Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng - Chương 06
Trưa hôm sau chúng tôi đi ăn ở tiệm Bev Brown Derby. Đó là một tiệm thưa khách với không khí trầm lặng, chậm chạp. Thực khách tới ăn ở đây có một số khách quen cố định, và trông người nào cũng hình như muốn ngủ cả. Vào buổi trưa, tiệm có vẻ bừng lên đôi chút. Mấy người đàn bà làm một màn trình diễn lâu vào khoảng năm phút đầu bữa ăn. Nhưng cả ba chúng tôi đều dửng dưng không chú ý tới. Tôi thì nóng lòng chỉ muốn hỏi ngay những điều tò mò cần biết. Marth Dodd là một cô gái ở đồng ruộng mới tới đây. Nàng chẳng hiểu gì cả và chỉ biết mở thiệt to đôi mắt nhìn mọi chuyện. Nàng vẫn cho rằng cuộc đời ở đồng ruộng mà nàng đã sống mới là cuộc sống thực sự, còn những ngày ở đây chẳng qua là một sự chờ đợi dài. Nàng nói:
- Vào năm 1928 nhà em có ba mươi mẫu đất, một sân rộng với phong cảnh tuyệt đẹp và cả hồ tắm nữa. Mùa xuân nào em cũng ở giữa rừng hoa cúc dại mọc cao tới đầu.
Tôi cắt đứt câu chuyện bằng cách bảo nàng tới gặp Ba. Đây là một hành động để chuộc lỗi với nàng, đồng thời che đậy sự dụng tâm lợi dụng khác của tôi. Ở Hollywood này không ai nhị tâm, quanh co như vậy, muốn gì cứ việc nói thẳng ra, bằng không thì rồi thiên hạ cũng biết và sẽ coi bạn chẳng còn ra gì. Sự vòng vo chỉ làm cho bạn mất thì giờ thấy rõ.
Chúng tôi chia tay với Jane ở cổng phim trường, nàng có vẻ nhờm chán cho sự hèn nhát của tôi. Martha thì như mở cờ trong bụng vì hy vọng sắp kiếm được việc làm, một hy vọng không lớn lắm vì đã bảy năm trời bị mọi chỗ từ chối, nhưng lúc này nàng âm thầm chấp nhận một sự nôn nóng trong hy vọng, và tôi sẽ hết sức nói với Ba. Họ không bao giờ thi ân cho những người đi kiếm một việc làm cố định như Martha, vì họ tiếc không muốn bỏ ra những số tiền lớn trong một lúc. Nhưng họ để cho người ta đi lang thang, sống lây lất với những số tiền nhỏ kiếm được nhờ làm những công việc lặt vặt. Như thế chẳng thà kiếm tàu chở họ ra khỏi thành phố lại còn có phần nhân đạo hơn. Riêng tôi trong vụ hè đó, Ba tôi đã rất hãnh diện đi khoe cùng khắp là tôi kiếm được đủ tiền mua các đồ nữ trang đắt tiền. Và Bennington, Chúa ơi, tội nghiệp, anh chàng quý phái. Tôi bảo đảm với anh ta rằng mình vẫn sống rất bình thường, mặc áo may-ô, ăn thịt gà thường lệ, và giấu biệt không hề nói tới những bộ quần áo xếch xy, diêm dúa. Tuy nhiên chính Ba đã lo cho anh ta tốt nghiệp đại học. Ông thường nói một cách sung sướng: “Con sẽ có đầy đủ mọi thứ hết”. Phải, tôi nghĩ thầm, trong những cái ông chuẩn bị cho tôi có cả hai năm theo học ở Florence tại một trường mà tôi phải cố gắng hết sức mới còn là người giữ được trinh duy nhất trong trường và cuộc tập sự tại Boston, Massachusetts. Tôi thực đã trở thành một bông hoa mắc tiền trong giới thượng lưu quý phái.
Vì vậy tôi chắc chắn thế nào Ba tôi cũng vì tôi mà làm một cái gì đó cho Martha Dodd, và chúng tôi mạnh dạn tiến vào văn phòng của ổng. Tôi lại còn có mộng lớn là kiếm việc làm cho cả chàng cao bồi Johnny Swanson nữa, rồi lại còn cả Evelyn Brent, và một số các bạn hữu khác. Ba là người rất có duyên, và nhiều thiện cảm, ngoại trừ một lần tôi gặp ông bất ngờ ở New York, lần đó có một cái gì khiến tôi có cảm tưởng ổng không đáng làm cha mình. Dù sao ổng cũng vẫn là ba của tôi, vì tôi ổng có thể làm bất cứ việc gì trên cõi đời này.
Trước khi vào phòng Ba tôi, chúng tôi đi qua phòng ngoài của hai cô thơ ký và nhận thấy chỉ có một mình Rosemary Schmiel đang nghe điện thoại ở bàn giấy của cô Birdy Peter. Rosemary ra hiệu khoát tay bảo chúng tôi ngồi chờ nhưng tôi đã có chủ kiến riêng và bảo Martha cứ việc đi theo tôi, rồi tôi ấn nút chuông ở phía dưới bàn giấy Rosemary và mở cửa phòng Ba tôi tiến vào. Rosemary gọi giật lại:
- Ba cô mắc đi họp... À, không họp, nhưng tôi cần phải...
Cô ta nói được đến đây thì tôi đã đi qua một phòng nhỏ ngăn cách giữa phòng thơ ký và văn phòng làm việc của Ba tôi; qua một lần cửa nữa và thấy Ba mồ hôi nhễ nhại, mặc có mỗi một chiếc áo sơ-mi trần, đang cố gắng mở một cánh cửa sổ. Hôm đó trời nóng, nhưng không đến nỗi nóng quá như vậy, và tôi tưởng rằng ông bị đau. Nhưng Ba tôi trả lời:
- Không, Ba không sao cả. Có chuyện gì vậy?
Tôi liền đem tất cả câu chuyện trình bày về trường hợp kiếm việc của Martha và những người cùng hoàn cảnh như cô ta. Họ cứ phải đi lui, đi tới văn phòng của ông mãi để xin việc hoài. Tại sao không cho họ một việc làm thường xuyên, chắc chắn. Ông có vẻ cảm động khi nghe tôi nói và luôn luôn gật đầu đồng ý. Tôi cảm thấy gần gũi với ổng hơn lúc nào hết. Tôi tiến đến ôm hôn vào má ổng. Mồ hôi ông vã ra ướt đẫm cả áo sơ-mi và người hơi run run. Tôi nói:
- Ba không được khỏe lắm. Hay là có chuyện gì bực mình?
- Không, Ba vẫn khỏe.
- Vậy thì chuyện gì?
- Chà, cái thằng khốn nạn Monroe, thằng lỏi con, nó kiếm chuyện với Ba hoài.
Tôi hỏi lại với giọng lạnh lùng:
- Chuyện gì xảy ra?
- Thằng oắt con, lúc nào hắn cũng ngồi lù lù như ông cố đạo rồi chỉ tay ra lệnh, sẽ làm cái này, sẽ bỏ cái kia. Ba bực muốn điên lên rồi, Ba không thể nói được nữa. Đi ra ngoài với Ba một lát.
- Người Ba như thế này mà đi đâu?
- Đi ra, Ba kể cho con nghe. Ba đừ, nhưng hắn cũng hết ăn uống nổi.
- Ba đi chải đầu và sửa lại quần áo đi. Con muốn Ba nói chuyên với Martha Dodd một lát.
- Ngay ở đây bây giờ sao? Ba có bao giờ trốn cô ta dâu!
- Thì ở ngoài kia vậy. Ba đi rửa mặt và thay cái sơ-mi khác đi.
Với một dáng điệu thất vọng ra mặt, ông đi vào phòng tắm được thiết trí sát ngay văn phòng. Không khí trong phòng oi bức lạ, hình như căn phòng đã được đóng kín cửa cả tiếng đồng hồ vậy. Tôi nghĩ có lẽ tại vậy mà Ba tôi bị đau nên đi mở thêm hai chiếc cửa sổ nữa ra.
Tiếng Ba tôi vọng ra từ trong phòng tắm:
- Con ra trước đi, một lát Ba ra liền bây giờ.
- Ba liệu xử đẹp với nàng. Nhưng đừng có tỏ vẻ thương hại đấy.
Làm như thể tiếng của Martha vậy, tôi vừa chợt nghe có tiếng người rên se sẽ ở đâu đây ngay trong phòng này. Tôi nín thở, và hồi hộp lắng nghe. Tiếng rên lại nổi lên, rồi nghe rõ ràng không phải từ trong phòng tắm vọng ra, cũng không phải từ phòng ngoài đưa vào. Nhưng nó phát ra từ một cái tủ đứng kê ngay phía trước mặt tôi. Không hiểu sao lúc đó tôi lại can đảm đến như vậy. Tôi chạy ngay lại, mở phăng cánh tủ ra, cô thơ ký Birdy Peters của Ba tôi trần truồng như nhộng từ trong tủ té lăn ra ngoài, y như thể một xác chết trong xi-nê. Cùng ùa ra theo với nàng là một làn hơi nghẹt thở, tù túng từ trong tủ kín. Nàng ta nằm ngay đơ trên lối đi trong phòng, mình mẩy ướt đẫm mồ hôi, một tay hãy còn cầm cái áo, hay cái quần gì đó và ngay lúc ấy thì Ba tôi từ trong phòng tắm chạy ra. Tôi cảm thấy ổng đứng ở đàng sau, và không cần quay lại tôi cũng có thể tưởng tượng được nét mặt ổng, vì tôi đã từng làm ổng ngạc nhiên trước đây ở New York. Tôi nói nhanh:
- Mặc đồ vào. Mặc đồ cho cô ta!
Vừa nói tôi vừa vớ một miếng vải ở chiếc đi-văng gần đó ném cho cô ta.
Tôi ra khỏi văn phòng. Nhìn thấy nét mặt của tôi, Rosemary Schmiel tỏ vẻ sửng sốt. Sau đó không bao giờ tôi găp lại cô ta và cả Birdy Peters. Vừa đi ra ngoài, Martha vừa hỏi: “Chuyên gì vậy chị?”. Thấy tôi không nói gì, nàng tiếp: “Như thế là chị đã hết sức giúp em rồi, mà không được thì thôi, tại có lẽ mình tới không nhầm lúc. Để em đưa chị lại thăm một con bạn rất đẹp của em, con nhỏ mà tối hôm đó đã nhảy với Stahr và ngồi chung bàn với em đó, chị có thấy không?”
Thế là nàng đã thỏa mãn ý nguyện của tôi. Duy có điều là nhờ ở sự việc tôi đã bới nước cống trong gia đình lên để ngửi.
° ° °
Tôi không còn nhớ nhiều về việc tới nhà Kathleen. Một trong những lý do là vì hôm đó nàng đã đi vắng. Cửa không khóa, Martha vừa đẩy vào, vừa gọi một cách rất thân mật: “Kathleen”. Căn phòng trông có vẻ trơ trọi, giống như những phòng ở khách sạn. Cũng có bình bông, nhưng hình như loại bông mua ở chợ, chớ không phải loại bông được người khác gởi tới tặng. Martha tìm thấy trên bàn một miếng giấy viết “Xin để địa chỉ lại. Tôi đi kiếm việc. Mai trở về”.
Martha đọc đi đọc lại mảnh giấy, nhưng hình như không phải nàng viết cho Stahr. Căn nhà mà chủ đi khỏi sao có vẻ vắng lặng thiệt. Không phải có ý nghi ngờ nàng ẩn núp đâu đây, nhưng tôi cũng để ý quan sát một lượt xem có gì giá trị không. Chỉ thấy vẻ im vắng. Một con ruồi từ đâu bay tới đậu trên nền nhà, không buồn để ý tới chúng tôi, trong khi cơn gió thổi bay một góc chiếc màn cửa. Martha lên tiếng:
- Không biết con nhỏ đi kiếm việc gì? Hôm Chủ nhật nó còn đi chơi với Stahr mà.
Nhưng tôi không còn để ý gì nữa, và chợt cảm thấy mộr cái gì kinh khủng rình rập đâu đây - máu của nhà tư bản, tôi nghĩ tới một cách ghê sợ. Thình lình tôi hốt hoảng kéo Martha ra ngoài sân. Nhưng không kịp nữa, tôi cảm thấy mặt mũi tối tăm, trước mắt toàn một màu đen ghê gớm, và chợt nhớ lại thân hình trần truồng của cô thơ ký. Tôi thường có những ý nghĩ tốt đẹp về thân hình của mình, cho rằng nó có những đường cong rất mỹ thuật. Tôi thật không thể nào tưởng tượng nổi có người lại đem nhốt mình trần truồng kín mít trong một cái hộc ở tường giữa lúc đang làm việc ban ngày ban mặt.
° ° °
Stahr mỉm cười, nhìn Boxley:
- Nếu có ghé qua tiệm thuốc, làm ơn xin dùm cái đơn thuốc với nhá.
- Có cần đến dược sĩ điều chế không?
- À, nếu có gặp dược sĩ thì xin dùm toa thuốc cho một người đang bị đau nặng.
- Nặng lắm không?
- Nặng lắm. Và sau đó, nhớ rằng những gì bạn đã nhìn thấy qua cửa sổ khiến bạn khoái tỷ, chăm chú theo dõi, có thể quay thành phim được đấy nhé.
- Bộ anh muốn nói tới vụ án mạng ngoài cửa sổ hả?
Stahr mỉm cười:
- Đó là tại bạn nghĩ vậy. Có thể tôi chỉ muốn nói tới chuyện con nhện giăng tơ trên ô kính cửa thì sao?
- Dĩ nhiên. Tôi thấy hết mà, yên trí.
- Bạn thấy thì mặc kệ bạn, không liên quan gì đến tụi này đâu nghe. Chuyện ổ nhện thì bạn dòm một mình trong khi vụ án mạng thì lại định đổ lên đầu tụi tui là không được đâu.
- Có lẽ tôi nên rút là vừa. Đã ba tuần lễ rồi, chẳng làm dược việc mẹ gì. Bao nhiêu ý kiến đưa ra, bọn soạn giả chẳng ai chịu viết cả.
- Tôi cần bạn ở lại, vì bạn biết nhiều chuyện khác ngoài vấn đề làm phim...
Boxley nói lớn:
- Mấy chuyện đó nhức óc thấy mẹ. Bạn không có quyền để tình trạng này...
Boxley chợt nghĩ lại. Anh ta biết Stahr hiện là người lèo lái con thuyền của công ty. Chàng đang đợi cơn gió dữ qua đi, chuẩn bị lại thuyền bè cho chuyến vượt biển với những kế hoạch khéo léo. Bằng không thì cả công ty sẽ sụp đổ và biến thành một đồng đất đá ngổn ngang, trong đó có thể tìm thấy cả những hòn cẩm thạch quý giá từng được gọt dũa để trang hoàng nơi các đền đài trong quá khứ. Boxley lên tiếng:
- Tôi mong anh sẽ bắt tay xúc tiến ngay chương trình thực hiện ào ạt.
- Phải chờ có đủ điều kiện làm việc. Thí dụ bây giờ anh là họa sĩ tài ba như Rubens chẳng hạn, nhưng lúc anh đang thích vẽ chân dung của Đức Jésus mà tôi lại bắt anh đi vẽ bọn trọc phú như Bill Brady, hay tôi, hay Gary Cooper, hay Marcus thì thử hỏi anh có lòng dạ nào mà vẻ không? Vấn đề điều kiện cho việc thực hiện hằng loạt của chúng ta bây giờ là phải tìm được những câu chuyện hay truyền tụng trong dân chúng. Sau đó chúng ta mới đem thi vị hóa, làm cho nó trở nên huy hoàng, lộng lẫy, rồi trả lại cho họ xem. Và sau đó là địa, phải chi địa thật nhiều, bạn có không, Boxley?
Boxley thầm nghĩ: tối nay thế nào mình cũng ngồi với Wylie ở quán Troc để tán dóc về việc làm và thái độ của Stahr. Nhưng dù sao thì Boxley cũng là người đã từng đọc Lord Chanwood và anh ta phải công nhận rằng trường hợp của Stahr hiện tại cũng giống như hoàn cảnh Tổng thống Lincoln trước kia, một mình với hai bàn tay đơn độc mà phải chiến đấu trong một trận chiến có nhiều mặt trận. Chính Stahr là người đã đưa điện ảnh tới chỗ phát triển mạnh mẽ trong vòng mười năm qua. Ngày nay nội dung của những cuốn phim thuộc “loại A” đã trở nên phong phú, xúc tích hơn cả những gì đang diễn ra trên sân khấu kịch trường. Lincoln dù sao cũng còn là một ông tướng hay nếu muốn có thể trở thành người thường, ngược lại Stahr chỉ là một nghệ sĩ.
Stahr lên tiếng:
- Tụi mình xuống chỗ thằng La Borwitz một chút coi. Chắc nó đang đói địa đây.
La Borwitz và hai soạn giả nữa cùng với một cô thơ ký tốc ký và một ông giám thị đang ngồi bí xị không biết viết tiếp ra làm sao. Stahr biết họ ngồi như vậy đã từ mấy tiếng đồng hồ rồi. La Borwitz rụt rè lên tiếng:
- Có nhiều nhân vật quá, không biết phải làm sao bây giờ!
Stahr khịt mũi se sẽ:
- Đứng. Nhiều nhân vật chính là chỗ dụng ý của cuốn phim.
Nói xong, Stahr móc trong túi ra một đồng năm mươi xu, ngẩng nhìn ngọn đèn treo lủng lẳng giữa phòng và liệng lên, mọi người nghe một tiếng keng, đồng bạc đã rơi vào cái dĩa đựng ngọn đèn. Chàng nhìn những đồng bạc lẻ đang cầm trong tay và chọn một đồng hai mươi lăm xu.
La Borwitz nhìn Stahr một cách bi quan. Việc dựng lên nhiều nhân vật trong cuốn phim này chính là sáng kiến đắc ý của Stahr. Bây giờ sáng kiến đó đang trở thành chuyện xây lâu đài trên bãi cát. La Borwitz thừa lúc mọi người đứng quay lưng về phía mình, anh ta co hai bàn tay vung mạnh lên cao khỏi đầu, thật cao đến độ hai bàn tay như lìa khỏi cổ tay bay lên, và anh ta lại bắt lấy, ráp vào khi nó đang rơi xuống. Sau động tác đó, anh ta cảm thấy trong người dễ chịu hơn.
Một anh soạn giả đã lấy ra mấy đồng bạc cắc cầm trong tay, và sau đó luật chơi được công bố ngay: Phải ném đồng bạc qua những sợi dây treo đèn, làm sao cho nó không chạm vào sợi dây mà lại rơi vào trúng dĩa đựng đèn là ăn, và tất cả những người khác phải chung tiền.
Cuộc chơi kéo dài sôi nổi khoảng nửa tiếng. Chỉ có một mình Boxley không chơi, anh ta ngồi chúi mũi vào tập chuyện phim, cô thơ ký ngồi đếm từng ván một. Cô ta làm một con toán nhẩm và thấy khoảng thời gian bốn người chơi như vậy công ty vẫn phải trả cho họ số tiền tới sáu, bảy trăm đô la. Cuối cùng La Borwitz ăn được tất cả năm đô-la rưỡi, và một người lao công đem thang tới, trèo lên lấy số tiền trong dĩa đèn xuống.
Đột nhiên Boxley lên tiếng:
- Các anh viết cái gì mà tôi đọc chỉ thấy loạn xà ngầu lên, như món gà tây nhồi nhân thập cẩm vậy.
- Anh nói sao?
- Đây không phải là chuyện phim.
Mọi người nhìn về phía Stahr và chàng cố giấu một nụ cười.
La Borwitz nói lớn:
- Vậy thì ở đây chỉ còn có mình bạn là tổ sư điện ảnh thôi, chớ còn ai nữa đâu!
Boxley trả lời thẳng thắn:
- Rất nhiều câu nói hay ho, nhưng không có dịp thuận tiện thích hợp để nói lên. Không phải phim, mà cũng chẳng ra tiểu thuyết. Thiệt tình tôi không biết mô tả làm sao, nhưng quả thực có cái gì không ổn. Đọc lên không thấy gây được một xức cảm nào cả.
Những bản thảo này cũng không hơn gì những bản họ đã đưa cho anh ta đọc cách đây ba tuần lễ. Stahr quay đi và sẽ liếc mắt quan sát từng người. Boxley nói tiếp:
- Không cần bỏ bớt nhân vật. Phải thêm vào nữa là đàng khác. Đó chính là chủ ý của cuốn phim, tôi cũng nhận thấy như vậy.
Hai anh soạn giả:
- Chủ ý của cuốn phim là thế.
La Borwitz nói theo:
- Đúng, đó là chủ ý cuốn phim.
Sự chú ý của những người xung quanh gợi ý cho Boxley:
- Chúng ta để mỗi nhân vật tự nhìn vảo bộ mặt của họ ở một vị trí khác. Thí dụ: viên cảnh sát sắp sửa bắt tên ăn trộm thì anh ta chợt nhận thấy mặt của tên trộm giống anh ta quá. Chúng ta nên có lối xây dựng tương tự như vậy. Có thể gọi đó là đặt mình vào địa vị của người khác.
Thình lình họ bị lôi cuốn vào công việc làm, giống như chú mèo đang chơi vòng, ngửi thấy hơi chuột liền đeo cả vòng ở cổ chạy đi bắt. Có thể ngày mai họ sẽ lại vất bỏ những gì đã viết ra hôm nay, nhưng dù sao sinh lực đã đến với họ trong giây lát. Trò chơi liệng tiền cũng có tác dụng của nó chẳng thua gì sự suy nghĩ của Boxley. Stahr là người đã tạo ra bầu không khí lôi cuốn họ vào sự làm việc hào hứng như vậy. Chàng không dám tự nhận mình là tài xế của cỗ xe, nhưng chàng có những hành động, cảm tưởng và đôi khi cả dáng điệu nửa giống như một đứa trẻ lăng xăng bày hết trò chơi này đến trò chơi khác.
Stahr lặng lẽ ra khỏi phòng, chàng không muốn khua động làm họ mất hứng. Lúc đi qua Boxley, chàng chạm nhẹ tay vào vai anh ta một cái, cử chỉ đó có giá trị thắm thiết như một cái hôn vậy.
° ° °
Bác sĩ Baer ngồi chờ trong phòng làm việc của Stahr. Cạnh ông ta là một người da đen đang lúi húi với cái máy vẽ đồ biểu nhịp đập của tim to bằng cái va-li lớn. Stahr gọi đùa đó là cái máy khám phá nói dối. Chàng cởi áo ra để trần tới thắt lưng, và cuộc khám sức khỏe hàng tuần bắt đầu.
- Anh thấy trong người thế nào?
- À, như thường.
- Có thấy khó chịu chỗ này không? Ngủ được không?
- Không. Chỉ được chừng năm tiếng. Dù có vào giường sớm cũng nằm không chớ không ngủ được.
- Uống mấy viên thuốc ngủ tôi đã cho đó.
- Mấy viên thuốc màu vàng uống vào thấy choáng váng.
- Vậy uống hai viên đỏ.
- Thì lại thấy ác mộng.
- Một vàng, một đỏ. Uống viên vàng trước thử xem sao?
- Tôi hả? Tôi thì đã có tôi lo săn sóc cho chính mình được rồi.
- Giỡn hoài, sao nhiều đêm tôi thấy anh thức suốt đêm.
- Thì hôm sau tôi ngủ bù.
Sau đó chừng mươi phút, Baer cho biết:
- Có vẻ tốt. Áp suất máu lên tới năm.
- Vậy là tốt hả?
- Tốt! Tối nay tôi sẽ coi lại biểu đồ nhịp tim. Chừng nào thì anh có thể đi nghỉ ít lâu?
- À để chừng nào công việc thư thư một chút mới được. Chừng năm sáu tuần nữa may ra.
Baer nhìn Stahr với con mắt đầy cảm tình, mối thiện cảm đó đã nảy nở trong thời gian Baer săn sóc sức khỏe cho chàng từ ba năm nay. Ông ta nói:
- Hồi cách đây mấy năm anh khỏe hơn bây giờ nhiều.
- Yên trí, tôi sẽ khỏe trở lại.
Baer nghĩ thầm: Không, chàng sẽ không bao giờ khỏe trở lại được. Hồi Minna còn sống, nàng thường bắt chàng nghỉ ngơi đôi chút. Nhưng từ ngày nàng chết đi tới giờ, Baer đã cố gắng để ý tìm xem ai là người thân thiết nhất của Stahr để có thể thay thế Minna, săn sóc cho chàng, nhưng tìm không ra. Cứ tình trạng này thì Stahr không thể nào sống lâu thêm được. Trong vòng sáu tháng nữa, cái chết của Stahr sẽ được định đoạt dứt khoát. Có nghiên cứu biểu đồ nhịp tim cũng vô ích. Ai có thể thuyết phục được một người như Stahr, ăn rồi nằm nghỉ chơi không trong sáu tháng trời bây giờ? Làm vậy có lẽ chàng sẽ còn mau chết hơn. Chàng vẫn làm bộ nói mạnh, nhưng không thể che giấu tình trạng kiệt quệ của sức khỏe đã rõ rệt lắm rồi. Lao động là liều thuốc bổ, nhưng cũng có thể trở thành liều độc dược đối với sức khỏe con người. Trường hợp của Stahr, công việc đã thôi thúc quá độ khiến chàng không thể vui hưởng những giây lát nghỉ ngơi thoải mái được nữa. Đó là lối sống phản thiên nhiên, Baer biết vậy nhưng không thể làm gì hơn. Ông ta không dám có ý nghĩ chữa bệnh cho con bệnh nữa, mà chỉ còn cố giữ sao cho bệnh nhân sống thêm được ngày nào hay ngày đó. Baer nói:
- Anh ráng lo giữ sức khỏe.
Rồi hai người trao đổi với nhau một cái nhìn. Không biết Stahr có hiểu ý nghĩa trong cái nhìn đó không. Rất có thể chàng đã biết, nhưng có điều không biết rõ chuyện đó sắp tới vào ngày, giờ nào? Stahr nói:
- Dĩ nhiên. Như thế tôi khỏi còn trách ai được nữa.
Người da đen đã thu dọn xong các dụng cụ. Baer đứng lên:
- Tuần tới nghe.
- O. K. tuần tới.
Cánh cửa vừa khép, Stahr ấn nút máy nội thoại. Tiếng cô thơ ký Doolan lập tức vang lên:
- Thưa, ông có quen ai là Kathleen Moore không ạ?
- Cô nói sao?
- Thưa, có cô Kathleen Moore đang chờ ở điện thoại. Cô ta nói là ông dặn cô ta kêu lại.
Nét mặt Stahr thoáng vẻ giận. Đã năm ngày trôi qua, không biết có còn gì nữa không.
- Cô ấy còn chờ đó không?
- Dạ, còn.
- Rồi, để cô ta nói.
Trong giây lát, Stahr nghe tiếng nàng sát bên tai. Chàng hỏi với giọng trầm, nhưng chắc chắn:
- Sao, em lấy chồng rồi chớ?
- Không, chưa.
Trí nhớ chàng hiện lên hình ảnh nàng. Stahr ngồi xuống ghế và có cảm tưởng nàng tựa vào bàn, cúi xuống nói vào tai chàng. Stahr lên tiếng, giọng chàng bình tĩnh, thản nhiên nhưng hơi khó khăn:
- Em kêu anh có chuyện gì không?
- Anh thấy lá thơ rồi phải không?
- Đúng. Ngay đêm hôm đó.
- Em muốn nói với anh về chuyện đó.
Dần dần chàng cảm thấy mình bị đối xử một cách tàn nhẫn.
- Em định nói gì nữa?
- Em tính viết cho anh một lá thơ khác, nhưng lại thôi.
- Anh cũng biết vậy.
Cả hai cùng im lặng.
Nàng chợt lên tiếng:
- Ồ, vui lên chớ. Stahr chớ đâu phải một kẻ tầm thường mà có vẻ yếu quá vậy?
Chàng nói có vẻ hơi dằn giọng:
- Anh cảm thấy bị đối xử hơi tàn nhẫn. Không biết em còn gọi cho anh để làm gì. Ít ra cũng để cho anh có một cảm tưởng đẹp về em.
- Em không thể tưởng tượng hôm nay anh có vẻ xìu quá vậy. Chắc anh sắp sửa chúc em may mắn và cúp đấy hẳn?
Đột nhiên nàng cười và tiếp:
- Có phải anh định nói vậy không? Em chỉ sợ anh cúp bất tử.
Chàng nói một cách thẳng thắn:
- Anh không ngờ em còn gọi lại.
Nhưng hình như nàng không để ý câu nói của chàng, nàng cười lớn. Tiếng cười của đàn bà và con nít luôn luôn là những tiếng kêu biểu lộ sự vui thú. Rồi nàng hỏi:
- Anh có biết tình cảnh em lúc này không? Em có cảm tưởng như bị một con sâu lông lá, nóng hổi rơi ngay vào mồm trong một mùa dịch sâu ở Luân Đôn.
- Anh xin lỗi.
Nàng năn nỉ:
- Em cần gặp anh. Em không thể nói hết ở đây được.
- Anh bận lắm. Tối nay có buổi chiều phim ra mắt ở Glendale.
- Có phải anh định mời em đấy không?
- Anh đi với George Boxley, một văn sĩ người Anh. Em có muốn đi cùng không?
Nói xong, Stahr chợt cảm thấy ngạc nhiên về chính lời của mình.
- Như thế làm sao mình nói chuyện được?
Chàng đang định nói thì cô thơ ký cúp để chàng có thể nói chuyện với ông giám đốc thu hình. Đây là chỉ thị từ trước tới giờ vẫn vậy. Stahr nói vội “Chờ” và tay chàng ấn vào nút máy. Giọng Kathleen đầy tin tưởng:
- Mười một giờ được không anh?
Ý tưởng lái xe đi lòng vòng khiến chàng cảm thấy không ổn. Giá chàng có thể nghĩ ra được một câu gì đó để từ chối thì chàng đã nói ngay. Nhưng Stahr không muốn làm một con sâu mà nàng vừa nhắc tới. Đột nhiên chàng thấy không có thái độ rõ rệt và chỉ còn cảm thấy dù sao thì ngày hôm nay như thế cũng là đầy đủ rồi. Tối nay chàng có quyền... một trò chơi lại được bắt đầu, chuyển tiếp hay sẽ đi tới tận cùng.
° ° °
Chàng gõ cửa, nghe tiếng nàng trả lời bên trong và đứng chờ dưới bóng hiên. Phía dưới sườn đồi vang lên tiếng kêu của một chiếc máy xén cỏ. Một người nào đó xén cỏ vào giữa nửa đêm. Trăng sáng vằng vặc, chàng nhìn thấy rõ ông ta, đang đứng cầm hai càng của máy nghỉ một lát trước khi đẩy ngang qua mảnh vườn cách chỗ chàng đang đứng chừng ba, bốn chục thước. Xa xa, không khí nửa đêm giữa mùa hè có vẻ rộn rã... với những mối tình yêu quàng, yêu vội, những mãnh lực thúc đẩy con người nhúng tay vào tội ác. Người ta không còn hy vọng gì nhiều ở mùa hè nên ráng sống chụp giựt với những gì đang có sẵn, còn nếu chưa có thì phải ráng làm sao cho có.
Sau cùng nàng từ trong nhà đi ra, với nét mặt rất vui vẻ, khác hẳn hôm trước. Nàng mặc váy và cốn lên một chút trong lúc đi xuống chỗ đậu xe. Thái độ vui tươi, sung sướng, can đảm, nhí nhảnh của nàng khiến Stahr nghĩ tới một bài hát có tựa đề “Cột chặt thắt lưng. Ta cùng lên đường, cưng ơi”. Hôm nay Stahr đi chiếc xe limousine có tài xế lái. Giữa tài xế và chỗ Stahr ngồi có kính ngăn và màn che kín. Không khí kín đáo, ấm cúng trong xe khiến hai người cảm thấy thân mật ngay, nhất là khi xe quẹo khiến họ ngả vào nhau trong bóng tối thì sự xa lạ đã hoàn toàn tan biến mất. Chàng cảm thấy vô cùng thoải mái sung sướng trong cuộc đi chơi hôm nay. Nếu chàng biết trước được giờ chết thì sẽ không chịu chết vào lúc này.
Chuyện dĩ vãng được nàng làm sống trở lại. Nàng có thái độ bình tĩnh, hai mắt long lanh, rực sáng nhìn xoáy vào cõi xa xôi một cách sống động, đưa Stahr tới những miền xa xôi, những nhân vật mà nàng đã gặp. Câu chuyện lúc đầu có vẻ hơi mơ hồ, với “người đàn ông đó”, tức là người nàng đã yêu và đã sống với anh ta. Rồi tới “một người Mỹ” là người đã cứu nàng khi nàng sắp chết đuối vì gặp chỗ cát lún khi tắm biển.
- Người Mỹ đó tên gì?
- Ồ, tên với tuổi, có gì quan trọng đâu mà anh phải hỏi cẩn thận. Dĩ nhiên cái tên đó không thể nào so với tên Stahr, một người giàu có được. Trước đây người đó ở Luân Đôn, nhưng bây giờ anh ta và nàng sắp sửa tới sinh sống ở thành phố này. Anh ta đang lo ly dị với người vợ cũ. Không phải vì nàng, nhưng việc đó đã xảy ra từ trước.
Stahr lại hỏi:
- Nhưng còn người đàn ông đầu tiên thì sao? Trường hợp nào em quen với anh ta?
À, thoạt đầu là một sự giúp đỡ, thi ân. Ở vào cái tuổi từ mười sáu tới hai mươi mốt, mọi chuyện đều vì miếng ăn, do miếng ăn mà ra cả. Ngày nàng bị gọi ra tòa cùng với người dì ghẻ, cả hai chỉ còn trong túi có một hào, họ phải mua hai chiếc bánh sáu xu ăn cho khỏi bị xỉu.
Ít tháng sau thì người dì ghẻ chết và nàng phải nghĩ cách bán thân để kiếm cho ra một hào khác, nhưng lúc đó nàng quá yếu ớt, không còn đủ sức bò ra tới đường phố. Đường phố ở Luân Đôn lúc nào cũng hầu như rất ồn ào.
- Vậy họ hàng không còn ai sao?
Cũng có những người ở tận miền Ái Nhĩ Lan, họ gởi bơ tới cho nàng. Rồi còn cháo gà nữa. Một ông cậu tới thăm nàng, khi nàng đã ăn no ông ta giở trò ba mươi lăm. Nàng không phản đối và sau đó ông ta lén giấu vợ cho nàng năm mươi Anh kim.
Stahr lại hỏi:
- Thế em không làm gì sao?
- Có chứ. Một hồi em đã làm cho hãng buôn xe hơi. Em đã bán được một chiếc xe.
- Sao em không kiếm một việc làm chắc chắn?
- Khó quá anh à. Hình như mọi người có cảm tưởng rằng những người như em là loại người chỉ chuyên môn đi cướp việc làm của người khác. Có lần em bị một mụ đàn bà đánh khi em tới định xin làm bồi phòng cho một khách sạn.
- Tại sao em lại bị ra tòa?
- Đó là chuyện xui xẻo do dì ghẻ em gây ra. Em đâu còn ai. Ba em bị một tên da đen giết chết lúc người mới hai mươi mốt tuổi, khi đó em còn chưa biết gì. Người có viết để lại cho em một tác phẩm, đó là cuốn “Lời nguyên cuối cùng”. Anh có bao giờ đọc cuốn đó chưa?
- Anh ít đọc sách.
- Em hy vọng anh sẽ mua tác phẩm đó và quay thành phim. Cuốn sách đó không dài lắm, và hàng năm nhà xuất bản vẫn trả cho em mười hào Anh tiền bản quyển.
Rồi nàng gặp “Hắn”. Hắn đưa nàng đi chu du khắp nơi, hầu hết những chỗ đã được chàng thâu vào phim. Có những thành phố chàng chưa hề nghe nói đã được nàng nhắc nhở vì đã từng sống ở đó. Sau đó hắn đổ đốn, say sưa li bì và ngủ cả với con người làm. Hắn mê cô này và tìm cách đẩy nàng đi với những người bạn của hắn. Nhưng họ cố gắng hàn gắn mối tình giữa nàng và hắn. Mọi người khuyên nàng đã thương hắn thì nên thương cho trót, cho tới cùng. Họ cố gắng thuyết phục nàng bằng đủ mọi cách. Nhưng nàng đã gặp người Mỹ này và bỏ đi luôn.
- Đáng lẽ em phải đi từ trước.
- Phải, nhưng anh thấy đâu có dễ dàng gì. Em đã phải chạy trốn một ông Vua.
Chàng có vẻ thất vọng hoàn toàn. Nàng cố gắng tạo một không khí phấn khởi. Những ý tưởng mơ hồ thoáng qua khiến chàng cảm thấy nghi ngờ mọi cái.
Nàng tiếp:
- Dĩ nhiên Vua đây không phải là Hoàng đế nước Anh, nhưng chỉ là một gã thất nghiệp. Ở Luân Đôn người ta quen gọi thế. - Nàng vừa nói vừa cười. - Ở Luân Đôn có rất nhiều vua.
Nàng ngừng một lát như thể suy nghĩ và nói tiếp với giọng gần như thách thức:
- Hắn cũng hấp dẫn lắm, cho tới lúc hắn bắt đầu sinh chứng và say sưa.
- Hắn là vua nghề gì?
Nàng trả lời và Stahr cố gắng nhớ lại một khuôn mặt nào đó trong cuốn phim thời sự cũ.
Nàng nói tiếp:
- Hắn học rất nhiều. Hắn có thể dạy học bất cứ môn gì. Nhưng cũng giống như một ông Vua, hắn không thích làm việc nhiều, hay ít ra là không bằng anh. Không ai làm việc dữ như anh cả.
Lần này Stahr cười sau khi nghe xong.
- Những người đó hình như luôn luôn lo sợ họ sẽ trở thành lỗi thời. Họ bỏ rất nhiều thì giờ vào việc lo chải chuốt, theo thời. Chẳng hạn có người cố gắng vào cán bộ nghiệp đoàn. Người thì lo cắt những bài tường thuật thể thao trong báo chí mỗi khi có những trận đấu bán kết hay chung kết giải quần vợt. Đi đâu họ cũng ôm khư khư những bài báo đó để tỏ ra ta đây là người theo sát thời sự. Em đã thấy rất nhiều lần như vậy.
Xe của hai người chạy qua công viên Griffith, qua phim trường Burbank nằm chìm trong đêm tối, qua phim trường và đang trên đường đi Pasadena với đầy các bảng hiệu nê-ông của những lữ quán bên đường. Chàng muốn nàng hết sức, nhưng đêm đã quá khuya, vả lại cuộc đi chơi hôm nay như thế kể ra cũng là đầy đủ thú vị lắm rồi. Tay trong tay, nàng ngả đầu vào vai chàng thủ thỉ: “Trời, anh dễ thương quá, em chỉ muốn được ở mãi bên anh”.
Nhưng đầu óc nàng không hoàn toàn thuộc về chàng như cuộc đi chơi chiều Chủ nhật hôm nào. Dư âm của những khích động trong cuộc phiêu lưu nàng vừa kể đã khiến nàng trở nên thẫn thờ, buồn khổ. Chàng không dằn được tính tò mò và bâng khuâng tự hỏi không biết nàng có chịu nói thêm về chuyện người tình Mỹ của nàng không.
- Em quen người Mỹ này từ bao lâu?
- À, chừng năm sáu tháng gì đó. Tụi này gặp nhau thường và thông cảm với nhau. Anh ta hay nói: “Bây giờ thì sóng gió kể như đã qua hết rồi”.
- Vậy tại sao em còn kèu anh làm gì?
Nàng ngập ngừng:
- Em muốn gặp anh thêm một lần. Hơn nữa - đáng lẽ hôm nay anh ấy về tới, nhưng đêm qua em nhận được điện tín anh ấy cho biết sẽ ở lại thêm một tuần nữa. Em muốn có bạn để nói chuyện, dù sao thì anh cũng vẫn là một người bạn.
Chàng cảm thấy muốn nàng kinh khủng. Nhưng với một phần sự sáng suốt còn lại, chàng nghĩ thầm: chắc em muốn biết mình có thương em hay không. Nếu biết chắc là mình có ý định lấy em thì lúc đó em sẽ tính đến chuyện cho anh chàng kia rơi. Nhưng em sẽ không nghĩ tới chuyện đó chừng nào mình còn chưa dứt khoát lập trường. Chàng hỏi:
- Em có yêu người Mỹ này không?
- À, có chứ. Anh ấy đã cứu vớt đời em. Và đã đi nửa vòng thế giới vì em. Em phải nhớ tới điều đó.
- Nhưng em có yêu anh ta không?
- À, có. Em yêu anh ấy.
Những tiếng “À, có” cho chàng biết rằng nàng không yêu anh ta, nhưng thực ra là nàng yêu chàng. Chàng ôm nàng trong tay, gắn chặt môi mình vào môi nàng một lúc lâu và cảm thấy ấm áp. Tiếng nàng thì thào:
- Đêm nay, đừng anh.
- À.
Xe chạy qua cây “cầu tự vận” với một đường dây xích mới được chăng ngang trên cao dọc theo lan can cầu để ngăn không cho người ta nhảy xuống sông. Nàng nhìn sợi dây, cười:
- Ngu gì mà đi tự tử. Người Anh không bao giờ chịu chết nếu họ chưa thực hiện được điều họ muốn.
Xe chạy vòng quanh một khách sạn và trở lại đường cũ. Đêm nay, một đêm tối trời, không trăng. Sự thèm muốn háo hức đã qua, hai người cùng ngồi im, không ai nói gì nữa. Câu chuyện về những ông vua thất nghiệp nàng kể khiến chàng nhớ lại hình ảnh thoáng qua của con đương phố chánh ở Erie, Pensylvania với lối đi lát sỏi trắng như những viên ngọc. Hồi đó chàng mới mười lăm tuổi. Trên đường có một tiệm ăn với những con tôm hùm bày trong tủ kính, một cái hang hình con ốc với cỏ dại xanh um và ánh sáng chan hòa phía trên, nhưng bên dưới, sau bức màn cửa màu đỏ là những bộ mặt lạ lùng, bí mật ngôi trầm tư trong tiếng vĩ cầm réo rắt. Đó là lúc chàng sắp sửa đi New York. Người con gái này tối nay đã đưa chàng trở về dĩ vãng với hình ảnh của những con tôm hùm, những con cá tươi ướp đá. Nàng giống như một con búp bê xinh đẹp. Minna không bao giờ giống một con búp bê xinh như nàng.
Nàng nhìn chàng và ánh mắt như thầm hỏi: “Liệu em có lấy người Mỹ này hay không?”. Chàng không trả lời. Sau đó một lát chàng lên tiếng:
- Chúng mình kiếm chỗ nào đi chơi cuối tuần này.
- Anh tính bàn chuyên ngày mai sao chớ?
- Anh sợ bàn tới.
- Vậy thì mai em sẽ cho anh biết.
- Cho anh biết ngay đêm nay đi. Anh sợ...
Nàng cười:
- Sợ lại tìm thấy lá thơ nữa trong xe à? Không có nữa đâu, em đã nói với anh hầu như hết mọi chuyện rồi còn gì.
- Hầu như.
- Vâng. Chỉ còn lại vài chi tiết nhỏ.
Những chi tiết đó là gì? Có lẽ ngày mai nàng sẽ nói hết. Chàng không tin đó là những chi tiết quan trọng, chàng không muốn tin như thế. Chắc chả còn vụ lăng nhăng nào khác nữa, ngoài ba năm chung sống lửng lơ chân trong, chân ngoài với anh chàng vua thất nghiệp kia của nàng.
- Cười lên anh. Em đã học được thói quen cười lên để quên đi mọi chuyên.
Chàng không cười:
- Tại sao hắn không cưới em. Nếu hắn cưới em thì bây giờ em đã trở thành một bà Simpson nào đó chẳng hạn, chớ đâu còn...
- Ồ, hắn đã lấy vợ rồi. Hắn đâu có lãng mạn.
Nàng chợt ngưng ngang câu nói, và Stahr hỏi tiếp:
- Thế còn anh thì sao?
Nàng ầm ừ một cách miễn cưỡng:
- Anh có một phần. Trong anh có tới ba, bốn con người khác nhau, về những con người đó đều lần lượt xuất đầu lộ diên. Đó là đặc điểm của người Mỹ.
Chàng mỉm cười:
- Em đừng vì thế mà bắt đầu tin tưởng quá nhiều ở người Mỹ. Họ để lộ bộ mặt ra đấy, nhưng rồi thay đổi đấy, nhanh lắm.
Nàng có vẻ nghĩ ngợi:
- Vậy sao anh?
- Họ thay đổi liền, rất nhanh, và không gì làm họ quay trở lại được nữa.
- Anh làm em lo quá. Từ trước tới giờ em vẫn có cảm tưởng người Mỹ là cái gì an ninh, bảo đảm lắm.
Đột nhiên nàng có vẻ cô đơn quá, và chàng nắm lấy tay nàng:
- Mai mình đi đâu? Hay là đi chơi núi. Mai có rất nhiều việc phải làm, nhưng anh cóc cần. Nếu chúng ta đi lúc bốn giờ chỉ độ xế trưa là tới rồi.
- Em không dám chắc chắn lắm. Đôi khi em thấy thật là khó nghĩ. Dù sao em cũng là một thiếu nữ tới California với mục đích làm lại cuộc đời.
Ngay lúc này chàng có thể bảo nàng: “Em đã làm lại cuộc đời rồi. Đây là cuộc sống mới của chúng mình”. Vì chàng cảm thấy không muốn xa nàng nữa. Nhưng một con người lớn, không mơ mộng đã nổi lên, ngăn cản không cho chàng nói như vậy, nên để đến mai hãy hay. Nàng vẫn nhìn chàng với đôi mắt bâng khuâng. Nàng nghiêng đầu với một dáng điệu đặc biệt và nhìn đi, nhìn lại từ trán tới cằm chàng.... Dịp may của anh đã tới đó, Stahr. Tốt hơn anh nên đem nàng đi ngay bây giờ. Nàng là người của đời anh nàng thuộc về anh. Nàng là cứu tinh của anh và sẽ giúp anh tìm lại cuộc sống. Nàng sẽ săn sóc anh, khiến anh trở nên mạnh mẽ để thực hiện điều đó. Nhưng anh phải lấy nàng ngay từ giờ phút này. Hãy nói lên, và hãy cùng nàng ra đi chung sống trong hạnh phúc. Anh cũng như nàng, đâu có ai biết: ngoài xa xăm kia, người Mỹ đó đã thay đổi chương trình. Lúc này tàu anh ta đang đi ngang vùng Albuquerque; tàu chạy rất đúng giờ, chỉ sáng mai là anh ta có mặt nơi đây.... Tài xế quẹo xe, tiến về phía nhà Kathleen trên đồi. Trời tối, nhưng không khí có vẻ ấm áp. Tuy chỉ đi quanh quẩn trong thành phố một lát, nhưng khi trở về tới đây tự nhiên Stahr cảm thấy mừng rỡ. Chiếc xe này, căn nhà ngoài bãi biển, khoảng đường dài hai người vừa đi qua với những nhà cửa mở mang san sát, tất cả đều như chào đón chàng. Sườn đồi phía trước như bừng sáng, trong lòng chàng những âm thanh reo mừng nổi lên rộn rã.
Lúc chia tay, đột nhiên Stahr lại cảm thấy không thể nào sống xa nàng, về tuổi tác, hai người chỉ chênh lệch nhau có mười năm, nhưng chàng cảm thấy nóng lòng, sốt ruột giống như tâm trạng của một ông già khi yêu cô gái mười sáu, mười bảy, yêu quàng, yêu vội để còn chạy trốn thời gian. Tiếng tích tắc của đồng hồ vang lên cùng với tiếng tim đập trong lòng chàng, như thúc đẩy chàng đuổi theo nàng, đi vào trong nhà và nói: “Mình sẽ sống trọn đời bên nhau, em”.
Kathleen ở trong tình trạng lưỡng lự, một lớp băng giá màu hồng bạc đang đợi mùa Xuân tới để tan theo. Là người Âu châu, nàng luôn luôn có vẻ khiêm nhượng bề ngoài để che giấu sức mạnh bên trong, nhưng lòng tự trọng cao độ không thể cho phép nàng đi xa hơn nữa. Nàng không bao giờ có ảo tưởng trong việc nhận định tình cảm của người đàn ông.
Stanr:
- Ngày mai mình đi chơi núi.
Hàng ngàn người đang chờ đợi ở sự phán đoán, cân nhắc của chàng lúc này. Bạn có thể đột nhiên trở nên bạc nhược, mất hết những khả năng từng giúp bạn trong nhiều chục năm trời nay.
Sáng hôm sau là thứ Bảy, chàng bận rất nhiều công việc. Lúc hai giờ, sau khi đi ăn cơm trưa về, chàng thấy một chồng điện tín để trên bàn: một tàu của công ty bị chìm ngoài khơi Arctic; một tài tử bị ô nhục; một văn sĩ bị đưa ra tòa vì một triệu đô-la; người Do Thái bị chết thảm dưới đáy biển. Bức điện tín sau cùng chàng đọc thấy:
Em lấy chồng trưa nay. Chào anh. Ghim theo bức điện chánh còn có một bức phụ. Gởi trả lời qua hệ thống Liên hiệp Điện tín Miền Tây.
CHƯƠNG 6
Tôi chẳng hay biết gì về chuyện này. Tôi đã lên Lake Louise và lúc trở về tôi cũng không hề đi ngang qua phim trường. Nếu không có cú điện thoại của Stahr thì tôi đã về Miền Đông vào giữa Tháng Tám.
- Chú muốn gặp một đảng viên của Đảng Cộng Sản. Cháu giúp chú được không?
Tôi hơi ngạc nhiên:
- Mà ai mới được chứ?
- Bất cứ người nào?
- Thiếu gì ngoài phố kia?
- Không, chú muốn gặp một người trong những tổ chức của họ - ở Nữu Ước chẳng hạn.
Hè năm trước tôi đã bị lôi cuốn vào những hoạt động chánh trị khá nhiều. Giá Harry Bridge còn sống thì tôi có thể thu xếp để anh ta gặp Stahr. Nhưng anh ta đã bị chết trong một tai nạn xe hơi sau kỳ tựu trường, và từ đó tôi mất liên lạc với họ.
Tôi có nghe nói tới một người thuộc nhóm Dân Mới ở gần đâu đây trong thành phố này. Tôi hỏi đùa Stahr:
- Chú bảo đám an ninh cho họ chớ?
Stahr trả lời nghiêm chỉnh:
- À, đúng vậy. Kiếm dùm chú người nào biết nhiều về lý thuyết, bảo họ đem theo sách vở càng tốt.
Stahr làm nhữ chàng muốn gặp một hội viên thuộc một tổ chức văn hóa không bằng.
- Chú muốn cô tóc vàng hay cô tóc nâu?
Chàng nói vội:
- Ồ, một nam đảng viên.
Nghe giọng nói tự nhiên của Stahr, tôi cảm thấy phấn khởi. Vì tôi vừa chợt nghĩ tới chuyện xảy ra trong phòng Ba tôi hôm nào, và có cảm tưởng như mình đang bơi một chiếc du thuyền đi trong vũng đờm lỏng vậy. Thái độ của Stahr đã thay đổi hẳn không khí và còn thay đổi cả quan điểm nhận định của tôi. Chàng nói:
- Chú nghĩ không nên để Ba cháu biết. Có thể bảo anh ta cải trang thành một nhạc sĩ người Balgarian hay gì đó?
- Ồ, chắc họ không chịu ăn bận đàng hoàng.
Công việc dàn xếp gặp gỡ không dễ như tôi nghĩ lúc đầu. Họ sợ mang tiếng là bị mua chuộc, vì lúc đó cuộc tranh chấp giữa Stahr và các soạn giả thuộc nhóm Guild đang bị bế tắc hoàn toàn sau hơn một năm thương lượng. Họ còn hỏi tôi những “đề nghị” của Stahr như thế nào? Sau cùng Stahr bảo tôi nói với họ rằng chàng muốn thảo luận với họ trong việc làm cuốn phim nói về cuộc Cách mạng ở Nga. Chàng đã thực hiện xong cuốn Bác sĩ Caligari và cuốn Chú khuyển Andalou của Salvator Dali, hai phim này có thể gây ra những sự va chạm với họ. Stahr cảm thấy hoảng đối với mớ phim nói về Nga độ chừng hai chục cuốn. Theo sáng kiến của Wylie, Stahr đã bảo phòng viết chuyển phim cho chàng một bản chừng hai trang tóm tắt các nét chánh của Phong trào Cộng sản.
Nhưng chàng là người không chịu tin hoàn toàn vào sách vở. Chàng lý luận theo đường lối riêng của mình, bắt đầu mò mẫm tự tìm hiểu những sự kiện lịch sử từ hàng ngàn năm trước đi lần tới thế kỷ mười tám. Chàng say sưa nuôi hy vọng sẽ làm sống lại được những sự kiện lịch sử đó qua phim ảnh.
Cuộc gặp gỡ diễn ra tại nhà tôi; trong căn phòng lịch sự nhất được mệnh danh là “căn phòng bọc da”. Đây là một trong sáu căn phòng do trang trí gia Sloan trình bày từ nhiều năm trước, và cái tên của nó tôi còn nhớ mãi. Toàn thể nền nhà được trải nệm len màu xám sáng, đó là một màu rất tế nhị khiến người ta nhiều khi không đám bước chân lên. Những chiếc bàn mặt bóng láng như bạc, hay bọc da, những bức ảnh màu kem, và những đồ trang hoàng nhỏ bé mỏng manh khác, tất cả đều như mới tinh sương khiến người ở trong phòng hầu như không dám thở mạnh vì sợ làm dơ bẩn hay đổ vỡ. Đứng ở cửa nhìn vào khi cơn gió nhẹ lay động cuốn nhẹ một góc màn cửa lên thì thấy thật là tuyệt. Giống như những phòng khách cổ xưa của người Hoa Kỳ, căn phòng này chỉ mở cửa vào ngày Chủ nhật. Nhưng tôi nhận thấy đây là dịp thích hợp để xử dụng tới nó. Dù bất cứ chuyện gì xảy ra, cuộc họp này cũng là một kỷ niệm làm tăng thêm giá trị cho căn phòng và cho cả ngôi nhà của chúng tôi.
Stahr tới trước. Chàng có vẻ nóng ruột và hơi bối rối, ngoại trừ giọng nói lúc nào cũng trầm trầm và luôn luôn cân nhấc cẩn thận. Stahr có một khả năng đặc biệt khi tiếp xúc với người khác, chàng sẽ tiến thẳng, tới bạn, gạt bỏ một cái gì đó sang bên cạnh và tìm hiểu tất cả con người bạn, làm như chàng bị thúc đẩy làm như thế và không thể cưỡng lại được. Có một lý do nào đó khiến tôi hôn chàng trước khi đưa chàng vào căn phòng bọc da. Chàng hỏi tôi:
- Khi nào cháu đi học trở lại?
Trước đây chúng tôi đấ từng nói tới vấn đề hấp dẫn này.
Tôi hỏi:
- Nếu cháu thấp hơn một chút nữa, chú có thích không? Cháu sẽ đi giày đế mòng và ép tóc cho xẹp bớt xuống.
Stahr mở đầu:
- Tối nay mình đi ăn cơm tối. Thiên hạ có bảo là hai cha con chú cũng chẳng cần.
Tôi nói để chàng yên trí:
- Cháu thích người già, miễn là đừng có chống gậy và hết xí quách.
- Cháu đã yêu nhiều chưa?
- Cũng tạm đủ.
- Người ta thường chạy ra, chạy vô trong tình trường, phải không cháu?
- Cháu đọc trong báo thấy Fanny Brice bảo rằng cứ ba năm thì người ta lại thay đổi ái tình một lần.
- Đúng. Chú đã thấy nhiều như vậy. Không biết làm sao người ta sống nổi. Mỗi lần như thế trông họ có vẻ đừ lắm. Sau rồi trông thấy hết, nhưng sự thực thì vẫn còn ê ấm và ai trông cũng biết.
- Chú làm nhiều phim quá.
Stahr vẫn cố tình trở lại chuyện cũ:
- Không biết tới lần thứ ba, thứ bốn họ có còn thấy đừ không, hay là lúc đó họ quen đi rồi.
- Càng ngày càng dữ tợn, nhất là lần cuối cùng.
- Chú cũng nghĩ vậy. Nhất là lần cuối.
Tôi không thích chàng nói câu đó. Nói như vậy chứng tỏ tuy bên ngoài không có gì, nhưng trong bụng chàng đang khổ lắm.
Chàng lại lên tiếng:
- Thật là độc hại, nhưng khi qua rồi thì thấy khá hơn.
- Thôi đi chú. Có lẽ vần đề này chú không rành như điện ảnh đâu.
Brimmer, người đảng viên Đảng Cộng Sản đã tới và đang đi vào để gặp chàng. Tôi vội chạy ra cửa đón, và tự nhiên thấy mình ở trong tay anh ta.
Brimmer là một người dễ coi. Vóc dáng anh ta hơi kém những tiêu chuẩn lý tưởng do Spencer Tracy đặt ra, nhưng vai nở và mặt rộng. Lúc anh ta và Stahr bắt tay nhau tôi tự nhiên nghĩ rằng đây là hai con người tỉnh táo, tinh ranh nhất tôi từng gặp. Mỗi câu nói hai người đều cân nhắc kỹ lưỡng và thường nhỏ nhẹ xuống giọng ở cuối câu, đồng thời quay nhìn về phía tôi cho đúng phép lịch sự. Stahr hỏi:
- Các anh định tính chuyện gì? Các anh khiến bọn trẻ của tôi nhốn nháo hết cả.
Brimmer trả lời:
- Để họ đề cao cảnh giác một chút, phải vậy không anh?
- Lúc đầu chúng tôi muốn để cho một nhóm nhỏ người Nga tự do vào nghiên cứu cơ sở kiểu mẫu của chúng tôi. Nhưng rồi các anh lại tính làm tan vỡ tinh thần hợp tác của cơ sở kiểu mẫu đó.
Brimmer nhắc lại:
- Tinh thần hợp tác, phải anh muốn nói tới tinh thần hợp tác trong một công ty không?
Stahr có vẻ hơi nóng nảy:
- Ồ, không, không phải thế. Ý tôi muốn nói là hình như các anh đã luôn luôn theo dõi công việc sản xuất của tôi. Tuần trước, một gã soạn giả say sưa, từng lang thang đầu đường, xó chợ cũng xồng xộc vào văn phòng tôi đòi bàn công chuyện, thế là nghĩa lý gì?
Brimmer mỉm cười:
- Thưa anh, tôi không phải là người có thể can thiệp vào việc làm của ông soạn giả đó.
Hình như hai người đã uống trà với nhau. Lúc tôi quay trở lại thì Stahr đang kể cho Brimmer nghe câu chuyện khác về anh em ông Warner và cả hai cùng cười. Stahr nói:
- Khiêu vũ gia Nga Balanchine đã lầm anh em Warner với anh em Ritz. Ông ta không còn phân biệt được ai là chủ của mình và ai là người mình đang huấn luyện. Ông ta thường nói: “Tôi hết dạy nổi anh em nhà Warner”.
Họ đàm thoại trong không khí êm ả của buổi trưa. Brimmer hỏi Stahr tại sao các nhà sản xuất không ủng hộ Liên Minh chống chủ nghĩa Quốc xã. Stahr trả lời:
- Tại vì các anh xúi bọn soạn giả làm loạn trong cơ sở của chúng tôi. Nhưng nhìn vào đường xa thì cảc anh sẽ thấy rằng các anh chỉ phí thời giờ vô ích. Bọn nhà văn là đồ con nít, ngay lúc bình thường họ cũng chẳng chịu nghe ai nữa là khi tình hình đã trở nên rối loạn.
Brimmer nói với giọng thích thú:
- Họ có thể ví như những nông gia, còn các anh giống như người ở thành thị. Họ sản xuất, nhưng các anh là người hưởng lợi. Chẳng khác gì nhà nông cầy cấy, nhưng khi có những bữa tiệc linh đình họ lại không được dự.
Tôi nghĩ vẩn vơ về cô gái của Stahr, không biết những liên lạc của hai người đã chấm dứt hẳn chưa? Sau này khi được nghe kể tất cả câu chuvên về Kathleen, đứng dưới trời mưa trên con đường Goldwyn loang lổ, tôi cho rằng thời gian đó là vào khoảng một tuần sau khi nàng gởi điện tín cho Stahr. Bức điện tín mà nàng đã may mắn tìm được cách gửi cho chàng. Hôm đó, người đàn ông ở xe lửa bước xuống, anh ta dẫn nàng đi thẳng ngay vào Bưu Điện, không một mảy may ngờ rằng đó chính là nơi nàng đang cần tới. Lúc đó vào khoảng tám giờ sáng. Kathleen nóng lòng nghĩ hết cách làm sao để gởi được bức điện tín cho Stahr. Trên lý thuyết, nàng có thể ngừng lại và nói với anh ta: “Em quên chưa nói với anh, em đã gặp một người đàn ông”. Nhưng trường hợp này không thể nào làm như vậy vì sự gắn bó giữa hai người đã quá sâu đậm, đã đi quá xa qua bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, tin tưởng, chiến đấu. Sự gắn bó giữa hai người chẳng khác gì một chiếc xe chạy trên đường rầy, vật nào muốn ngăn cản sẽ bị nghiến đứt ngay lập tức. Anh ta đứng chờ nàng viết và nhìn thẳng vào bức điện tín. Nàng hy vọng anh ta đứng ở phía bên kia bàn nên khó đọc ngược được...
Khi tôi để ý trở lại tới câu chuyên trong phòng thì Stahr và Brimmer đã đồng ý với nhau ở quan điểm là hành động của các văn sĩ không có gì chắc chắn. Họ đã đồng ý bỏ rơi bọn soạn già khốn nạn đó. Stahr nói:
- Họ không được chuẩn bị và không có khả năng nắm quyền hành. Không gì có thể thay thế được ý chí. Nhiều khi thấy chán nản, anh cần phải ngụy tạo ra một ý chí đi tiếp tục công việc.
- Tôi đã từng cảm thấy thế.
- Vấn đề nhất định là như vậy, không thể nào làm khác hơn. Hàng tuần tôi đều gặp phải hoàn cảnh như vậy. Khi không còn một lý do nào nữa để thúc đẩy công việc anh bắt buộc phải tìm cách tạo ra một lý lẽ nào đó.
- Tất cả các nhà lãnh đạo đều làm như vậy, lãnh đạo giới lao động cũng như trong phạm vi quân sự.
- Chính vì vậy mà tôi phải giữ một lập trường cố định trong vấn đề tranh chấp với nhóm soạn giả Guild. Hình như họ muốn có quyền hành trong công ty, nhưng tôi sẽ không bao giờ nhượng bộ. Tôi chỉ có thể cho ho tiền mà thôi.
- Nhưng nhiều khi anh cho họ ít quá. Mỗi tuần chỉ có ba chục đô la.
Stahr hỏi với giọng ngạc nhiên:
- Ai đâu? Ai có số lương như vậy?
- Đối với những soạn giả thường, dễ thay thế.
- Công ty tôi không có soạn giả nào như thế.
À, phải rồi, trong công ty anh có hai người được trả với giá lương đó.
- Một người là Ransome và người nữa là O’Brien.
Stahr nhìn tôi mỉm cười:
- Những người đó mà là soạn giả cái gì? Họ chỉ là anh em bà con của Ba của cô Cecilia đây.
- Còn một vài người nữa trong phim trường.
Stahr lấy trong túi ra một ve thuốc nhỏ, trút vào ly trà và dùng muỗng khuấy tan, rồi hỏi đột ngọt:
- Tiếng “rút” có nghĩa là gì nhỉ?
- Rút? Đó là một mánh khóe các công ty xử dụng để chấm dứt hoặc làm tan vỡ những cuộc đình công.
- Tôi cũng nghĩ thế. Ở công ty tôi có một soạn giả lãnh lương mỗi tuần một ngàn rưỡi đô-la. Nhưng anh thường đi trong câu lạc bộ, tới phía sau ghế ngồi của những soạn giả khác và nói: “Rút”. Nếu anh ta không chấm dứt cái trò đó thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ mà thôi.
Brimmer cười:
- Tôi mong có địp được thấy cảnh đó.
- Nếu muốn, hôm nào rảnh mời anh lại phim trường chơi một ngày.
Brimmer cười có vẻ thích ra mặt.
- Không dám, nhưng tôi thường nghe nói anh là người làm việc kinh khủng và hữu hiệu nhất miền Tây Hoa Kỳ. Tôi mong có dịp được xem anh làm việc. Nhưng chỉ sợ tôi sẽ thất vọng.
Stahr nhìn tôi:
- Chú khoái ông bạn của cháu quá. Ông ấy hơi nóng tính, nhưng dễ thương.
Nói xong chàng nhìn sát vào mặt Brimmer hỏi:
- Anh người miền nào nhỉ?
- Gia đình tôi lập nghiệp ở miền Tây này từ năm sáu đời rồi.
- Chắc anh được nhiều người quen biết ủng hộ lắm?
- Vâng. Ba tôi trước là quản giáo.
- Không, tôi muốn hỏi những người trong tổ chức Cộng sản ấy chứ? Nghe nói có một cán bộ Cộng sản tay tổ người gốc Do Thái có ý định làm tiêu luôn công ty Ford phải không anh? Tên anh ta không biết là gì này...
- Frankensteen?
- À, đúng rồi. Không biết các anh, có ai tin chuyện đó không?
Brimmer trả lời gọn lỏn:
- Cũng có một số ít.
- Nhưng chắc không có anh trong đó?
Brimmer nhún vai:
- Có lẽ họ nói hơi quá đáng. Nghĩ kỹ, chắc anh thấy tôi có lý. Chuyện đó thì ngoài khả năng của tôi.
- Ồ, biết đâu đấy. Có thể ngày nào đó, anh cũng sẽ làm tiêu một công ty khác. Nhưng theo tôi nghĩ thì đó chỉ là những chuyện tán dóc.
- Nghĩ thế nào là quyền của anh. Nhưng Frankensteen cũng có lý của ông ta. Những đại công ty cũng như những nhà tài phiệt rồi ra sẽ bị tiêu diệt lần trong thời đại này, vì hệ thống đó đã lỗi thời.
- Liệu các anh có đinh tiêu điệt luôn chánh phù Mỹ không?
- Không, nhưng có thể chính anh sẽ là người làm việc đó.
Câu chuyện cãi vã của hai người cứ như thế xoắn xuýt lấy nhau, cố tìm những lời dằn mặt, nói móc họng nhau chẳng khác gì những cuộc đôi co của đàn bà. Nhưng đối với đàn ông thì nguy hiểm hơn, vì có thể kết thúc bằng cách làm cho bàn ghế trong phòng tan nát hết. Tôi mở cửa sổ, nhìn ra ngoài vườn bông, một vườn bông màu vàng đặc biệt của vùng California.
Lúc đó đang vào giữa mùa hè, nhưng những tia nước phun ra khắp nơi trông chẳng khác gì tiết Xuân. Tôi thấy rõ Brimmer nhìn ra ngoài vườn và sẽ thở dài. Anh ta sẽ rướn người lên và hình như lớn thêm ra. Sự thực thì nếu bỏ cặp kính đen to tổ bố kia ra, trông anh ta cũng có vẻ đẹp trai lắm đấy chứ. Vậy mà cứ nhất dịnh tránh xa con gái. Sau đó chúng tôi chơi vài ván bóng bàn, anh ta đánh cũng khá. Rồi Ba tôi ở đâu đi tới, tôi nghe thấy tiếng ông hát cái bài dễ ghét Cô gái nhỏ, hãy chăm chỉ một ngày. Nếu sau này có nghĩ lại, chắc Ba tôi cũng thấy rằng ông vừa đi tới là chúng tôi im lặng, không nói gì nữa. Lúc đó khoảng sáu rưỡi, xe tôi đậu sẵn ở lối đi, và tôi đưa ý kiến ba người đi ăn cơm tối ở tiệm Trocadero.
Brimmer có vẻ do dự, giống như trường hợp của Cha O’Ney ngày nào ở New York khi được tôi và Ba tôi mời đi xem đoàn vũ nữ người Nga. Tiệm ăn sang trọng không phải chỗ quen thuộc của anh ta. Trong lúc đang ăn, có ông phó nhòm Bernie tới đòi chụp hình, nhưng Stahr đã đuổi đi. Tôi thấy tiếc rẻ vì muốn có một tấm ảnh.
Stahr đã khiến tôi ngạc nhiên khi chàng uống tời ly rượu thứ ba. Tôi nói:
- Bây giờ thì cháu chắc chắn là chú bị thất tình.
- Tại sao cháu lại nghĩ vậy?
- Vì chú đã uống tới ly cocktail thứ ba.
- Ồ, đã lâu không uống, hôm nay chú phải uống chớ có gì đâu.
Tôi đếm những chiếc ly: “Hai... ba”
- Chú uống mà chẳng thấy mùi vị gì ngon cả, chắc phải có chuyện gì đây.
Tôi nhìn ánh mắt chàng, thấy hơi sầm lại, nhưng rồi lại qua ngay. Brimmer nói:
- Đây là ly rượu đầu tiên của tôi trong tuần. Tối bắt đầu uống rượu từ khi còn ở trong Hải quân.
Sự tinh ranh đã trở lại trong đôi mắt chàng, chàng nhìn tôi:
- Tên chó đẻ trông giống như cái hộp đựng xà bông này đã từng ở trong Hải quân sao?
Brimmer hơi bối rối, không biết phải đối phó thế nào. Nhưng sau cùng rõ ràng hình như anh ta tính chung tất cả vào cuộc gặp gỡ buổi chiều nay, mà tôi đã dàn xếp với anh ta, anh ta chỉ mỉm cười nhẹ trước câu nói của Stahr. Stahr cũng mỉm cười lại. Tôi yên tâm khi thấy không có gì xảy ra, mọi người coi đó là thói quen của người Mỹ. Tôi cố nói nhiều để Stahr không có dịp lên tiếng. Nhưng sau đó chàng đã có vẻ bình thản trở lại. Chàng nhìn Brimmer như muốn nói riêng với anh ta:
- Tôi có một kinh nghiệm bàn thân như thế này: Có một ông đạo diễn thuộc loại cừ nhất ở Hollywood này, tôi chưa hề bất đồng ý kiến với ông ta điều gì bao giờ. Nhưng ông ta có một cố tật là bất cứ cuốn phim nào, ông ta cũng tìm cách nhét vào một chuyện đồng tính luyến ái, hay là một cái gì tương tự như thế. Câu chuyện đó ông ta dàn cảnh rất khéo khiến tôi không thể cắt bỏ đi được. Nhưng mỗi lần cuốn phim được đem ra chiếu là Hội Bảo vệ Luân lý lại nhao nhao lên phản đối, và rốt cuộc họ tìm cách cắt xén một đoạn ở trong cuốn phim lành mạnh khác để bù vào.
Brimmer có vẻ đồng ý:
- Đó là một trong những khó khăn điển hình của mọi tổ chức.
- Điển hình cái gì. Đó là một cuộc vật lộn bất phân thắng bại giữa tôi với anh ta. Nhưng vừa rồi anh ta bảo tôi anh ta đã được một ông giám đốc thuộc nhóm Guild che chở, và tôi không thể làm áp lực với anh ta được nữa. Như vậy đó, các anh có thấy rằng việc tranh đấu lộn xộn của các anh đã gây nhiều khó khăn thêm cho tôi chưa?
Brimmer mỉm cười:
- Thực ra thì chúng tôi đâu có kiểm soát được các đạo diễn.
Stahr có vẻ tự phụ:
- Họ đều bồ với tôi cả.
Cũng giống như Edward Seventh từng khoe anh đã sống trong xã hội quý phái nhất Âu châu. Stahr nói tiếp:
- Nhưng bọn đạo diễn không bao giờ tha tôi, dù tôi là người đã dạy bảo họ từng li, từng tí trong việc trao dồi nghề nghiệp. Họ cứ nghĩ rằng sân khấu là đất của riêng họ, tôi không có quyền xía vô. Kỳ này tôi mướn một lô một lốc bọn soạn giả để họ bầu bạn với nhau, và biến thành đảng viên công sản hết thử coi.
Gary Cooper vừa vào trong tiệm cùng với một số người khác, những người này hầu như ngồi bất động và họ chỉ thở khi nào thấy Cooper thở trước. Một người đàn bà khác vào trong tiệm đứng nhìn quanh quẩn một lát, khi quay mặt lại thì hóa ra là Carole Lombard. Dù sao thì hôm nay Brimmer cũng thấy được nhiều nhân vật trong giới điện ảnh.
Stakr kêu liền một lúc hai ly whiskey soda. Chàng không ăn gì, và luôn miệng chửi họ lười biếng thế này thế kia và tuyên bố chẳng coi ai ra gì, vì chàng có quá nhiều tiền. Những lời lẽ đó tôi đã được nghe ba tôi nói nhiều lần với bạn bè của ông. Tôi tưởng rằng ít ra Stahr cũng phải biết những câu như thế không đem ra nói ở ngoài công ty. Có thể chàng chưa được nghe ai nói như thế bao giờ nên không biết là nó chướng tai. Sau cùng chàng ngồi yên và uống hết một ly cà phê đen. Tôi yêu chàng nên dễ dàng bỏ qua. Nhưng tôi giận Brimmer. Tôi không muốn anh ta nhìn thấy những yếu điểm của Stahr như thế này. Nếu những cảnh này được đưa lên màn ảnh thì thiên hạ sẽ chỉ còn coi Stahr là một thứ đồ bỏ. Tôi muốn mọi người coi Stahr là một thiên tài trong việc tổ chức và điều hành kỹ thuật hiện đại.
Stahr lên tiếng như thế muốn bào chữa cho thái độ vừa rồi của mình:
- Tôi là một nhà sản xuất, tôi rất khoái bọn soạn giả và không bao giờ đuổi bất cứ ai, nếu họ biết làm công việc của họ.
Brimmer có vẻ khoái:
- Chúng tôi không cần biết điều đó. Điều chúng tôi nhắm là chính những nhà tư bản các anh.
Stahr gật đầu, dằn giọng:
- Phải lắm, nếu bạn bè của tôi mà có mặt đông đủ ở đây, chắc họ đã đồng thanh yêu cầu tống cổ anh và các đồng chí của anh ra khỏi thành phố này.
Brimmer có vẻ hơi giận:
- Tôi xin ghi nhận lòng tốt của anh. Thực tình mà nói, chúng tôi cũng nhận thấy động tới anh là khó lắm, vì anh là một chủ nhân có nhiều thiện cảm của công nhân, hơn nữa ảnh hưởng của anh rất lớn.
Stahr nghe Brimmer một cách lơ đãng, chàng nói:
- Tôi không bao giờ nghĩ rằng óc của tôi lớn hơn óc của một nhà văn, nhưng tôi luôn luôn nghĩ rằng bộ óc của họ phải thuộc về tôi, vì chỉ có tôi là người biết xử đụng bộ óc đó. Cũng giống như những người La Mã xưa kia, tôi nghe nói rằng họ không có tài phát minh, sáng chế, nhưng có tài xử dụng mọi cái. Anh thấy vậy không? Tôi không dám quả quyết điều đó hoàn toàn đúng, nhưng ngay từ nhỏ tôi đã có quan niệm như vậy.
Brimmer có vẻ chú ý tới câu nói vừa rồi của Stahr. Đây là lần đầu tiên từ chiều tới giờ, tôi thấy anh ta chú ý một cách đặc biệt. Anh ta trả lời Stahr:
- Anh là người biết mình lắm.
Lúc này tôi nghĩ rằng đã tới lúc Brimmer muốn cáo lui. Anh ta tò mò, muốn tìm hiểu xem Stahr là người thế nào, và bây giờ thì anh ta đã thỏa mãn. Tôi vẫn còn hy vọng thay đổi được cảm tưởng của Brimmer đối với Stahr, nên khẩn khoản yêu cầu Brimmer đi cùng xe với chúng tôi về nhà. Nhưng khi đi được nửa đường, Stahr đòi ngừng lại ở một quán rượu để uống nữa, và tôi biết rằng mình đã có quyết định sai lầm.
Hôm nay là chiều thứ Bảy, một buổi chiều êm ả, với rất nhiều xe cộ ngoài đường đưa mọi người đi nghỉ cuối tuần. Stahr duỗi tay ra phía sau nệm xe và chạm vào tóc tôi. Tự nhiên tôi thầm ao ước giá hoàn cảnh này xảy ra mười năm trước đày thì hay biết mấy. Hồi đó tôi và Brimmer đều lên chín. Anh ta đang học ở một trường miền Trung Tây. Còn Stahr thì đang vui vẻ yêu đời với một niềm tự tin mãnh liệt. Lúc đó có lẽ cả tôi và Brimmer đều nhìn Stahr cười xòa là xong. Những hoàn cảnh bây giờ đã khác nhiều: tất cả đã thành những người lớn, mọi việc khó lòng giải quyết một cách êm đẹp trong tiếng cười, nhất là khi người ta đang bị ma men cũng như sự mệt mỏi hành hạ.
Xe đã vào bên trong biệt thự, tôi lái một vòng quanh vườn, Brimmer lên tiếng cáo lỗi:
- Tôi xin phép phải đi gặp một người bạn bây giờ.
Stahr nói ngay:
- Không, anh phải ở lại. Tôi chưa cho anh biết tôi muốn gặp anh để làm gì. Chúng ta hãy đánh ping pong, uống rượu nữa rồi sẽ quần thảo với nhau.
Brimmer có vẻ do dự. Stahr bật đèn lên, cầm lấy chiếc vợt ping pong, và tôi vào nhà lấy rượu với ly ra. Tôi cảm thấy không dám cưỡng lời của chàng.
Lúc trở lại, tôi thấy hai người không chơi ping pong gì cả, nhưng Stahr đang cầm cả một hộp banh mới liệng vào Brimmer và anh ta cố gạt từng trái ra ngoài. Thấy tôi tới, chàng thôi liệng và đỡ lấy chai rượu, rót một ly rồi kéo chiếc ghế ra ngồi uống ở chỗ có đèn sáng, mắt mở to nhìn ra đêm tối, đầy uy nghiêm và nguy hiểm. Trông chàng xanh quá và hình như thân thể trở nên trong suốt, đến nỗi người ta có thể hầu như nhìn thấy chất độc của rượu đang ngấm dần vào cơ thể kiệt quệ. Chàng lên tiếng:
- Chiều thứ Bảy, thời gian để nghỉ ngơi.
- Chú chẳng nghỉ gì cả.
Chàng trông giống như người đang cầm cự trong một cuộc bại trận và sắp trở nên điên loạn. Đột nhiên chàng lên tiếng:
- Tao phải chính tay cho mày một trận mới được.
Brimmer bình tĩnh:
- Anh không mướn thằng nào khác làm thay được sao?
Tôi ra hiệu cho anh ta im.
Stahr lại lên tiếng:
- Tao phải chính tay đập mày mới hả. Tao sẽ đánh cho mày hộc máu ra và ném mày lên xe lửa, tống cổ mày đi cho rảnh mắt.
Chàng đứng dậy tiền về phía trước. Tôi vội vàng ôm lầy chàng níu lại:
- Thôi, cho cháu xin. Chú kỳ quá.
Chàng nói giọng lè nhè:
- Thằng này đã dụ dỗ bọn trẻ làm bậy. Bọn trẻ làm mà không biết mình đang làm gì.
Tôi quay qua nói với Brimmer:
- Thôi anh về trước đi.
Đột nhiên Stahr vùng khỏi tay tôi, tuột cả áo ra, và chàng đã đứng sát Brimmer. Anh ta lùi lại, chạy xung quanh chiếc bàn, vẻ mặt khó chịu và hình như đang nghĩ trong bụng: “Con người gần như bệnh hoạn thế này tại sao lại có thể nắm giữ cả một công ty lớn”.
Stahr tiến tới gần hơn, giơ nắm tay lên. Hình như Brimmer đã nắm lấy cánh tay Stahr bằng tay trái của anh ta và giữ yên như thế trong một phút. Sau đó tôi quay đi chỗ khác, không còn dám nhìn tiếp.
Lúc quay lại, tôi thấy Stahr nằm dưới chân bàn và Brimmer đang cúi nhìn chàng. Tôi lại bảo Briinmer:
- Anh về đi, để mặc em.
Anh ta nhìn lại Stahr một lần nữa rồi đi vòng qua bàn:
- Thôi, tôi về chị. Từ lâu tôi muốn được đánh một tên tỷ phú, nhưng thực không ngờ chuyện lại xảy ra ở đây.
Stahr vẫn nằm yên, bất động.
Tôi bảo Brimmer:
- Vâng. Thôi anh về đi.
- Thành thực xin lỗi chị. Để tôi giúp chị một tay.
- Không có gì đâu anh. Anh cứ để mặc tôi.
Anh ta nhìn lại Stahr một lần nữa, hơi có vẻ sợ hãi trước nét mặt im lìm, bất động của chàng. Sự im lìm này đã do chính anh ta tạo ra trong một giây đồng hồ trước. Chờ cho anh ta đi khá xa khỏi sân cỏ, tôi liền quỳ xuống nắm lấy tay chàng. Sau một lát Stahr tỉnh dậy và đầy vẻ mệt mỏi bơ phờ. Chàng lồm cồm đứng lên quát lớn:
- Nó đâu rồi?
Tôi ngây thơ hỏi lại:
- Chú hỏi ai?
- Thằng Mỹ chó chết đó. Tại sao em lại ưng lấy nó. Khốn nạn quá.
- Hắn đi rồi. Cháu có lấy ai đâu.
Tôi đẩy chàng ngồi xuống ghế và nói dối:
- Hắn đi được nữa tiếng rồi.
Mấy trái ping pong nằm rải rác trên bãi cỏ như những vì sao. Tôi mở vòi nước và đem tới một chiếc khăn mùi xoa ướt. Không có dấu vết gì ở mặt, chắc chàng bị đánh trúng ở đầu. Chàng loạng quạng đi ra sau một gốc cây. Tôi nghe hình như chân chàng đá phải một hòn gạch gì đó. Sau đó chàng có vẻ khá hơn, nhưng vẫn không đủ sức đi vào trong nhà. Tôi đem chai rượu lại cho chàng uống một ngụm whiskey nữa, bây giờ chàng mới có vẻ tỉnh trở lại. Vừa ở trường ra, tuy có chút kiến thức, nhưng đây là lần đầu tôi phải đối phó với những sự kiên bất ngờ như thế này. Dù sao mọi việc rồi cũng qua khỏi.
° ° °