Quân Khu Nam Đồng - Chương 01
Thay lời giới thiệu
Tên của tập bản thảo khiến tôi không khỏi bật cười, thấy thú vị quá đi và lập tức muốn đọc. “Gã quân khu mặc cả bộ dõng, đi giày tá, giắt xéng trong người đến nhà người yêu…” lẫy lừng một thuở thời bao cấp là đây? Nhà xuất bản không cho biết tác giả của bản thảo là ai, nhưng bởi cái danh rất đặc hiệu và nổi như cồn ấy mà chưa bắt đầu đọc tôi vẫn đoán chừng được tác phẩm này dựng khung cảnh của thời nào và tác giả thuộc thế hệ nào trai Hà Thành.
Thời Bao Cấp, ba chữ đó đè ám trong ký ức chỉ sau có Chiến Tranh, tới mức đến tận bây giờ thỉnh thoảng tôi còn bất chợt thấy mình đang ba lô lộn ngược xuôi tàu Bắc Nam đắp đổi sống qua ngày giữa cái nền văn minh “ba yêu rửa mặt bằng khăn” mà kinh hoàng vã mồ hôi hột choàng tỉnh và rồi mừng húm vì rằng chao ôi đây chỉ là một cơn bóng đè. Tuy nhiên, sau mấy mươi năm trời mà vẫn nằm mộng ngoái cổ nhìn về như vậy thì có nghĩa là ngoài sự khiếp hãi trong thâm sâu cõi lòng còn có cả nỗi nhớ nhung nữa, thậm chí buồn nhớ, thương nhớ những tháng năm cơ cực đó. Và cũng bởi vì thế, do những ấn tượng cùng những tình cảm trái ngược rất khó tả của mình đối với Thời bao cấp nên tôi luôn mong được đọc những tác phẩm văn học viết về nó. Tự truyện, hồi ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, gì cũng được, mà là về Thời bao cấp tôi đều thích đọc. Cố nhiên phải hay, mà hay thì hiếm. Theo như cách đọc và vốn liếng đọc của mình, tôi không lựa được nhiều tác phẩm kể chuyện Hà Nội những năm cuối cùng cuộc chiến hay được như cuốn này.
Nhưng mà bảo rằng đây là tác phẩm viết về Thời hậu chiến bao cấp thì lại không hẳn. Tuổi trẻ học trò, thời thanh thiếu niên của đời người mới thực là đề tài của Quân khu Nam Đồng.
Là một tự truyện, nhưng là “tự truyện tập thể”, nên tác phẩm này không theo giọng kể của ngôi thứ nhất, không có nhân vật xưng “tôi”. Mặc dù vậy, hòa mình vào hồi ức chung của anh em bạn hữu một thời khu gia binh, tác giả hiện hữu đậm nét qua cách nhìn và nghĩ, qua giọng văn và cách kể rất riêng. Có thể thấy ngay rằng tác giả của Quân khu Nam Đồng không phải một nhà văn, hoặc chí ít không phải là nhà văn chuyên nghiệp, bởi lẽ chuyên nghiệp viết văn thì không nhìn, không kể, không viết được như vậy. Phóng khoáng, mạnh bạo, dạn dĩ viết, không tự gò mình vào những khuôn phép văn chương, không tránh né những chông gai hầm hố của hiện thực từng có trong số phận con người và trong đời sống xã hội một thời, nhưng cũng không tô vẽ, bôi đen phủ hồng sự thật, tóm lại chân thực, hồn nhiên, tự nhiên nhi nhiên là đặc điểm nổi bật của văn phong tác giả.
Tự nhiên nhi nhiên, không gợn một tỵ ty gì sự “hành văn”, đây là một tác phẩm viết rất hay và đầy xúc động về tuổi hoa niên. Tình mẹ con, tình cha con, tình thầy trò, tình bạn, tình huynh đệ chiến hữu cùng trường cùng phố, tình yêu đầu đời vô cùng non nớt mà sâu nặng thuở học trò, từ trong quá khứ thời gian khổ trở về dào dạt tâm hồn tôi khi đọc cuốn sách phải nói là rất lạ lùng này.
• Bảo Ninh
Ngày gặp mặt
Khu tập thể quân đội Nam Đồng được xây dựng xong năm 1964, là một trong những khu gia binh lớn nhất Hà Nội thời chiến tranh chống Mỹ. Ban đầu, khu gồm tám dãy nhà bốn tầng, chủ yếu dành cho gia đình các sỹ quan cấp úy và cấp tá. Về sau, Bộ Quốc phòng xây thêm sáu dãy nhà một tầng giữa các dãy bốn tầng. Khoảng 500 gia đình sỹ quan sống ở đây. Thế nhưng những người gắn bó nhất với khu tập thể, không phải là các ông bố mặc quân phục thường xuyên xa nhà, mà là lũ con nít. Khi đến đây vào những năm 1964-1965, chúng đa phần chừng năm đến bẩy tuổi.
Gắn bó với nhau suốt thời thơ ấu và thời niên thiếu. Cùng học, cùng chơi, cùng tranh một chỗ xếp hàng mua gạo, hứng nước, cùng nhau đánh lộn và… yêu khi lớn lên, bọn trẻ con trong khu tập thể có rất nhiều kỷ niệm chung. Sau hàng chục năm trời, giữa chúng vẫn duy trì một mối quan hệ khá đặc biệt. Chính vì thế, khi nghe tin Ban liên lạc ở Hà Nội thông báo tổ chức gặp mặt nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập khu tập thể, thành viên từ khắp mọi miền hưởng ứng rầm rầm. Hòa thông báo cho Việt ở thành phố Hồ Chí Minh về sự kiện này. Ban đầu Việt không muốn ra: “Tôi thấy các kỳ họp mặt khu Nam Đồng gần đây, đa phần là bọn trẻ, đang ở giai đoạn thích ‘mua một vé quay về tuổi thơ’. Mình tới, chúng cũng chẳng biết là ai”. Hòa động viên: “Quên ai thì quên, chứ sao mà quên được anh Việt, thành viên ‘khét tiếng’ một thời của Quân khu Nam Đồng? Mới ngày nào đó mà đã 50 năm qua rồi… Thực ra, bây giờ đâu có mấy người hiểu vì sao một khu tập thể kiểu mẫu của các gia đình quân nhân ngày ấy lại biến thành Quân khu?”. Việt trầm ngâm: “Bọn mình cũng đã trải qua đủ ngọt bùi cay đắng, nhưng phải thừa nhận, thời gian sống ở khu Nam Đồng là những ngày vui và đẹp nhất” - Việt tặc lưỡi rồi nói thêm: “Chẳng hiểu sao ngày đó, một lũ trẻ ranh mà dám xưng hùng, xưng bá với thanh niên Hà Nội”.
Ngày gặp mặt, số người tới gấp đôi dự kiến, gần bảy trăm người. Rượu vào lời ra, quá khứ tràn về như thác lũ. Việt ngơ ngác giữa đám đông. Nó rời khu Nam Đồng đi bộ đội từ giữa năm 1974, sau đó vào thẳng Sài Gòn.
Người thân xa nhau 20 năm gặp lại nhiều khi thành lạ, huống hồ Việt và nhiều người sau 40 năm mới nhìn thấy nhau. Cô hàng xóm sát nhà đấm nó thùm thụp vì tội không nhận ra em. Mà nhớ sao được, khi ngày xưa em nhí nhảnh ngây thơ, giờ tóc em bắt đầu điểm bạc. Việt cũng không nhận ra bạn Hạnh, học cùng lớp, ngồi trên một bàn. Cả bạn Trang, trước đây Việt hay sang nhà mượn truyện, giờ Việt cũng không nhận ra… Tóm lại, em nào, bạn nào nhận ra Việt thì nhận, nó hầu như chẳng nhận ra ai. Đặc biệt có một em rất xinh túm lấy Việt: “Ôi, anh Việt, nhớ em không? Hì, nhìn kiểu này chắc không nhớ rồi! Ngày xưa, anh em mình cởi truồng tắm chung với nhau… Vẫn không nhớ à? Ôi, chán cái anh này quá!”. Việt ngẩn người, cố lục tìm trong khắp các miền ký ức mà không ra đoạn ấy. Hồi đó tuy nghịch ngợm nhưng sống rất trong sáng, làm gì đã biết cởi truồng tắm chung với con gái. Nó ngượng nghịu: “Anh không nhớ. Nhưng… bây giờ mình cùng trở về quá khứ được không em?”. Cô em cười: “Anh quá đáng vừa chứ!”.
Quá trưa, mọi người lần lượt ra về. Việt vẫn nấn ná ngồi uống. Nó vào Sài Gòn lâu nên nhiễm cái tật uống lai rai. Đám bạn học cũ cùng lớp nhắc Việt giữ sức để buổi tối chơi tiếp. Lần nào bạn bè vào Sài Gòn, Việt cũng đón tiếp thịnh soạn. Lần này nó ra Hà Nội, lại gặp dịp kỷ niệm năm mươi năm chung sống ở khu tập thể Nam Đồng, nhất định phải uống thêm một trận đã đời.
Đến sáu giờ chiều, cả bọn có mặt đầy đủ ở điểm hẹn, nhưng không thấy Việt đâu. Gọi điện thoại mới biết nó vẫn đang nhậu với những đứa chưa chịu về, ở “Lê Thạch Quán”. May mà hai địa điểm gần nhau nên mười phút sau Việt cũng có mặt. Giọng nó có vẻ say: “Mấy chục năm không gặp, tôi nhìn ai cũng thấy lạ. Nhưng rất nhiều người nhận ra tôi và tới cụng ly. Ai cụng ly tôi cũng uống, không nhớ nổi uống bao nhiêu nữa… Vui thật! Gặp mọi người, nhớ lại bao nhiêu là chuyện…”
Trong lúc mọi người tranh nhau nhắc lại kỷ niệm xưa, Hòa đề nghị:
– Hay bọn mình viết lại chuyện Quân khu Nam Đồng ngày xưa để cho con cháu nó xem?
Việt phản ứng:
– Không được, các ông mà viết thể nào trong đó cũng có tôi. Chuyện tôi ngày xưa có gì hay ho đâu? Học thì dốt, suốt ngày đánh nhau, liên tục bị vào đồn công an…
Thái Đen cũng không đồng tình:
– Hai đứa con tôi từ bé đã ngang bướng, thích đánh nhau, giống hệt tôi hồi nhỏ. Vì vậy, ngoài việc giáo dục, tôi còn phải không cho chúng nó phát hiện ra đấy là gien của bố. Chuyện bọn mình kể cho nhau nghe thì được, nếu viết thành sách, phải cân nhắc.
Hoàng hùa theo:
– Đừng viết. Hơn ba chục năm nay, vợ tôi vẫn nghĩ tôi tuy ở khu Nam Đồng nhưng mà ngoan. Nếu viết thành truyện, vợ tôi đọc được, nó sẽ bảo tôi là đồ lừa đảo. Nó đâu biết chuyện tôi đã từng bị giam… Ngày đó biết tôi từng đi tù, đời nào nó lấy tôi.
Khanh cũng có lý do riêng để phản đối:
– Con lạy các bố, chuyện đã qua xin các bố hãy để cho nó ngủ yên. Cô Ba nhà con tuy là chính cung, nhưng hay ghen chuyện cũ lắm. Bây giờ kể hết chuyện yêu đương ngày trước, nó lại tra khảo con suốt ngày.
Hà Tư lẩm bẩm, chẳng biết nó tán thành hay phản đối:
– Nếu ngày xưa các ông biết sợ như thế, khu tập thể Nam Đồng đã chẳng biến thành Quân khu!
Hòa nói:
– Kể từ ngày bọn mình xưng hùng xưng bá, làm cho cái tên “Quân khu Nam Đồng” trở nên khét tiếng một thời, cũng hơn bốn mươi năm rồi. Ông Việt đang sống độc thân, nếu truyện được viết ra, có khi lại trở thành ngôi sao sáng để cho các quý cô chưa chồng tới cầu hôn. Ông Khanh cũng không nên sợ cô Ba ghen chuyện cũ. Nếu hay ghen, cô ấy đã chẳng chịu làm vợ thứ tư của ông. Còn vợ chồng ông Hoàng “ván đã đóng thuyền” ba thập kỷ, không lẽ bỏ nhau vì một chuyện từ đời nảo đời nào? Mà nếu có bị bỏ chăng nữa, ông kiếm đâu chẳng được một cô kém hai chục tuổi như vợ ông Khanh đây.
Hà Tư đồng tình:
– Theo tôi, nếu viết lại được đúng chuyện của bọn mình thì nên viết. Bọn mình ngày xưa cũng oai hùng lắm chứ…
Việt nhún vai:
– Oai gì cái chuyện có lớn mà chẳng có khôn, khi máu dồn lên mặt là vung dao vung gậy, rồi bị công an bắt nhốt. Nghĩ mà thương ông già tôi ngày ấy, liên tục phải lên đồn bảo lãnh cho con. Bây giờ kể lại những chuyện đánh đấm khi xưa, chỉ nêu gương xấu cho lũ trẻ.
Hà Tư lắc đầu:
– Hồi đó, mình đánh nhau nhưng nghĩa hiệp. Đánh nhau là để tự vệ, để tiêu diệt bọn xấu, để bảo vệ bạn bè…
Việt cắt ngang:
– Và để “được” đi tù nữa. Ông có nhớ vụ xử án năm 1974, tại hội trường khu tập thể Nam Đồng không? Giờ nghĩ lại những trận đánh của anh em mình ngày ấy còn thấy ghê, chứ đừng nói là viết lại.
Hòa nói:
– Nếu viết truyện về “Quân khu Nam Đồng” mà không kể về những trận đánh thì đâu còn là “Quân khu”? Bọn mình ngày đó đánh nhau cũng có hoàn cảnh và nguyên nhân của nó. Tôi nghĩ, sẽ rất thú vị nếu có một tác phẩm viết về “Những trận đánh của Quân khu Nam Đồng”.
Thái Đen đề nghị:
– Nếu các ông muốn thì phải viết sao cho có tính giáo dục, để còn cho con cái đọc. Đừng nói nhiều về các vụ đánh nhau.
Hòa phản đối:
– Muốn sách giáo dục con cái, ra hiệu sách mà mua. Chuyện bọn mình như thế nào, viết ra đúng như thế thì hãy viết.
– Nhưng ai viết? – Khanh hỏi.
– Chuyện về “Quân khu Nam Đồng” đâu có của riêng ai. Theo tôi, tất cả bọn mình, ai nhớ được gì về chuyện ngày xưa thì viết lại, nộp cho tôi. Tôi sẽ chịu trách nhiệm biên tập thành một cuốn hồi ký - Hòa đề xuất.
Việt chối ngay:
– Tôi không biết viết. Ngày xưa, đến thư tình tôi cũng phải nhờ ông Hòa viết hộ. Các ông không nhớ hồi đi học, tôi thuộc loại “chổng mông” vào văn học à?
Hòa nói:
– Bốn mươi năm qua rồi, tôi làm sao nhớ hết mọi chuyện. Nếu muốn có một cuốn truyện về “Quân khu Nam Đồng” thì tất cả các ông đều phải viết. Theo tôi, ông Việt chính là người có nhiều chuyện để kể nhất. Ông không biết viết thì gạch đầu dòng, như ngày xưa ông nhờ tôi viết thư tình. Tôi sẽ làm nhiệm vụ sắp xếp lại.
Mấy tháng sau, Hòa thông báo cho mọi người đã thu được khá nhiều bài viết. Không ngờ mọi người hưởng ứng nhiệt tình như vậy. Có người nhớ gì viết nấy, như viết hồi ký. Có người viết dưới dạng truyện ngắn, với các nhân vật hư cấu. Có một số trùng lặp về nội dung hoặc tình tiết.
Hòa quyết định biên tập lại cho gọn gàng. Cứ tưởng công việc nhẹ nhàng, hóa ra mất rất nhiều thời gian.
Bản thảo “Những câu chuyện về Quân khu Nam Đồng” được gửi cho một số thành viên trong khu đóng góp. Đa phần ủng hộ, nhưng cũng có những ý kiến trái chiều. Người này thắc mắc sao không có tên mình trong đó? Người kia thấy có nhân vật hơi “phản diện” trùng tên mình, lập tức đòi bỏ chi tiết này, bổ sung tình tiết khác. Hòa vò đầu bứt tai. Cuối cùng, nhà biên tập “bất đắc dĩ” quyết định: Đổi hết tên nhân vật thật trong truyện. Có điều, trong khu tập thể có hàng nghìn cái tên, rất nhiều tên giống nhau, đặt tên không trùng người này cũng sẽ trùng người kia. Đành phải giải thích thêm đây là “truyện”, giống như “tiểu thuyết”, nên phải “hư cấu”, xin đừng hiểu nhầm giữa “nhân vật” với người thật việc thật… Mặt khác, gần nửa thế kỷ đã trôi qua, nhìn lại ký ức, mọi thứ cứ lung linh và mờ ảo, giống như một buổi sáng mùa đông, chúng ta ngắm nhìn cảnh vật qua những lớp sương mù. Vì vậy, các tình tiết trong câu chuyện cũng có thể đôi điều không chính xác.
Mười hai ngày đêm
Tháng Tư năm 1972, có tin Mỹ sẽ cho máy bay ném bom trở lại miền Bắc. Toàn bộ học sinh Hà Nội phải về nông thôn sơ tán. Một số đi theo trại của cơ quan bố hoặc mẹ, như Hòa và Khanh tới Nhổn, Đính và Minh lên Vĩnh Yên… Một số khác như Việt, Ngọc, Hoàng sơ tán theo trường cấp ba Đống Đa về Chương Mỹ, Hà Tây. Chỉ có mấy ngày mà đám bạn bè mỗi đứa một nơi, chưa biết ngày nào trở lại.
Không phải lần đầu đi sơ tán nên chẳng ai bỡ ngỡ. Miền quê luôn thú vị và hấp dẫn với đám trẻ con thành phố. Không gian rộng lớn, bầu trời bao la, hồ nước trong xanh, cánh đồng bát ngát, dòng sông hiền hòa… tha hồ chơi bời thỏa thích.
Một buổi tối, Hòa ngồi dạy hai đứa em bài đồng dao:
Đom đóm bay qua,
Thầy tưởng là ma,
Thầy ù thầy chạy.
Ba thằng ba gậy,
Đi rước thầy về.
Bắt con lợn sề,
Cho thầy chọc tiết,
Bắt con cá diếc,
Cho thầy bẻ mang,
Bắt con tôm càng,
Cho thầy bóc vỏ…
Ông Lê Hồng Đào, chủ nhà, người Hòa vẫn gọi sau lưng là “ông ba quả”, đang ngồi uống nước, ngắt lời nó:
– Anh đọc sai rồi. Phải đọc là: “Ba thằng bảy gậy, đi rước thầy về!”.
Hòa cãi:
– Cháu đọc theo sách, sai làm sao được?
Cái Lê Thị Mận, con gái “ông ba quả” ngồi cạnh, cũng chen vào:
– Bố sai thì có. Con đọc sách cũng thấy đúng là “Ba thằng ba gậy”.
Ở nhà này, “ông ba quả” không bao giờ thèm đếm xỉa tới ý kiến Lê Thị Mận, Lê Thị Bưởi và Lê Thị Lựu, dù chúng nó cũng “ba quả” như ông. Ông chỉ chăm chăm lắng nghe nhận xét của cậu út Lê Hồng Cam. Hòa thỉnh thoảng lại an ủi bọn con gái là nếu thiếu mấy đứa chúng nó, tên ông Đào với Cam ghép kiểu gì cũng không đủ một mâm ngũ quả trên bàn thờ. Ông bảo Hòa:
– Sách sai! Anh cho tôi hỏi, anh có biết con cá diếc như thế nào không?
Mặc dù chẳng biết hình thù cá diếc thế nào, Hòa vẫn nói:
– Cháu biết. Mẹ cháu hay kho cho bọn cháu ăn.
– Anh có biết tại sao trong bài này lại nói: “Bắt con cá diếc, cho thầy bẻ mang” không?
Hòa trả lời bừa:
– Chắc bài đồng dao này ám chỉ thầy bói chỉ nói giỏi mà không biết làm, cho thầy bẻ mang cá diếc để thầy quen lao động.
– Không phải. Đây là bài đồng dao nói ngược. Ở quê, chúng tôi mổ cá diếc không bao giờ bẻ mang. Thầy bói là người bắt ma, trừ tà, không thể nào thấy đom đóm lại tưởng là ma. Lợn sề là nái đẻ, không đem chọc tiết, xẻ thịt. Còn tôm càng khi ăn đâu có ai bóc vỏ. Toàn bộ bài đồng dao anh vừa đọc, câu nào cũng nói ngược. Vì vậy, nếu “ba thằng ba gậy”, sẽ có một câu nói thuận lọt thỏm vào giữa. Từ thời các cụ, tôi thấy ở đây mọi người vẫn đọc “Ba thằng bảy gậy”.
Hòa thấy bác chủ nhà nói cũng có lý, và nó rất khoái vì nhờ chuyện này nó biết thêm về cá diếc với lợn sề. Nhưng nó vẫn tin sách (làm gì có chuyện “ông ba quả” lại giỏi hơn sách), và tiếp tục dạy em theo sách… Cứ thế, mỗi ngày miền quê đem đến cho Hòa thêm những điều mới lạ. Dù đang chiến tranh, nhưng với bọn trẻ ở nơi sơ tán, đó là những ngày tháng yên bình. Mỗi khi máy bay Mỹ tới, kẻng báo động vang lên, cả lũ chạy xuống hầm trú ẩn, thò cổ ngắm những vệt khói trắng của tên lửa ngoằn ngoèo trên nền trời xanh lơ. Với tụi chúng, chiến tranh là một cái gì đó rất mơ hồ và ở xa tít tắp.
Cho tới một ngày…
Tối 18 tháng Mười hai năm 1972, khoảng bảy rưỡi, vừa ăn cơm xong thì có kẻng báo động. Hòa cố tình nhẩn nha trong nhà. Nó rất ngại xuống hầm buổi tối. Ở đời sống chết có số, nếu như bom rơi trúng cái hầm chữ A, được gác chéo bởi mấy cây tre, trên phủ sơ sài rơm trộn với bùn thì có tránh đằng trời. Nó sợ nhất đêm tối xuống hầm, dẫm phải bọn cóc, hoặc sờ phải nhái bén, ễnh ương, thi thoảng gặp cả rắn nữa. Nói chung, Hòa rất sợ những con da trơn trơn, nhơn nhớt như thạch sùng, thằn lằn, tắc kè, cóc, nhái… Về sau nó mở rộng thêm vào danh sách này bọn người lươn lẹo. Nó nghĩ bụng: Không xuống hầm chưa chắc đã chết vì bom, xuống hầm có khi lại chết vì rắn độc cắn. Tuy vậy, quy định báo động phải xuống hầm. Mọi người xuống cả, một mình ở trên cũng khó coi.
Nhưng tối nay, không chỉ một hai hồi kẻng như mọi khi, kẻng liên tục, dồn dập… Tiếng đạn pháo, tiếng bom nổ, tiếng gầm rú của máy bay như một bản giao hưởng hỗn loạn trên bầu trời. Hòa lẩm bẩm: “Chết rồi, nó đánh Hà Nội”. Suốt đêm, mỗi lần nghe bom và súng nổ lẫn trong tiếng kẻng báo động, mọi người lại lốc thốc ra hầm. Khoảng hơn bốn giờ sáng, Hòa vừa chợp mắt, lại nghe bom nổ rầm rầm. Vừa buồn ngủ, vừa mệt và lười, nó trùm chăn kín đầu, phó mặc số mệnh. Nó vừa ngủ vừa thấp thỏm không biết bố mẹ ở Hà Nội có sao không? Rồi nó tự an ủi: Chắc gì Mỹ đã đánh vào Hà Nội. Các bên đang đàm phán ký kết Hiệp định Paris, chắc Mỹ chỉ thả bom đâu đó ở ngoại thành… Tiếng bom nghe gần lắm, chắc gần đây, nơi nó sơ tán, chứ không phải Thủ đô.
Hôm sau đến trường, các thày cô thông báo đêm qua máy bay B52 Mỹ tấn công Hà Nội. Học sinh phải nghỉ học để gia cố các hầm trú ẩn. Cả ngày hôm đó hoàn toàn yên tĩnh. Thế nhưng tối đến, cũng khoảng ngoài bảy giờ rưỡi, kẻng báo động lại vang lên dồn dập. Lần này, tiếng bom và tiếng súng phòng không còn rền vang hơn đêm trước. Nhà cửa rung bần bật. Có cảm giác mặt đất rùng rùng chuyển động dưới bước chân của một đàn voi khổng lồ đang di chuyển chậm rãi, mỗi bước chân nện xuống là một tiếng bom rền. Cả đêm Hòa phải ở dưới hầm. Tới hơn năm giờ sáng hôm sau mới ngớt tiếng bom và súng. Mặt trời nhô ra, hắt ánh sáng vàng ệch trên những quầng mây xám xịt.
Đến trường, nom đám bạn bè đứa nào cũng phờ phạc. Nhà trường thông báo nghỉ học tiếp. Về nhà, Hòa thấy chật ních người. Bà nội không đi sơ tán, nay được mẹ đưa lên cùng với cô Hương và hai đứa bé lít nhít con cô đang khóc inh ỏi. Hòa và hai em được ông chủ nhà sắp xếp nằm trên hai cái giường tre, giờ thêm bốn người nữa thành ra không đủ chỗ. Ba anh em nhường giường cho bà và mẹ con cô Hương, trải nilon nằm dưới đất. Ông chủ nhà luôn miệng xin lỗi bởi nhà chật quá. Hòa cũng cảm thấy hơi ngại. Mẹ con cô Hương không phải thành phần của trại, lên thế là sai quy định. Bác Dụ, trại trưởng đi qua trông thấy, tỏ ý không hài lòng nhưng cũng chẳng nói gì. Cô Hương cứ thanh minh cô chỉ ở nhờ mấy hôm, vì lúc này chẳng biết chạy đi đâu cả. Ít bữa nữa cơ quan cô thu xếp được chỗ sơ tán, cô sẽ chuyển đi ngay.
Hà Nội vắng tanh. Trên khắp các ngả đường ra ngoài Thủ đô là những dòng người rồng rắn đi sơ tán. Sau hai đêm máy bay B52 ném bom, nếu không vì nhiệm vụ, ít người dám trụ lại.
Đêm 20 và 21, cứ sau bảy rưỡi tối, máy bay Mỹ lại vào ném bom. Sang ngày 23 và 24 thì súng bắn, bom nổ cả đêm lẫn ngày. Nhiều lúc Hòa phát chán chả buồn xuống hầm trú ẩn. Nó thừa biết nếu một quả bom rơi xuống, cả ngôi nhà này cùng với hầm sẽ biến thành cái ao. Hòa rủ Khanh ra trận địa của đơn vị pháo cao xạ xin một chân phục vụ, làm tiếp đạn hay đưa nước, dù sao được tham gia đánh nhau cũng sướng hơn cảnh suốt ngày trốn xuống hầm như đám chuột. Nhưng tính Khanh vốn nhát chết nên chối đây đẩy.
Sáng ngày 25, Minh và Đính nghe lỏm được tin Mỹ tuyên bố sẽ không ném bom ngày Nô-en nên từ Vĩnh Yên xuống, rủ Hòa và Khanh về Hà Nội chơi. Khanh không về, nó cho rằng không tin được bọn đế quốc Mỹ. Hòa thấy thế lại mừng, vì trốn một lúc hai thằng dễ lộ. Nó dặn Khanh ở lại lựa lời mà nói dối, đừng để bác Dụ biết nó đi Hà Nội. Về cái khoản nói dối như thật, Hòa hoàn toàn tin tưởng ở Khanh.
Tới Hà Nội, ba đứa gặp Việt và Hoàng cũng trốn trường cấp ba nội trú từ Chương Mỹ Hà Tây về. Việt bảo trốn đi chơi những ngày này an toàn nhất, vì thầy cô giáo lúc nào cũng ngồi cạnh hầm trú ẩn, cứ thấy báo động là chui vào, đâu có thời giờ đi kiểm tra học sinh. Nó nghe trộm đài BBC, thấy Mỹ tuyên bố ngừng ném bom ngày Nô-en nên rủ Hoàng trốn về Hà Nội. Trừ Hoàng biết chỗ mẹ giấu chìa khóa, còn mấy đứa kia chẳng ai vào được nhà, nên cả bọn về nhà nó. Lục bếp không có gì chén được, Hoàng xúc mấy bơ gạo, mang xuống Ngã Tư Sở đổi bánh cuốn. Đến nơi, cửa hàng đóng im ỉm. Cả nhà bà bán bánh cuốn đã đi sơ tán. Hòa đói quá, đề xuất nấu cơm ăn với muối cũng được. Trong lúc Hoàng thổi cơm, Việt thấy ngoài sân có con gà mái gầy còm, nó bèn lùa vào hành lang, nhẹ nhàng khép góc, bắt sống.
Hoàng nhìn thấy, nói ngay:
– Gà nhà cô Hoa dạy toán đấy, thả ra đi.
Việt toan thả, xong lại ngần ngừ:
– Thả ra, có khi ngày mai bom Mỹ cũng giết chết nó. Chết vì bom, chắc gì đã được toàn thây…
Hòa lẩm bẩm:
– Cả nhà cô Hoa đi sơ tán hết, lấy đâu người cho nó ăn? Sớm muộn nó cũng chết vì đói.
Minh đề xuất:
– Nhân ngày Đức Chúa giáng sinh, mình nên hóa kiếp cho nó, để nó sớm được đổi đời.
Hoàng vẫn ngần ngừ, Minh bồi tiếp:
– Mình hóa kiếp cho nó để kiếp sau nó trở thành con công, con phượng, có khi nó còn cảm ơn mình.
Hòa tán thêm:
– Cô Hoa mà thấy mấy thằng cháu yêu của cô sắp chết đói giữa một thành phố đang là tâm điểm của mưa bom bão đạn thế này, chắc cô thịt luôn cả đàn gà nhà cô cho bọn mình ăn ấy chứ.
Hoàng nghĩ ngợi… Cuối cùng, tình hàng xóm láng giềng của nó cũng bị đẩy lùi trước sự muốn ăn gà của chính mình. Nó bảo Minh:
– Tao mổ xong, mày phải đem lông đi thật xa vứt nhé!
Minh mặc cả:
– Tao vứt lông thôi. Tí nữa ăn xong, thằng Việt phải đem vứt xương.
Việt cười:
– Ăn xong mày hãy đi vứt lông, tiện tay vứt luôn xương.
Con gà mái tuy gầy nhưng đầy một bụng trứng, có quả đã hình thành vỏ cứng, chắc chỉ ngày một ngày hai là đẻ. Mấy đứa chia nhau những quả trứng ngon và bùi, vừa ăn vừa tự an ủi mình đã giúp không chỉ một con, mà là cả mẹ con, anh em nhà gà của cô Hoa kiếp sau được trở thành con công, con phượng. Sau đó, cả bọn lượn một vòng, qua nhà máy Cao su Sao Vàng, vào làng Nhân Chính xem những hố bom B52. Buổi tối, chúng đi chơi Nhà thờ Hàng Bột và Nhà thờ Lớn, tới khuya mới về, để bố mẹ có muốn đuổi ngay về nơi sơ tán cũng không đuổi được. Quả nhiên về nhà, đứa nào cũng chỉ bị mắng qua loa mấy câu và phải hứa sáng sớm hôm sau sẽ trở lại nơi sơ tán.
Thế nhưng khi chưa kịp mắc màn đi ngủ, Đính đã gọi cả bốn đứa ra, thì thào:
– Bố tao nói một thằng phi công khai: Mỹ dự định sẽ ném bom khu tập thể Nam Đồng, vì nơi này tập trung nhiều sỹ quan cao cấp của quân đội. Bố tao bắt phải đi ngay đêm nay.
Lúc đó đã gần nửa đêm nên Hòa, Hoàng, Việt và Minh đều cảm thấy ngại. Hòa nói:
– Mỹ đã thông báo không đánh ngày Nô-en mà? Tổng thống Mỹ chứ có phải bà bán kẹo kéo đâu mà nói rồi lại nuốt lời?
Việt đồng tình:
– Theo quy luật, nếu đánh đêm, nó thường bắt đầu đánh lúc 19 giờ 30. Bây giờ chưa đánh, chắc đêm mai mới đánh.
Đính giải thích:
– Ông già tao làm ở Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu. Thông tin của ông chắc là chính xác. Nó chỉ không đánh ngày Nô-en thôi. Qua nửa đêm là hết Nô-en. Chiều nay Bộ Tổng Tham mưu đã lệnh cho Quân chủng Phòng không-Không quân: Từ 19 giờ, tất cả bộ đội, vũ khí, tên lửa phải sẵn sàng chiến đấu.
Việt lý sự:
– Nó là Mỹ, nên ngày Nô-en phải tính theo giờ Mỹ. Trưa mai mới hết ngày Nô-en.
Hòa cũng bàn lùi:
– Đêm nay chưa chắc nó đã đánh, có đánh chưa chắc đã trúng, đánh trúng chưa chắc đã chết. Thôi, cứ để sáng mai đi.
Đính có vẻ cũng ngại đi lúc nửa đêm. Nó nói với Việt:
– Thế tao ngủ với mày nhé. Ông già tao kiên quyết bắt đi ngay đêm nay. Bà già tao vừa bị ông ấy đưa lên nhà bác ở phố Khâm Thiên để tránh rồi.
Việt đồng ý ngay. Nó nói:
– Sáng mai tao cũng phải báo cho ông bà già tao biết chuyện máy bay Mỹ sẽ ném bom khu tập thể Nam Đồng để liệu mà đi tránh.
Đính dặn:
– Chúng mày nói cũng được, nhưng chuyện này là bí mật quân sự, phải nhắc ông bà già chúng mày đừng nói lung tung, không là đi tù đấy.
Hôm sau, cả bọn trở lại nơi sơ tán từ sớm tinh mơ. Đêm 26 tháng Mười hai, Thủ đô Hà Nội đã hứng chịu một trận bom B52 thảm khốc nhất trong lịch sử. Phố Khâm Thiên bị tàn phá nặng nề. Nhiều khối phố bị san phẳng. Có người nói: Mục tiêu Mỹ định đánh là khu tập thể Nam Đồng, nhưng do hỏa lực phòng không của ta dữ dội quá nên chúng ném bom lệch tọa độ. Nhìn từ trời cao, khu Khâm Thiên và khu tập thể Nam Đồng cách nhau chỉ một gang tay.
Mẹ Đính mất trong đêm đó, tại phố Khâm Thiên.