lại.
Cửa hộp đã khóa, và dãy cửa dần hiện ra, nhưng thuốc có thể hết tác dụng bất cứ lúc nào.
Amanda đang run cầm cập, và tôi muốn nói với cô rằng mọi chuyện vẫn ổn, nhưng sự thực không phải như vậy. Cô ấy vừa chứng kiến chính mình bị sát hại.
“Đó không phải là cô.” Tôi trấn an Amanda. “Cô đang đứng đây, ngay cạnh tôi. Vẫn còn sống và khỏe mạnh. Đó không phải là cô.”
Ngay cả trong thứ ánh sáng yếu ớt này, tôi vẫn biết là cô đang khóc.
Nước mắt lăn dọc trên gương mặt bám đầy bụi của cô, thành dòng đen như chì kẻ mắt bị lem.
“Đó là một phần của tôi.” Cô nói. “Hoặc đã từng là.”
Tôi nhẹ nhàng với xuống, nhấc cánh tay cô lên và xoay cổ tay lại để xem đồng hồ. Chúng tôi còn có bốn mươi lăm giây là đến thời điểm hẹn giờ chín mươi phút.
Tôi giục: “Ta phải đi thôi.”
Tôi nhào ra hành lang.
“Amanda, đi nào!”
Khi cô đã bắt kịp với tôi, tôi liền mở một cánh cửa.
Chỉ toàn là bóng tối.
Không âm thanh, không mùi vị. Chỉ là một khoảng không trống rỗng.
Tôi đóng sầm cửa lại.
Tôi cố gắng không hoảng loạn, nhưng tôi cần mở thêm nhiều cánh cửa nữa, để có cơ hội tìm một nơi nào đó mà chúng tôi có thể nghỉ ngơi và lấy lại tinh thần.
Tôi mở cánh cửa tiếp theo.
Cách tôi chừng ba mét, đứng trong lùm cỏ phía trước một hàng rào mắt cáo xộc xệch, một con sói đang nhìn tôi chằm chằm bằng đôi mắt to màu hổ phách. Nó khẽ cúi đầu xuống và gầm gừ.
Khi con sói nhảy bổ về phía tôi, tôi đóng sầm cửa lại.
Amanda nắm chặt lấy tay tôi.
Chúng tôi tiếp tục bước.
Tôi nên mở thêm nhiều cánh cửa nữa, nhưng sự thật là tôi cảm thấy sợ hãi. Tôi đã mất niềm tin vào khả năng tìm được một thế giới an toàn.
Tôi chớp mắt và thấy chúng tôi lại đứng trong một chiếc hộp duy nhất.
Thuốc đã hết tác dụng với một trong hai chúng tôi.
Lần này, Amanda mở một cánh cửa.
Tuyết tràn vào trong hộp.
Cái lạnh tê tái ập thẳng vào mặt tôi.
Qua màn mưa tuyết, tôi thoáng thấy bóng cây cối và nhà cửa ở đằng xa.
“Cô nghĩ sao?” Tôi hỏi.
“Tôi nghĩ mình không muốn ở trong cái hộp này thêm một giây chết giẫm nào nữa.”
Amanda bước xuống lớp thảm tuyết mềm như bụi phấn và ngập đến đầu gối cô.
Cô lập tức run lên.
Tôi cảm nhận liều thuốc đang dần tan mất, và lần này thì thấy như một mảnh băng xuyên qua mắt trái của tôi.
Mạnh nhưng chóng vánh.
Tôi theo bước Amanda ra khỏi hộp, và chúng tôi hướng về phía khu có người ở.
Giẫm lên lớp tuyết trên cùng xốp như bông, tôi thấy mình vẫn tiếp tục thụt xuống - sức nặng của mỗi bước chân từ từ xuyên tới một lớp tuyết được lèn chặt dưới sâu hơn, đã có từ trước.
Tôi đã đuổi kịp Amanda.
Chúng tôi khó nhọc bước qua một khoảng trống để đến khu dân cư phía trước, mà nó thì như đang chầm chậm biến mất trước mắt tôi.
Trong lúc tôi được che chắn tàm tạm khỏi giá lạnh nhờ quần bò và áo trùm đầu, Amanda thì đang phải chịu đựng cái lạnh chỉ với chiếc váy đỏ, áo len đen và đôi giày bệt.
Tôi đã sống phần lớn đời mình ở vùng Trung Tây, và chưa gặp cái lạnh như thế này bao giờ. Tai và gò má tôi đã nhanh chóng bị bỏng lạnh, và tôi bắt đầu mất dần cảm giác hoạt bát ở bàn tay.
Một luồng gió mạnh ập thẳng vào chúng tôi, và vì tuyết rơi mỗi lúc một dày, thế giới trước mặt chúng tôi trông cứ như một quả cầu tuyết vừa bị lắc tung.
Chúng tôi tiếp tục dấn bước trong tuyết, cố gắng nhanh hết mức có thể, nhưng tuyết thì mỗi lúc một dày lên và chúng tôi gần như không thể tìm ra phương hướng để đến nơi nào gần nhất được.
Má của Amanda đã xanh xám cả lại.
Cô ấy đang run lẩy bẩy.
Tóc cô bết đầy những tuyết.
“Ta nên quay lại thôi.” Tôi nói qua kẽ răng đang va vào nhau lập cập.
Gió đã thổi mạnh đến mức ù cả tai.
Amanda nhìn tôi đầy bối rối, rồi gật đầu.
Tôi ngoái lại nhìn, nhưng chiếc hộp đã biến mất.
Nỗi sợ trong tôi vụt tăng cao.
Tuyết đang rơi chênh chếch, và những ngôi nhà phía xa đã biến mất.
Dù chúng tôi có nhìn về hướng nào, quang cảnh cũng giống hệt nhau.
Đầu của Amanda hết ngẩng lên lại cúi xuống, còn tôi cứ siết chặt hai tay thành nắm đấm, cố gắng đẩy luồng máu ấm nóng xuống đầu ngón tay, nhưng không ăn thua. Sợi chỉ buộc quanh ngón tay tôi đã có một viền băng đóng quanh.
Những suy nghĩ của tôi bắt đầu phân tán.
Tôi run lên vì lạnh.
Chúng tôi gặp rắc rối lớn rồi.
Trời không đơn thuần chỉ lạnh, mà đang âm hàng chục độ.
Cái lạnh chết người.
Tôi không biết chúng tôi đã đi cách chiếc hộp bao xa.
Chuyện ấy có còn quan trọng nữa không, khi chúng tôi đã mất hoàn toàn phương hướng?
Cái lạnh này sẽ giết chết chúng tôi chỉ sau vài phút nữa.
Chúng tôi cứ đi tiếp.
Mắt của Amanda đang nhìn xa xăm, và tôi tự hỏi đó có phải do cô đang bị sốc không.
Đôi chân trần của cô đang tiếp xúc trực tiếp với tuyết.
“Đau quá!” Cô nói.
Tôi cúi xuống, nhấc cô lên trong vòng tay mình, rồi lảo đảo bước vào cơn bão tuyết. Tôi ôm Amanda thật sát vào mình khi toàn thân cô ấy run rẩy không ngừng.
Chúng tôi đang đứng giữa một cơn lốc của gió, tuyết cùng cái lạnh chết người, và mọi thứ trông đều vần vũ, cuộn xoáy. Nếu không nhìn xuống chân mình, chuyển động của chúng sẽ khiến tôi hoa mắt chóng mặt.
Tôi chợt nhận ra: Chúng tôi sẽ chết.
Nhưng tôi cứ bước tiếp, hết bước này đến bước khác.
Mặt tôi giờ đã bỏng rát vì lạnh, hai cánh tay nhức nhối vì đang giữ lấy Amanda, còn chân tôi tê dại vì tuyết đã lọt vào trong giày.
Vài phút trôi qua, tuyết rơi mạnh hơn và cái lạnh cứ như muốn đâm thủng da thịt tôi.
Amanda đang nói lầm bầm trong cơn mê sảng.
Tôi không thể tiếp tục làm điều này.
Tôi không thể đi tiếp.
Không thể đỡ lấy cô ấy nữa.
Chẳng mấy chốc nữa, tôi sẽ phải dừng lại. Tôi sẽ ngồi trong tuyết và ôm người phụ nữ mà tôi hầu như không quen biết này, rồi chúng tôi sẽ cùng chết vì lạnh trong một thế giới khủng khiếp không thuộc về chúng tôi.
Tôi nghĩ về gia đình mình.
Tôi nghĩ về việc không bao giờ được gặp lại họ, rồi cố diễn giải xem điều đó có nghĩa là gì trong khi dần dần để tuột mất kiểm soát vì nỗi sợ...
Có một ngôi nhà phía trước chúng tôi.
Nói đúng hơn là tầng hai của một ngôi nhà, vì tầng một của nó đã bị vùi trong lớp tuyết cao đến ngang tầm của ba chiếc cửa sổ áp mái.
“Amanda.”
Mắt cô đã nhắm lại.
“Amanda!”
Cô chỉ mở hé đôi mắt.
“Ở lại với tôi nào.”
Tôi đặt cô xuống nền tuyết, dựa vào mái nhà, rồi loạng choạng tiến về phía ô cửa ở giữa, và thọc một chân vào trong.
Khi đã đá hết những mảnh kính sắc nhất ra khỏi khung cửa, tôi giữ chặt lấy hai tay Amanda, đỡ cô ấy dậy rồi kéo cô vào trong một phòng ngủ của trẻ con - xem ra có vẻ là phòng một bé gái.
Đầy những thú nhồi bông.
Một ngôi nhà búp bê bằng gỗ.
Đồ trang trí kiểu công chúa.
Một chiếc đèn pin hình Barbie trên chiếc bàn cạnh giường ngủ.
Tôi kéo Amanda vào sâu trong phòng, để tuyết hắt qua cửa sổ không đến được chỗ cô. Sau đó, tôi cầm lấy chiếc đèn Barbie và đi qua cửa vào một hành lang trên lầu.
Tôi hô lớn: “Xin chào!”
Ngôi nhà đã nuốt chửng mất tiếng gọi của tôi mà không hề có lời đáp lại.
Tất cả các phòng ngủ trên tầng hai này đều trống. Đồ nội thất trong hầu hết các phòng đã bị dọn đi.
Tôi bật đèn pin và đi xuống cầu thang.
Pin đèn khá yếu, bóng đèn chiếu ra tia sáng lờ mờ.
Khi đi hết cầu thang, tôi đi ngang qua cửa trước để vào nơi từng là phòng ăn. Họ đã đóng đinh các tấm gỗ lên các cửa sổ để che chắn cho lớp kính trước áp lực của tuyết, khi mà ngoài kia tuyết đang lấp đầy các khung cửa. Một chiếc rìu được dựng vào phần khung còn lại của một chiếc bàn ăn, nó đã bị chẻ thành những mảnh nhỏ có thể đốt được.
Tôi bước qua một khung cửa dẫn vào một căn phòng nhỏ hơn.
Những tia sáng lờ mờ chiếu vào một chiếc ghế xô pha.
Một đôi ghế gần như bị lột hết lớp da bọc.
Một chiếc ti vi được gắn phía trên lò sưởi đã đầy tràn tro.
Một hộp nến.
Một chồng sách.
Túi ngủ, chăn và gối trải khắp sàn quanh lò sưởi, và có người ở bên trong.
Một người đàn ông.
Một phụ nữ.
Hai cậu thiếu niên.
Một bé gái.
Mắt họ nhắm nghiền.
Không ai cử động.
Mặt họ đã xanh và hóp lại.
Một bức ảnh lồng khung chụp cả gia đình tại Vườn kính Công viên Lincoln[43], vào thời điểm tốt đẹp hơn, nằm trên ngực người phụ nữ, những ngón tay đã tím đen của cô vẫn giữ chặt lấy nó.
Quanh lò sưởi, tôi thấy nhiều hộp diêm, chồng giấy báo, và một chồng gỗ được chẻ nhỏ ra từ một chiếc hộp đựng dao.
Một lối đi thứ hai dẫn từ phòng sinh hoạt chung vào bếp. Tủ lạnh vẫn mở và trống không, các tủ bếp cũng trống hoác.
Trên mặt bếp có đầy những hộp thiếc đã rỗng.
Xúp ngô kem.
Đậu thận.
Đậu đen.
Khoai tây nguyên củ bóc vỏ.
Χúρ.
Đào ngâm.
Những thứ thường bị đẩy vào góc trong cùng của tủ và hết hạn do bị bỏ quên.
Ngay cả những hũ gia vị cũng bị vét sạch - mù tạt, sốt mayonnaise, thạch.
Phía sau chiếc thùng rác đã đầy tràn, tôi thấy một đống xương đã đóng băng có lẽ của một con mèo.
Những người này không chết vì lạnh.
Họ chết vì đói.
* * *
Ánh lửa hắt lên các bức tường của phòng sinh hoạt chung. Tôi đang nằm trần truồng trong hai chiếc túi ngủ lồng vào nhau bên dưới những chiếc chăn.
Amanda cũng đang sưởi ấm cạnh tôi trong hai chiếc túi ngủ của riêng cô.
Đống quần áo ướt của chúng tôi đang được phơi trên lò sưởi bằng gạch, còn chúng tôi nằm đủ gần đống lửa để có thể cảm nhận được hơi nóng của nó táp vào mặt tôi.
Bên ngoài, cơn bão tiếp tục hoành hành, khung nhà ọp ẹp đang kêu lên cót két trước những cơn gió mạnh nhất.
Mắt Amanda mở to.
Cô đã tỉnh lại được một lúc, và chúng tôi đã uống hết hai chai nước. Giờ thì chúng đang đựng đầy tuyết và được đặt cạnh lò sưởi.
“Anh nghĩ điều gì đã xảy ra với những người sống ở đây?” Cô hỏi.
Sự thật là tôi đã kéo những cái xác vào trong phòng làm việc để cô không nhìn thấy.
Nhưng tôi lại nói: “Tôi không biết. Có lẽ họ đã đến một nơi nào đó ấm áp hơn chăng?”
Cô mỉm cười. “Nói dối. Ta có phi thuyền không gian mà còn thấy chết dở.”
“Tôi nghĩ đây chính là minh họa cho cái vẫn được gọi là “đường cong học tập dốc đứng”[44].”
Cô hít một hơi thật sâu rồi thở ra.
Rồi cô nói: “Tôi đã bốn mươi mốt tuổi. Đời tôi không phải là quá tuyệt vời, nhưng nó là của riêng tôi. Tôi đã có một sự nghiệp. Một căn hộ. Một chú chó. Bạn bè. Những chương trình truyền hình ưa thích. Một anh chàng tên John, tôi đã có ba buổi hẹn hò với anh ấy. Rượu vang.” Cô ấy quay sang nhìn tôi. “Tôi sẽ không bao giờ thấy lại những điều đó nữa, phải không?”
Tôi không biết nên trả lời ra sao.
Cô nói tiếp: “Ít ra thì anh cũng có một đích đến trong đầu. Một thế giới mà anh muốn quay lại. Tôi thì không thể quay về thế giới của tôi, vậy thì tôi biết đi đâu?”
Cô nhìn tôi chằm chằm.
Đầy lo lắng.
Mắt không chớp.
Tôi không thể đưa ra câu trả lời.
Lần tiếp theo tôi tỉnh lại, ngọn lửa chỉ còn là một đống than hồng lập lòe, và tuyết ở gần nóc cửa sổ được chiếu sáng từ phía bên kia, hắt lên lấp lánh khi những sợi nắng cố gắng len qua.
Ngay cả khi trong nhà, trời cũng lạnh đến mức khó hiểu.
Thò một tay ra khỏi túi ngủ, tôi chạm vào đống quần áo phơi trên lò sưởi và thở phào khi thấy chúng đã khô. Tôi rút tay lại rồi quay về phía Amanda. Cô đã kéo túi ngủ che kín mặt, và tôi có thể thấy hơi thở của cô tạo thành những cuộn khói đẩy ra ngoài và đọng lại thành những tinh thể băng trên bề mặt túi.
Tôi mặc quần áo vào và nhen một đống lửa mới, rồi hơ tay trong luồng khí nóng, vừa kịp giữ cho ngón tay của tôi không bị tê dại.
Cứ để Amanda ngủ tiếp, tôi bước qua phòng ăn, nơi ánh mặt trời đã len qua lớp tuyết trên cùng của khung cửa sổ, chiếu sáng vừa đủ để tôi thấy đường đi.
Tôi bước lên cầu thang tối om.
Đi dọc theo hành lang.
Trở lại căn phòng của bé gái kia, nơi tuyết đã tràn vào và phủ kín gần hết mặt sàn.
Tôi trèo qua khung cửa sổ và nheo mắt trước ánh sáng chói chang, thứ ánh sáng phản chiếu trên mặt băng chói lòa đến mức tôi không nhìn thấy gì trong suốt năm giây.
Lớp tuyết đã dâng lên đến thắt lưng.
Bầu trời xanh thăm thẳm.
Không có tiếng chim hót.
Không có âm thanh của sự sống.
Thậm chí không có nổi một gợn gió, và chẳng thể nhìn ra lối đi của chúng tôi. Mọi thứ đều bị tuyết bao phủ hoặc vùi lấp.
Nhiệt độ chắc đã hạ dưới không độ rất nhiều, vì ngay cả khi đang đứng trong ánh nắng trực tiếp, tôi cũng không thấy ấm chút nào.
Bên ngoài khu dân cư này, quang cảnh Chicago hiện ra lờ mờ, những tòa tháp đã hứng chịu cơn lốc tuyết và giờ phủ đầy băng, lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Một thành phố trắng lóa.
Một vùng đất của băng tuyết.
Bên kia đường, tôi quan sát thật kĩ khoảng đất trống nơi chúng tôi suýt bị chết cóng ngày hôm qua. Không thấy dấu vết nào của chiếc hộp.
Khi trở lại bên trong, tôi thấy Amanda đã dậy và đang ngồi ở rìa lò sưởi, mấy chiếc túi ngủ và chăn quấn kín quanh người cô.
Tôi vào bếp và tìm ít dao dĩa.
Rồi tôi mở ba lô và lấy ra hai hộp lương khô.
Chúng đã lạnh ngắt, nhưng rất giàu năng lượng.
Chúng tôi ăn ngấu nghiến như chết đói.
Amanda hỏi: “Anh có thấy chiếc hộp không?”
“Không, tôi nghĩ nó đã bị vùi trong tuyết.”
“Tuyệt vời!” Cô ấy nhìn tôi, rồi lại quay mặt về phía ngọn lửa và nói. “Tôi không biết nên giận anh hay là cảm ơn anh.”
“Cô đang nói đến chuyện gì cơ?”
“Khi anh ở trên gác, tôi phải dùng phòng vệ sinh. Và tôi tình cờ bước vào phòng làm việc.”
“Vậy là cô đã nhìn thấy họ.”
“Họ chết vì đói, phải không? Trước khi họ hết nhiên liệu để đốt lửa.”
“Có vẻ là như vậy.”
Khi tôi nhìn đăm đăm vào ngọn lửa, tôi cảm thấy như có thứ gì đó len lỏi vào đầu óc tôi.
Một ý tưởng lóe lên.
Nó đã nhen nhóm từ khi tôi ở bên ngoài ban nãy, lúc nhìn ra khoảng đất trống và nghĩ về việc chúng tôi suýt chết giữa cơn bão tuyết.
Tôi lên tiếng: “Cô có nhớ những gì cô đã nói về hành lang trong hộp không? Cách nó nhắc cô nhớ đến chuyện bị mắc kẹt trong cơn bão tuyết ấy?”
Cô ngừng ăn và nhìn tôi.
“Những cánh cửa trong hành lang là gạch nối đến vô số thế giới song song, phải không? Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta xác định được những kết nối này?”
“Bằng cách nào?”
“Nếu như việc đó giống như khi ta xây dựng giấc mơ, nơi mà chúng ta bằng cách nào đó có thể chọn được những thế giới cụ thể thì sao?”
“Ý anh là... trong vô số thực tại ngoài kia, tôi đã chủ tâm chọn lấy nơi khủng khiếp này?”
“Không phải chủ tâm. Có thể đó chỉ là một hình ảnh phản chiếu cho những gì cô cảm thấy vào lúc mở cửa.”
Cô ăn nốt miếng lương khô cuối cùng và ném chiếc túi rỗng vào trong ngọn lửa.
Tôi tiếp tục nói: “Hãy nghĩ về thế giới đầu tiên ta thấy - một Chicago hoang tàn, những tòa nhà thi nhau sụp đổ quanh ta. Khi ta bước vào nhà để xe kia, ta đang ở trong tâm trạng nào?”
“Sợ hãi. Khiếp đảm. Tuyệt vọng. Chúa ơi! Jason.”
“Sao thế?”
“Trước khi ta mở cánh cửa dẫn vào nhà xưởng máy bay và thấy các phiên bản khác của ta bị bắt, anh đã đề cập đến khả năng điều đó xảy ra.”
“Vậy sao?”
“Anh đã nói về khái niệm đa vũ trụ, và mọi thứ có khả năng xảy ra đều sẽ xảy ra. Rồi anh nói rằng ở đâu đó có một phiên bản của anh và tôi chưa bao giờ vào được trong hộp. Một lát sau, anh mở một cánh cửa và chúng ta đã thấy chính kịch bản đó diễn ra.”
Tôi cảm nhận được một làn sóng chạy dọc sống lưng trước điều vừa nghiệm ra.
Tôi nói: “Suốt bao lâu nay, chúng ta cứ băn khoăn cái gì đã quyết định thứ nằm sau cánh cửa...”
“Nhưng chúng ta chính là những người nắm quyền kiểm soát.”
“Phải. Và nếu như vậy thì ta có khả năng đến được bất cứ nơi nào ta muốn, bao gồm cả nhà tôi.”
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đã đứng giữa khu dân cư yên tĩnh này, thân dưới chìm sâu trong tuyết và run như cầy sấy, dù chúng tôi đã khoác lên người hết lớp này đến lớp khác các món quần áo mùa đông tìm được trong tủ đồ của gia đình tội nghiệp nọ.
Ở khoảng đất trống trước mặt chúng tôi, không còn dấu chân của chúng tôi. Không có dấu vết nào của chiếc hộp. Không gì ngoài một tấm thảm tuyết mịn trải dài.
Khoảng đất quá rộng, còn chiếc hộp lại quá nhỏ.
Khả năng chúng tôi may mắn giẫm lên nó gần như bằng không.
Mặt trời vừa mới ló lên qua rặng cây, và trời lạnh đến mức khó tin.
“Ta nên làm gì đây, Jason? Đoán bừa rồi bắt đầu đào à?”
Tôi ngoái lại nhìn ngôi nhà đã bị vùi trong tuyết một lần nữa, và trong thoáng chốc, tôi băn khoăn liệu chúng tôi có thể tồn tại ở thế giới này trong bao lâu. Bao lâu trước khi hết củi đốt? Trước khi hết đồ ăn? Trước khi chúng tôi bỏ cuộc và chết như những người khác?
Một thứ áp lực đen tối đang dâng dần lên trong ngực tôi - nỗi sợ đang dồn về.
Tôi hít một hơi thật sâu vào đầy lồng ngực, và không khí lạnh đến mức tôi bị ho.
Cơn hoảng loạn tấn công tôi từ mọi phía.
Việc tìm chiếc hộp là bất khả thi.
Ngoài trời lại quá lạnh.
Chúng tôi sẽ không có đủ thời gian, và khi cơn bão tiếp theo kéo đến, rồi một cơn bão khác, cái hộp sẽ bị chôn sâu đến nỗi chúng tôi sẽ chẳng bao giờ còn cơ hội tìm thấy nó.
Trừ khi...
Tôi tuột chiếc ba lô khỏi vai, thả nó xuống nền tuyết và dùng những ngón tay run run mở khóa ra.
“Anh đang làm gì vậy?” Amanda hỏi.
“Thử vận may.”
Chỉ mất một giây, tôi đã tìm được thứ mình cần.
Cầm chiếc la bàn trong tay, tôi bỏ lại Amanda cùng chiếc ba lô phía sau, rồi lội vào giữa khoảng đất.
Cô bám theo tôi, vừa đi vừa hô to bảo tôi chờ.
Khi đi được mười lăm mét, tôi dừng lại để chờ cô.
“Nhìn này!” Tôi nói, đưa tay chỉ vào mặt la bàn. “Chúng ta đang ở Nam Chicago, đúng không?” Tôi chỉ về phía thành phố đằng xa. “Vậy thì cực bắc của nam châm phải ở đằng kia. Nhưng la bàn lại không chỉ về hướng ấy. Cô thấy kim chỉ về phía đông, hướng hồ không?”
Khuôn mặt cô sáng lên. “Phải rồi. Do từ trường của chiếc hộp đã đẩy kim la bàn ra xa khỏi nó.”
Chúng tôi đi xuyên qua lớp tuyết mịn và dày.
Đến giữa khoảng đất trống, kim la bàn dao động từ hướng đông sang tây.
“Ta đang ở ngay phía trên nó.”
Tôi bắt đầu đào, đôi tay trần đau nhức vì tuyết, nhưng tôi không dừng lại.
Khi đào xuống khoảng một mét hai, tôi va phải mép chiếc hộp, và tôi tiếp tục đào nhanh hơn, kéo tay áo xuống để bảo vệ đôi bàn tay đang chuyển từ trạng thái đau đớn sang tê liệt vì lạnh.
Khi những ngón tay đã đóng băng một nửa của tôi cuối cùng sượt qua phần trên của cánh cửa đang mở, tôi liền hét vang vọng khắp cả không gian băng giá xung quanh.
Mười phút sau, chúng tôi đã trở lại trong hộp, uống ống thuốc số bốn mươi sáu và bốn mươi lăm.
Amanda lại đặt đồng hồ đếm ngược, tắt đèn để tiết kiệm pin. Khi chúng tôi ngồi cạnh nhau trong bóng tối giá lạnh, chờ thuốc có tác dụng, cô nói: “Tôi không nghĩ là lại mừng đến thế khi nhìn thấy chiếc tàu cứu hộ chết tiệt của ta lần nữa.”
“Chứ còn gì?”
Cô tựa đầu vào vai tôi.
“Cảm ơn anh, Jason.”
“Vì sao?”
“Vì đã không để tôi chết cóng ngoài kia.”
“Vậy chúng ta huề nhé?”
Cô phá lên cười. “Còn lâu. Ý tôi là, đừng quên rằng tất cả những chuyện này là lỗi của anh.”
Việc ngồi giữa bóng tối và sự yên lặng tuyệt đối trong chiếc hộp đúng là một cách kỳ lạ để rèn luyện cách ly giác quan. Những cảm giác vật lý duy nhất là cái lạnh từ kim loại ngấm qua quần áo của tôi và sức nặng khi Amanda tựa đầu lên vai tôi.
“Anh khác anh ta.” Cô nói.
“Ai cơ?”
“Jason ở thế giới của tôi.”
“Khác như thế nào?”
“Mềm mỏng hơn. Anh ta có một mặt thật sự cứng rắn khi ta tìm hiểu kĩ về anh ta. Con người sống vì tham vọng nhất mà tôi từng gặp.”
“Cô là bác sĩ tâm lý của anh ta à?”
“Đôi lúc.”
“Anh ta có hạnh phúc không?”
Tôi cảm nhận được cô đang cân nhắc câu hỏi của tôi trong bóng tối.
“Sao nào?” Tôi hỏi. “Tôi đang đặt cô vào thế bí khi phải tiết lộ thông tin của bệnh nhân à?”
“Về lý mà nói, hai anh là cùng một người. Đây đúng là một ca đặc biệt. Nhưng không. Tôi không thể nói là anh ta hạnh phúc được. Cuộc sống của anh ta khá phong phú về mặt trí tuệ nhưng chỉ có một chiều. Tất cả những gì anh ta làm là nghiên cứu. Trong năm năm trở lại đây, anh ta không có đời sống phía bên ngoài bức tường phòng thí nghiệm. Anh ta gần như sống luôn ở đó.”
“Cô biết không? Jason của cô là người đã làm điều này với tôi. Tôi ở đây lúc này bởi vì vài ngày trước, có ai đó đã dùng súng bắt cóc tôi khi tôi đang đi bộ về nhà. Anh ta đưa tôi đến một nhà máy điện bỏ hoang, chuốc thuốc mê cho tôi, hỏi tôi một loạt câu hỏi về cuộc sống của tôi và những lựa chọn tôi đã đưa ra. Anh ta hỏi xem tôi có hạnh phúc không, có lựa chọn khác đi nếu có cơ hội không. Ký ức của tôi về lúc ấy giờ đã trở lại. Rồi tôi thức dậy trong phòng thí nghiệm của các cô. Trong thế giới của cô. Tôi nghĩ Jason của cô đã làm điều này với tôi.”
“Anh đang định nói rằng anh ta đã vào hộp, bằng cách nào đó tìm được thế giới của anh, cuộc đời của anh, và đổi chỗ với anh?”
“Cô nghĩ anh ta có khả năng đó không?”
“Tôi không biết. Chuyện đó thật điên rồ.”
“Còn ai khác có thể làm chuyện này với tôi?”
Amanda yên lặng một lúc.
Cuối cùng, cô lên tiếng: “Jason bị ám ảnh với con đường mà anh ta đã không lựa chọn. Lúc nào anh ta cũng nói về việc đó.”
Giờ thì tôi thấy cơn giận của mình đã quay trở lại.
Tôi nói: “Vẫn có một phần trong tôi không muốn tin điều này. Ý tôi là, nếu anh ta muốn cuộc đời của tôi, sao không giết quách tôi đi? Nhưng anh ta lại nhọc công tiêm thuốc cho tôi, không chỉ là thứ thuốc trong ống này, mà còn cả ketamine, khiến tôi bất tỉnh và làm ký ức của tôi về chiếc hộp cũng như những điều anh ta đã làm trở nên mơ hồ. Rồi anh ta còn đưa tôi trở lại thế giới của chính anh ta. Vì sao thế?”
“Điều đó thật ra lại khá dễ lý giải.”
“Cô nghĩ thế sao?”
“Anh ta không phải là một con quái vật. Nếu anh ta làm điều này với anh thì trước đó anh ta đã phải tìm cách hợp lý hóa nó rồi. Đó là cách một con người chân chính biện hộ cho hành vi xấu. Ở trong thế giới của anh, anh có phải một nhà vật lý nổi tiếng không?”
“Không, tôi dạy ở một trường đại học hạng hai.”
“Anh có giàu có không?”
“Xét cả về mặt học thuật và tài chính, tôi chẳng là gì so với Jason của cô.”
“Vậy anh thấy rồi đấy. Anh ta tự nhủ rằng anh ta đang trao cho anh một cơ hội để đời. Anh ta muốn thử sống cuộc đời anh ta đã không chọn, cớ gì anh lại không muốn? Tôi không nói rằng làm vậy là đúng. Tôi chỉ nói đó là cách một người tốt tự tạo cái cớ để mình làm những việc kinh khủng. Ấy là kiến thức cơ bản về hành vi con người.”
Hẳn là cô đã cảm nhận được cơn giận của tôi ngày một tăng, nên cô nói tiếp: “Jason, anh không thể nổi điên lúc này được. Trong vòng một phút nữa, ta sẽ trở lại hành lang kia. Chúng ta là những người nắm quyền kiểm soát. Chính anh đã nói vậy, đúng không?”
“Phải.”
“Nếu đó là sự thật, rằng trạng thái cảm xúc của chúng ta sẽ quyết định thế giới sau cánh cửa, thì cơn thịnh nộ và ghen tức của anh sẽ đưa chúng ta đến nơi nào? Anh không thể bám chặt lấy thứ năng lượng này khi mở một cánh cửa mới. Anh phải tìm cách loại bỏ nó đi.”
Tôi có thể cảm thấy thuốc đang phát tác.
Các cơ trong người tôi thư giãn dần.
Trong phút chốc, cơn giận của tôi đã biến thành một dòng sông hiền hòa, tĩnh lặng mà tôi sẽ tìm mọi cách để giữ lấy, để đưa tôi vượt qua chuyện này.
Khi Amanda bật đèn lên, các bức tường vuông góc với cánh cửa đã biến mất.
Tôi nhìn xuống chiếc túi da đựng các ống thuốc còn lại và nghĩ: “Nếu tên khốn đã làm điều này với tôi tìm ra cách điều hướng cái hộp thì tôi cũng sẽ tìm được.”
Amanda quan sát tôi trong thứ ánh sáng màu xanh.
Tôi nói: “Ta còn lại bốn mươi bốn ống thuốc. Hai mươi hai cơ hội để sửa chữa việc này. Gã Jason đã mang theo bao nhiêu ống thuốc vào trong hộp với hắn?”
“Một trăm ống.”
Khỉ thật!
Tôi thoáng thấy cơn hoảng loạn nhen nhóm trong tôi, nhưng tôi vẫn cố quên đi mà mỉm cười.
“Thật may là tôi thông minh hơn hắn ta nhiều, phải không?”
Amanda phá lên cười, rồi đứng dậy và chìa tay ra để kéo tôi lên.
“Chúng ta có một giờ.” Cô nói. “Anh sẵn sàng chưa?”
“Cực kỳ sẵn sàng.”