Sét Hòn - Tử Thần Trên Sa Mạc Gobi - Chương 13

Phần 3

24

GIÓ LỐC

Tôi mau chóng tìm được việc làm. Đây là công việc nghiên cứu thuộc loại đem lại lợi ích cho sinh mệnh mà không có tác dụng quân sự như tôi từng nói với Cao Ba: Dự báo gió lốc. Mùa hè năm ngoái, tôi và Giang Tinh Thần đã tận mắt chứng kiến cơn lốc xoáy ở hòn đảo nhỏ đó, kỷ niệm để lại rất sâu sắc. Khi sử dụng hệ thống quang học do thám eletron vĩ mô, tôi đã nhìn thấy nhiễu động khí quyển hiện lên rất rõ trên màn hình, và nhanh chóng nghĩ tới việc hệ thống này có thể tạo ra đột phá trong dự báo gió lốc. Hiện tại, giới Khí tượng học đã có hiểu biết sâu về cơ chế Khí động học của quá trình hình thành gió lốc, tạo ra được một mô hình toán học hoàn thiện về quá trình này. Nếu tôi có thể kết hợp mô hình này với sự nhiễu động khí quyển được hệ thống do thám tìm được thì sẽ phán đoán được các nhiễu động khí quyển có khả năng phát triển thành gió lốc, tiến thêm bước nữa là dự báo được gió lốc.

Cao Ba đã giải quyết được trở ngại lớn nhất của dự án này: Chuyển giao kỹ thuật do thám quang học không bào cho bên dân dụng. Sau khi ông liên hệ với quân đội, quá trình diễn ra dễ dàng hơn tưởng tượng rất nhiều, bởi hệ thống này không liên quan trực tiếp đến sét hòn, quân đội rất nhanh chóng đồng ý việc chuyển giao kỹ thuật.

Sau khi quay trở về từ Tổng cục Vũ trang, Cao Ba nói tôi liên hệ trực tiếp với hai đơn vị cùng nghiên cứu về hệ thống do thám không bào. Họ là những người nghiên cứu về phần mềm và phần cứng của hệ thống, đều là những cơ quan địa phương, không có bất kỳ mối liên hệ gì với căn cứ hiện tại. Tôi hỏi Cao Ba về tình hình của căn cứ, ông nói mình chỉ hỏi han bên phòng quản lý của dự án thuộc Tổng cục, chưa từng liên hệ với căn cứ. Ông ấy nghe nói cấp độ bảo mật của căn cứ đã được nâng lên rất nhiều. Bây giờ, căn cứ coi như đã cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài. Tôi nghĩ về tình thế hiện tại, điều này cũng có lý. Tôi nhận ra một điều rằng mình vẫn nghĩ về họ trong suốt thời gian qua.

Dự án nghiên cứu của tôi tiến triển rất nhanh vì độ chính xác cần có để phát hiện ra nhiễu động khí quyển thấp hơn so với yêu cầu do thám không bào. Thế nên, hệ thống do thám quang học vừa mới chuyển tới đã có thể dùng ngay, thậm chí do hạ thấp độ chính xác nên phạm vi do thám được mở rộng thêm một cấp. Tất cả những gì tôi cần làm là dùng mô hình toán học thích hợp để phán đoán đối với những hình ảnh thu được về nhiễu động khí quyển, nhận biết những nhiễu động có khả năng trở thành gió lốc (Sau này, các nhà chuyên môn thường gọi những nhiễu động này là “noãn”). Trong những ngày đầu nghiên cứu sét hòn, tôi dồn rất nhiều tâm sức vào việc xây dựng các mô hình toán học. Đây là con đường vòng từng có một thời gian khiến tôi không chịu nổi, nhưng hiện tại xem ra cũng không vô ích. Tôi có được khả năng lập các mô hình toán học trong lĩnh vực Động lực học chất khí và chất lỏng, những thứ này đã phát huy tác dụng vô cùng to lớn trong lần nghiên cứu này, khiến phần mềm của hệ thống do thám gió lốc nhanh chóng được hoàn thành.

Chúng tôi thử nghiệm hệ thống này ở tỉnh Quảng Đông, nơi hay xảy ra lốc xoáy và dự báo thành công vài lần. Trong đó, có một lần thành công chỉ cần quét qua một góc của thành phố Quảng Châu. Hệ thống này có thể đưa ra cảnh báo sớm từ mười đến mười lăm phút, chỉ đủ để sơ tán người dân tới nơi an toàn trước khi gió lốc xuất hiện, không có cách nào tránh được các tổn thất khác. Nhưng trong giới Khí tượng, hệ thống này đã là một thành tựu rất lớn rồi. Trên thực tế, dựa vào nguyên lý của Chaos*, dự báo dài hạn gió lốc là chuyện không thể.

Thời gian trôi đi rất nhanh trong bộn bề công việc, mới chớp mắt mà một năm đã trôi qua. Năm qua, tôi đã tham gia Đại hội Khí tượng thế giới bốn năm tổ chức một lần và giành được đề cử trong danh sách năm người của Giải thưởng IMO, được mệnh danh là giải Nobel trong lĩnh vực Khí tượng học. Sau cùng, tôi không giành được giải do các nguyên nhân liên quan đến lý lịch nhưng như vậy cũng đủ để thu hút sự chú ý của giới Khí tượng.

Một địa điểm phụ của Hội nghị học thuật Quốc tế về Xoáy thuận nhiệt đới được tổ chức ở Oklahoma Bắc Mỹ nhằm giới thiệu thành quả nghiên cứu gió lốc. Nơi đây có một hành lang gió lốc nổi tiếng, bộ phim “Twister” có nội dung về nghiên cứu gió lốc đã lấy nơi đây làm bối cảnh.

Mục đích chính của chuyến đi lần này là tham quan hệ thống dự báo gió lốc thực tế đầu tiên trên thế giới. Xe ô tô băng qua những vùng đồng bằng bằng phẳng. Ba khung cảnh thường thấy nhất của Oklahoma là những cánh đồng lúa mì rộng lớn, đồng cỏ và mỏ dầu, lần lượt xuất hiện qua cửa sổ xe ô tô. Khi gần tới địa điểm, Tiến sĩ Ross, người đi cùng chúng tôi ra hiệu kéo rèm xuống.

“Tôi rất xin lỗi, chúng ta đang đi vào một căn cứ quân sự.”

Tôi đột nhiên mất hứng, tự hỏi liệu có phải bản thân sẽ không bao giờ thoát khỏi quân đội và căn cứ quân sự không? Sau khi xuống xe, tôi nhìn thấy không gian xung quanh đều là những công trình tạm bợ, vài cột ăng-ten nhô lên của hệ thống ra-đa, tất cả đều được bọc trong một mái vòm hình cầu lớn. Tôi còn nhìn thấy một thiết bị giống kính viễn vọng thiên văn đặt trên xe, chắc là một máy phát laser công suất lớn nhằm phục vụ do thám quang học khí quyển. Sau khi bước vào phòng điều khiển, tôi nhìn thấy một dãy máy tính quân sự màu xanh đậm quen thuộc. Những người thao tác đều đang mặc quân phục rằn ri quen thuộc, chỉ có thứ duy nhất xa lạ chính là màn hình plasma siêu lớn có độ phân giải cao. Ở trong nước, chúng tôi hầu như không thể có được thứ này, đa phần đều dùng máy chiếu.

Trên màn hình lớn là hình ảnh nhiễu động của khí quyển mà hệ thống do thám quang học khí quyển thu thập được. Thành quả của việc chuyển nhượng này đã kiếm được rất nhiều tiền cho Sở Sét của Cao Ba. Hóa ra, những hình ảnh nhiễu động trông rất bình thường trên màn hình nhỏ lại quá đỗi hoàng tráng khi được chiếu trên màn hình lớn. Dòng nước xiết hỗn loạn giống như đám mãng xà khổng lồ đang uốn éo cuồng loạn, mang đến cảm giác sợ hãi và mê muội.

“Thật không thể ngờ, bầu trời dường như trống rỗng lại là một thế giới điên rồ như vậy,” ai đó cảm thán.

Các anh còn chưa nhìn thấy những thứ điên rồ hơn thế đâu, tôi thầm nghĩ. Tôi tỉ mỉ quan sát nhiễu động trên màn hình, cố gắng tìm kiếm không bào của electron vĩ mô. Đương nhiên, tôi không thể tìm thấy được, nhưng trong hình ảnh lớn như này, chắc chắc không chỉ có một không bào được. Chúng chỉ được nhận ra nhờ phần mềm nhận biết hình ảnh thuộc loại tuyệt mật.

“Hôm nay chúng ta có thể nhìn thấy noãn không?” Tôi hỏi.

“Chuyện nhỏ,” Ross trả lời chắc nịch. “Gần đây, gió lốc xuất hiện dày đặc ở Oklahoma và Kansas. Tuần trước, Oklahoma đã ghi nhận kỷ lục lịch sử xuất hiện 124 đợt gió lốc chỉ trong vòng một ngày.”

Để không chậm trễ thời gian thêm nữa, chủ nhà đã tạo một phòng họp ngay trong căn cứ. Hội thảo báo cáo học thuật sẽ tiếp tục tại đây, trong lúc đợi noãn xuất hiện. Những người tham dự còn chưa yên vị trong phòng thì chuông cảnh báo đã vang lên, báo hiệu hệ thống do thám đã tìm thấy một noãn. Mọi người xông vào phòng điều khiển, trên màn hình vẫn là một đống hỗn độn quay cuồng, không khác gì nhiều so với ban nãy. Noãn không có hình dạng cố định, chỉ được nhận ra nhờ phần mềm nhận biết mẫu, được đánh dấu sự tồn tại bằng vòng tròn đỏ.

“Nó còn cách nơi này 130km nữa, đã tới rìa thành phố Oklahoma rồi,” Ross thông báo.

“Khoảng bao lâu nữa thì nó sẽ trở thành gió lốc?” Có người lo lắng hỏi.

“Khoảng bảy phút.”

“Không kịp sơ tán người dân,” tôi nói.

“Không, Tiến sĩ Trần, chúng ta sẽ không thực hiện cuộc sơ tán nào cả!” Ross nói lớn. “Đây là bất ngờ mà hôm nay chúng tôi mang tới cho mọi người!”

Trên màn hình lớn, một khu vực hình vuông nhỏ hiện lên, hiển thị một tên lửa đạn đạo đang gào rú từ bệ bắn bay thẳng lên trời. Ống kính theo dõi đường đi của tên lửa, hiện rõ cái đuôi mảnh dẻ màu trắng vạch một đường parabol khổng lồ trên bầu trời. Khoảng một phút sau, tên lửa đạn đạo đã vượt qua đỉnh của parabol và giảm dần độ cao. Một phút nữa trôi qua, tên lửa phát nổ ở khoảng cách cách mặt đất chừng năm trăm mét. Quả cầu lửa nóng bỏng trên nền trời như một đóa hồng nở tung cánh. Trên phần hình ảnh về nhiễu động khí quyển được chiếu ở màn hình lớn, đường tròn đỏ biểu thị vị trí của noãn xuất hiện thêm quả cầu thủy tinh ngày càng được phóng to. Quả cầu trong suốt ấy mau chóng biến mất, nhiễu động hỗn loạn lại bổ sung ngay vào vị trí của nó. Vòng tròn đỏ biến mất, chuông cảnh báo dừng lại, Tiến sĩ Ross tuyên bố là noãn đã bị tiêu diệt. Đây là cái noãn thứ chín mà hệ thống có cái tên rất kêu “thợ săn lốc xoáy” này tiêu diệt được.

Tiến sĩ Ross giới thiệu. “Như mọi người đã biết, gió lốc được sinh ra từ những cơn giông mạnh. Trong cơn giông, không khí ẩm và không khí nóng sẽ bay lên, đi qua tầng không khí lạnh và bị lạnh đi. Hơi nước trong không khí ngưng tụ lại thành giọt mưa hoặc mưa đá. Không khí sau khi được làm lạnh sẽ mang theo giọt mưa hoặc mưa đá rơi xuống, tùy theo tác dụng của các nhân tố như không khí nóng ở tầng dưới cho tới chuyển động tự quay của Trái đất… ảnh hưởng tới, luồng không khí này sẽ lại cuộn lên trên, cuối cùng tạo thành lốc xoáy. Quá trình hình thành của gió lốc không ổn định, khối khí lạnh chìm xuống đại diện cho dòng năng lượng chủ đạo. Luồng khí lạnh này chính là tâm của noãn. Hệ thống thợ săn lốc xoáy sẽ phóng tên lửa đạn đạo mang theo bom napalm* để tấn công chính xác khối không khí lạnh đang chìm xuống. Loại bom napalm này ngay lập tức có thể giải phóng nhiệt lượng cực lớn, đốt nóng khối khí lạnh đang chìm xuống, từ đó phá hủy sự hình thành của gió lốc. Chúng ta đều biết kỹ thuật tấn công của tên lửa đạn đạo và kỹ thuật bom napalm đã có từ lâu. Trên thực tế, đây không được gọi là tấn công chuẩn xác. Độ chính xác yêu cầu trong trường hợp này thấp hơn so với yêu cầu trong quân đội một cấp độ, vì thể giảm được chi phí. Chúng tôi đều sử dụng những tên lửa đạn đạo bị đào thải. Kỹ thuật quan trọng của hệ thống thợ săn lốc xoáy chính là hệ thống do thám quang học khí quyển của Tiến sĩ Trần. Đây chính là sáng tạo giúp chúng ta định vị trước được noãn, cũng biến việc tiêu diệt gió lốc trở thành hiện thực. Nào, chúng ta cùng tri ân anh ấy!”

Ngày hôm sau, tại thủ phủ Oklahoma, tôi được phong làm công dân danh dự. Sau khi nhận được Bằng danh dự của Thống đốc, một thiếu nữ tóc vàng ôm bó hoa đại diện Oklahoma tặng cho tôi, đó là loài hoa tầm gửi mà tôi chưa từng nhìn thấy. Cô ấy nói với tôi rằng một cơn gió lốc diễn ra vào năm ngoái đã cướp đi sinh mạng của bố mẹ cô. Vào đêm kinh hoàng ấy, cơn gió lốc cấp F3 đã hất tung nóc nhà và cuốn bay mọi thứ trong nhà lên độ cao hàng trăm mét. Cô bé thoát chết trong gang tấc khi rơi xuống một cái đầm. Lời kể của cô bé làm tôi nhớ tới đêm sinh nhật ác nghiệt đã cướp đi bố mẹ tôi, đồng thời cũng làm tôi thấy tự hào về công việc của mình. Chính công việc này cuối cùng đã giúp tôi thoát khỏi được bóng ma của sét hòn, bắt đầu một cuộc sống mới tràn ngập ánh nắng mặt trời.

Sau buổi lễ, tôi bày tỏ sự kính trọng của mình với Tiến sĩ Ross. Mặc dù tôi có được bước đột phá trong dự báo gió lốc nhưng người cuối cùng chinh phục được gió lốc chính là bọn họ.

“Người chinh phục cuối cùng của gió lốc chính là hệ thống phòng thủ đạn đạo chiến sự đấy,” Tiến sĩ Ross vô tư nói.

“Hệ thống phòng thủ đạn đạo chiến sự?”

“Đúng vậy, chúng tôi gần như cứ thế bê y nguyên mà sử dụng, chỉ thay thế bộ phận nhận biết tên lửa tập kích bằng hệ thống định vị noãn của anh. Hệ thống phòng thủ đạn đạo này dường như được sinh ra dành cho gió lốc đấy.”

Giờ tôi mới nhận ra điểm giống nhau của hai thứ này, đều là tự động nhận biết mục tiêu tập kích rồi dẫn dường cho tên lửa đánh chặn.

“Lĩnh vực nghiên cứu của tôi thực ra không liên quan gì tới khí tượng. Tôi phụ trách Hệ thống phòng thủ đạn đạo và phần mềm hệ thống Phòng thủ tên lửa Quốc gia nhiều năm rồi. Khi nhìn thấy vũ khí do mình phát triển có thể mang lại lợi ích cho xã hội theo cách này, tôi thực sự cảm nhận được một niềm hạnh phúc chưa từng có trước đây. Tiến sĩ Trần, tôi thực sự rất cảm ơn anh.”

“Điều này tôi có thể hiểu được,” tôi chân thành đáp.

“Gươm cũng có thể rèn thành lưỡi cày,” Ross nói, giọng trầm hơn nhiều. “Nhưng một vài lưỡi cày cũng có thể rèn thành gươm, giống như những nhà nghiên cứu vũ khí như chúng tôi. Khi thực thi nhiệm vụ, đôi lúc chúng ta không thể không chấp nhận những mất mát do vũ khí mang tới… Tiến sĩ Trần, anh hiểu điều đó không?”

Tôi đã nghe được những lời kiểu này từ Cao Ba, vì thế tôi lặng lẽ gật đầu và trở nên cảnh giác. Anh ta nói “chúng ta” là để chỉ mình mình hay bao gồm cả tôi nữa. Họ biết công việc tôi đã làm trước kia hay sao?

“Cảm ơn, cảm ơn anh rất nhiều,” Ross nói. Tôi để ý ánh mắt anh ta nhìn tôi rất kỳ lạ, còn bộc lộ một chút buồn rầu. Mãi về sau, tôi mới biết đó là bản thân nghĩ quá nhiều, lời nói của anh ta không liên quan gì tới tôi, mà tới lúc ấy tôi mới thực sự hiểu được hàm ý trong ánh mắt ấy. Tôi có lẽ là nhóm học giả cuối cùng xuất ngoại. Vào ngày thứ mười sau khi về nước, chiến tranh nổ ra.

Tàu hạm Châu Phong bị đánh chìm, cuộc sống trở nên căng thẳng. Mỗi ngày, ngoài việc quan tâm tới tình hình chiến sự thì công việc của tôi cũng có thêm một tầng ý nghĩa khác, một vài niềm vui và rắc rối chủ yếu chiếm lấy cuộc sống trước kia giờ đã không còn trở nên quan trọng nữa.

Hôm nay, tôi nhận được một cuộc điện thoại từ quân đội, thông báo rằng tôi cần tới tham dự một cuộc họp, họ sẽ cử một thiếu úy hải quân tới đón.

Sau khi chiến tranh bùng nổ, thi thoảng, tôi vẫn nhớ tới dự án sét hòn. Trước tình hình nghiêm trọng này, nếu căn cứ cần thì tôi sẽ từ bỏ cảm xúc của bản thân để hoàn thành trách nhiệm nhưng không có tin tức nào được gửi tới. Tin tức về chiến sự không xuất hiện bất cứ thông tin nào về vũ khí sét hòn. Đây vốn là thời điểm tốt nhất để nó xuất hiện nhưng nó lại như thể chưa từng tồn tại. Tôi gọi điện cho căn cứ, phát hiện số điện thoại họ dùng trước kia không còn gọi được nữa, cũng không biết Đinh Nghi đã đi đâu. Tất cả những gì tôi từng trải qua giống như một giấc mộng, không để lại dấu vết gì.

Sau khi đến nơi, tôi nhận ra đa phần những người tham dự cuộc họp đều thuộc bên hải quân, tôi không biết một ai trong số họ. Cuộc họp này rõ ràng không liên quan gì tới vũ khí sét hòn. Biểu cảm trên gương mặt mọi người đều trông khá khó coi, khiến bầu không khí hội trường vô cùng nặng nề.

“Tiến sĩ Trần, chúng tôi muốn nói cho anh biết về tình hình trận hải chiến diễn ra ngày hôm qua. Chuyện này chưa được đưa lên bản tin,” một vị đại tá hải quân nói luôn mà không cần bất kỳ lời phát biểu khai mạc nào.

“Vị trí cụ thể và tình hình chi tiết của trận hải chiến này thì anh không cần biết rõ. Tôi sẽ chỉ nói tới những chuyện liên quan. Khoảng ba giờ chiều ngày hôm qua, nhóm tác chiến mẫu hạm Châu Phong đã bị một số lượng lớn tên lửa hành trình tập kích…”

Nghe thấy cái tên này, lòng tôi nhảy dựng lên.

“… Số lượng tên lửa tập kích rất lớn, hơn bốn mươi. Hạm đội ngay lập tức triển khai hệ thống phòng thủ nhưng mau chóng phát hiện phương thức tập kích lần này rất kỳ lạ: Bình thường, tên lửa hành trình sẽ bay sát biển để tập kích mục tiêu, nhưng độ cao của đợt tên lửa tấn công này lên đến một nghìn mét, như thể chúng không quan tâm có bị bắn hạ hay không. Quả nhiên là đám tên lửa không hề tấn công trực tiếp vào hạm đội mà nổ tung bên ngoài vòng vây phòng thủ của chúng tôi. Độ cao khi phát nổ từ năm trăm tới một nghìn mét. Sức nổ của mỗi đầu đạn rất nhỏ nhưng lại rắc ra một lượng lớn bột màu trắng. Mời anh xem, đây là đoạn băng ghi hình lúc đó.”

Màn chiếu hiển thị bầu trời trong xanh đầy mây, như thể sắp có mưa giông. Ngay sau đó, bầu trời xuất hiện nhiều điểm trắng, những điểm trắng ấy dần lan ra, như hàng chục giọt sữa nhỏ trên mặt nước.

“Đây là những điểm nổ của tên lửa hành trình,” Đại tá chỉ vào các điểm trắng tản mát trên màn hình. “Rất kỳ lạ phải không? Chúng tôi nhất thời không biết kẻ địch định làm gì. Những vật chất trắng này…”

“Hiện trường còn dấu tích gì khác không?” Tôi ngắt lời ngài Đại tá, một linh cảm khủng khiếp đang dâng lên trong tôi.

“Ý anh là gì? Dường như không có dấu tích nào liên quan.”

“Không liên quan cũng được, ngài thử nhớ lại xem,” tôi khẩn thiết nói.

Đại tá và một vài sĩ quan nhìn nhau, đoạn một trung tá đeo kính lên tiếng: “Kẻ địch có một máy dự báo bay trên vùng trời này. Cũng đâu có gì khác thường?”

“Còn gì nữa không?”

“À… Kẻ địch sử dụng vệ tinh quỹ đạo tầm thấp* phóng laser công suất cao tới vùng biển này, có thể là để phối hợp với máy dự báo để do thám tàu ngầm ở nước sâu… Chuyện này có liên quan tới việc tên lửa tập kích mà chúng tôi nói sao? Tiến sĩ Trần, anh không khỏe ở đâu à?”

Tôi hy vọng đó là để do thám tàu ngầm, Chúa phù hộ rằng mấy thứ đó dành để do thám tàu ngầm… Tôi vừa lo lắng cầu nguyện, vừa nói: “Không sao, cảm ơn. Các anh biết thứ bột trắng đó là gì không?”

“Tôi vừa định nói với anh…” Đại tá nói, màn hình chiếu thay đổi. Bức ảnh được hiển thị gồm một vài nhóm màu sắc tươi sáng hỗn độn không theo trật tự nào như bảng màu của họa sĩ. “Đây là hình ảnh màu giả hồng ngoại*. Nhìn này, điểm cháy nhanh chóng trở thành một vùng nhiệt độ cực thấp” Đại tá chỉ vào một khoảng màu xanh nổi bật trên khung hình. “Cho nên chúng tôi đoán thứ bột phấn trắng này có thể là chất làm lạnh hiệu quả cao.”

Tôi cảm thấy như mình vừa bị một tia sét đánh trúng, trời đất nghiêng ngả. Tôi bám chặt lấy cái bàn để giữ vững bản thân. “Nhanh, hãy ra lệnh cho hạm đội rút khỏi khu vực biển đó!” Tôi chỉ vào màn hình hét lớn.”

“Tiến sĩ Trần, đây là đoạn băng ghi hình. Chuyện xảy ra từ hôm qua rồi.”

Tôi choáng váng, sững sờ một lúc mới hiểu ý trong lời nói đó.

“Đây là bức ảnh chụp từ phía trên mẫu hạm Châu Phong lúc ấy, anh xem xem.”

Màn hình chuyển sang vùng biển và bầu trời rộng lớn, một tàu khu trục hộ tống xuất hiện rồi biến mất ở góc màn hình. Tôi nhận thấy trên bầu trời xuất hiện hình một cái phễu dài. Cán của cái phễu hướng về phía mặt biển, kéo dài và nhanh thành một sợi vải mỏng. Khi sợi vải ấy chạm vào mặt biển, nước biển được cái phễu hút lên lập tức biến thành màu trắng. Ban đầu, dải ruy băng trắng nối trời với biển còn rất mỏng, đung đưa nhè nhẹ. Phần eo gầy yếu như sắp đứt đoạn. Nhưng trong phút chốc, nó trở nên thô dày, từ một dải vải mỏng từ trời cao rơi xuống biến thành một cột trụ khổng lồ cao vời vợi đứng trên mặt biển chống lấy bầu trời. Màu trắng cũng bị nhuộm đen, chỉ có nước biển đang xoay tròn bên ngoài vẫn lấp lánh ánh mặt trời.

Tôi đã từng nghĩ tới việc này nhưng vẫn không thể tin rằng có người lại có thể làm được.

Noãn là những nhiễu động có khả năng tạo ra gió lốc, có số lượng rất lớn ở tầng khí quyển. Một phần nhỏ trong chúng cũng có thể phát triển thành gió lốc, giống với việc trứng gà có nhiều cỡ nào thì cũng chỉ có một phần nhỏ có được khả năng nở thành gà con. Tâm của noãn là không khí lạnh đang chìm xuống, phải làm khối không khí này tăng nhiệt thì mới cản trở được sự chìm xuống đó, sau đó mới có thể tiêu diệt được noãn sẽ phát triển thành gió lốc, giống cảnh tượng tôi đã thấy ở Oklahoma. Đồng thời, nếu khối không khí lạnh được tăng cường thêm thì noãn vốn chuẩn bị biến mất sẽ lại phát triển thành gió lốc. Do số lượng của các noãn vô cùng lớn, cho nên vào điều kiện thời tiết thích hợp, chúng có thể tạo ra gió lốc bất cứ lúc nào. Chìa khóa của loại công nghệ này chính là phát hiện ra các noãn tiềm năng. Hệ thống dự báo gió lốc của tôi đã cung cấp khả năng ấy. Đáng sợ hơn là hệ thống này có thể phát hiện ra cơ hội: Nếu có hai noãn trở lên gần nhau, thậm chí xếp chồng lên nhau thì có thể đồng thời “ấp” nhiều noãn, tập hợp khéo léo được năng lượng trong khí quyển, thúc đẩy cơn lốc siêu cấp vốn không thể tồn tại trong tự nhiên.

Những gì xuất hiện trước mắt tôi là một cơn lốc xoáy. Cơn lốc có đường kính hơn hai cây số, gấp đôi gió lốc tự nhiên. Cơn lốc lớn nhất trong tự nhiên thường ở cấp F5, như vậy đã được gọi là “bàn tay của Chúa” rồi. Cơn lốc được con người “ấp” nhân tạo này nhỏ nhất cũng phải cấp F7. Trên màn hình, cơn lốc đang từ từ di chuyển sang phải, mẫu hạm Châu Phong đang chuyển hướng khẩn cấp, cố gắng tránh khỏi nó. Lực đẩy của cơn lốc thường thẳng, tốc độ khoảng 60km/h, tương đương với tốc độ tối đa của mẫu hạm. Nếu Châu Phong có thể tăng tốc và chuyển hướng đủ nhanh thì hy vọng có thể tránh được nó.

Nhưng vào lúc này, cột trụ khổng lồ chống trời màu đen lại rủ xuống hai dải ruy băng màu trắng. Chúng tức tốc trở nên dày và thô, nhanh chóng biến thành hai cột trụ khổng lồ màu đen giống nhau.

Khoảng cách của ba cơn lốc siêu cấp này nhỏ hơn so với đường kính của chúng, chưa tới một nghìn mét. Chúng tạo thành một hàng rào tử thần dài tới tám cây số, mạnh mẽ áp sát tới. Số phận của Châu Phong đã được định đoạt.

Cột lốc xoáy choán lấy khung hình trong phút chốc. Làn sương cuồn cuộn mãnh liệt xông tới, giống như thác nước ngang ngạnh. Bên cạnh trụ xoáy là vực sâu tăm tối. Khung hình rung lắc dữ dội rồi biến mất.

Theo lời kể của Đại tá thì một cơn lốc đã quét ngang qua nửa trước của mẫu hạm Châu Phong. Như lời dự đoán của vị Trung tá hải quân nói với tôi trên hòn đảo kia, boong chính của Châu Phong gãy đôi và chìm sau nửa giờ, tính cả thuyền trưởng, hơn hai nghìn binh sĩ đã vong trận. Khi cơn lốc đến gần, thuyền trưởng đã quyết đoán ra lệnh phong tỏa cấp độ A đối với hai lò phản ứng hạt nhân. Điều này giúp giảm thiểu lớn nhất khả năng rò rỉ hạt nhân, nhưng cũng khiến Châu Phong mất đi hoàn toàn động cơ. Hai tàu khu trục hộ tống và một tàu tiếp liệu cũng bị đánh chìm. Sau khi cơn lốc siêu cấp quét qua đội tàu, một con tàu trong số đó đã tiếp tục đi thêm được hơn hai trăm mét nữa rồi mới dần biến mất. Đây là quãng đường dài gấp đôi quãng đường dài nhất của một cơn lốc xoáy được ghi lại trong lịch sử. Cơn lốc này trong lúc phô trương sức mạnh còn quét qua một hòn đảo nhỏ, xóa sổ một làng chài trên đảo, giết chết hơn một trăm người, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em.

“Hạm trưởng của Châu Phong là Giang Tinh Thần đúng không?”

“Đúng vậy, anh biết anh ấy à?”

Tôi không nói gì, chuyện này làm tôi nghĩ tới Lâm Vân nhiều hơn.

“Chúng tôi mời anh đến vì anh là học giả có thành tựu nhất trong lĩnh vực nghiên cứu gió lốc ở trong nước. Nguyên nhân thứ hai là hệ thống vũ khí khí tượng có tên là Eros đã tấn công Châu Phong lần này, dựa vào tình báo thì hệ thống này có liên quan tới thành quả nghiên cứu của anh.”

Tôi nặng nề gật đầu: “Đúng vậy, tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm.”

“Không, anh hiểu lầm rồi. Chúng tôi không mời anh tới để truy cứu trách nhiệm. Anh không có lỗi gì cả. Sở nghiên cứu Sét đã công bố và chuyển giao thành quả của dự án này, nó đã được các cấp bộ ngành liên quan xem xét và thông qua, hoàn toàn hợp pháp. Đương nhiên, chuyện này phải có người chịu trách nhiệm nhưng không phải anh. Về mặt ứng dụng công nghệ cao vào quân sự, chúng ta không nhanh nhạy bằng kẻ địch.”

Tôi lên tiếng: “Loại vũ khí này có thể phòng thủ được, chỉ cần hệ thống phòng thủ đạn đạo của hạm đội và hệ thống do thám quang học khí quyển của chúng tôi kết hợp lại là được. Tôi từng thấy cách dùng bom napalm để tiêu diệt gió lốc. Nhưng chúng ta còn có thể sử dụng phương pháp hiệu quả và nhanh chóng hơn đó là dùng vi sóng công suất lớn hoặc laser để gia nhiệt cho khối không khí lạnh chìm xuống là được.”

“Đúng thế, chúng tôi đang toàn lực phát triển hệ thống phòng ngự này, cũng mời anh tới dốc sức giúp đỡ,” Đại tá khẽ thở dài. “Nhưng thành thật mà nói, hệ thống này trong trận sau sẽ phải dùng tới rồi.”

“Tại sao?”

“Châu Phong đã mất sức chiến đấu, điều này đả kích tới quyền thống trị trên biển của chúng ta. Trong cục diện chiến tranh sau này, chúng ta không còn khả năng để tiến hành một trận quyết chiến quy mô lớn với kẻ địch trên biển nữa. Chúng ta chỉ có thể dựa vào hỏa lực trên bờ để phòng thủ ven biển.”

Sau khi rời khỏi Trung tâm Tác chiến Hải quân, một tiếng còi cảnh báo phòng không vang lên thê lương trong thành phố. Đường phố mau chóng không còn một ai. Tôi bước đi vô định trên đường phố vắng tanh, không nghe thấy những lời gọi hò hét của đội dân phòng. Họ chạy tới kéo tôi đi, nhưng tôi lại hất họ ra, tiếp tục bước đi như kẻ mộng du. Họ xem tôi như một kẻ điên, bỏ chạy tự lo cho chính mình. Giờ tôi hoàn toàn tuyệt vọng, chỉ mong sao có một quả bom chấm dứt cuộc sống thống khổ này. Nhưng tiếng nổ chỉ vang lên ở phía xa, còn khu vực gần đó lại yên tĩnh đến đáng ngờ. Tôi không rõ mình đã đi bao lâu, chuông cảnh báo đã dừng kêu, người trên đường đông đúc trở lại. Tôi mệt mỏi ngồi sụp xuống bậc thềm trong vườn hoa của thành phố, nhận thức được bộ não trống rỗng của mình giờ đã tràn ngập một cảm giác. Lúc này tôi mới hiểu được cảm giác của một người.

Tôi hiểu Lâm Vân.

Tôi cầm điện thoại, bấm số của căn cứ, vẫn không có ai trả lời. Tôi đứng dậy và nhìn quanh tìm kiếm tắc-xi. Tắc-xi trong thời chiến rất hiếm, phải chờ nửa tiếng mới gọi được một chiếc. Tôi muốn tới căn cứ.

Xe tắc-xi đi chừng ba tiếng đồng hồ thì tới nơi. Căn cứ đã bị bỏ hoang một thời gian, mọi nơi đều trống không, người và thiết bị cũng không còn. Tôi đứng cô độc rất lâu giữa khu thí nghiệm kích thích không còn gì. Một tia nắng yếu ớt của buổi chiều tà xuyên qua ô cửa kính vỡ nát chiếu thẳng vào tôi rồi dần biến mất, cho tới khi màn đêm buông xuống thì tôi mới chịu rời đi.

Sau khi quay trở về thành phố, tôi đến các cơ quan liên quan tới quân đội để hỏi thăm về dự án sét hòn và đơn vị Thần Quang nhưng không ai có thể trả lời tôi. Họ dường như đã bốc hơi khỏi nhân gian. Tôi thậm chí còn gọi tới số điện thoại của Đại tướng Lâm nhưng cũng không có ai bắt máy.

Tôi đành quay trở lại Sở Sét, lao đầu vào nghiên cứu việc sử dụng vi sóng công suất lớn để loại bỏ lốc xoáy.

25

CON CHIP BỊ PHÁ HỦY

Chiến tranh tiếp tục kéo dài, một mùa thu nữa lại tới. Mọi người đã dần quen với cuộc sống thời chiến. Cảnh báo phòng không và địa điểm cấp phát khẩu phần ăn giờ giống như các buổi nhạc hội và quán cà phê, trở thành một phần trong cuộc sống thường nhật.

Tôi cống hiến hết mình cho việc nghiên cứu phát triển hệ thống phòng thủ gió lốc. Dự án này cũng do Sở Sét đảm nhận. Công việc rất gấp rút nên tôi nhất thời quên đi các việc khác. Nhưng rồi sự cân bằng mong manh cuối cùng trong thời chiến cũng bị phá vỡ.

Khoảng ba giờ chiều, tôi đang thảo luận cùng Sở Sét và vài kỹ sư quân đội về một số chi tiết kỹ thuật của máy phóng vi sóng năng lượng cao. Thiết bị này có thể phóng với công suất khoảng một tỷ watt, chùm vi sóng hội tụ với mật độ cao có tần số từ mười đến một trăm gigahertz, mà năng lượng vi sóng trong phổ này có thể hấp thụ được phân tử nước. Nếu vài chùm sóng như vậy kết hợp với nhau thì cường độ năng lượng khu vực chiếu xạ sẽ là khoảng một watt trên một xen-ti-mét vuông, sản sinh ra tác dụng làm khối khí lạnh trong noãn đang chìm xuống gia tăng nhiệt độ, tiêu diệt mối nguy. Thiết bị như vậy kết hợp với hệ thống do thám quang học khí quyển sẽ tạo ra một hệ thống phòng ngự hiệu quả đối với vũ khí gió lốc.

Lúc này, tôi đột nhiên nghe thấy một âm thanh kỳ lạ, rất giống tiếng của một trận mưa đá bất ngờ ập tới. Âm thanh ấy truyền tới từ một nơi rất xa xăm, sau đó âm lượng tăng vọt lên, cuối cùng vang lên ngay trong căn phòng này. Xung quanh chúng tôi có những tiếng nổ đùng đoàng, thậm chí có tiếng còn vang lên từ ngực trái của tôi! Cùng lúc, máy tính xung quanh xảy ra hiện tượng dị thường: Rất nhiều mảnh vỡ nhỏ bay xuyên qua lớp vỏ còn nguyên vẹn của máy chủ. Quan sát kỹ hơn, tôi thấy những mảnh vỡ ấy chính là CPU, RAM và các con chip khác. Những mảnh chip trôi dày đặc trong không khí. Tôi giơ tay lên chạm phải nhiều con chip đang lơ lửng. Đây không phải là ảo ảnh. Ngay sau đó, những con chip lơ lửng này tập hợp thành một cái đuôi rồi biến mất. Bầu không khí lại trống trải như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Màn hình của những chiếc máy tính thay đổi, xuất hiện màn hình màu xanh hiển thị các lỗi nghiêm trọng hoặc đen kịt lại.

Tôi thấy ngực trái mình nóng ran, đưa tay lên sờ thử thì thấy chiếc điện thoại nằm trong túi áo đã trở nên nóng rẫy, tôi vội lấy nó ra. Những người xung quanh cũng làm hành động y như vậy. Những chiếc điện thoại đều bốc lên khói trắng. Tôi tháo điện thoại ra thì thấy một đám tro trắng mịt mù. Chip bên trong điện thoại đã bị phá hủy. Chúng tôi cũng tháo mấy chiếc máy tính ra. Trên bo mạch chủ, gần một phần ba các con chip đã bị đốt cháy. Văn phòng làm việc trong phút chốc chứa đầy tro trắng và thứ mùi kỳ dị từ những con chip bị đốt cháy.

Ngay sau đó, những màn hình máy tính và bóng đèn còn lại tắt phụt. Mất điện rồi.

Suy nghĩ đầu tiên của tôi là những con chip đã trở thành mục tiêu tập kích của sét hòn. Nhưng có điều gì đó rất không ổn. Xung quanh đây đều là các đơn vị nghiên cứu, số lượng chip không đếm xuể, năng lượng của sét hòn sau khi giải phóng dù đã giảm xuống nhưng vẫn còn rất lớn. Trong khi bán kính hoạt động của nó không thể vượt quá một trăm mét. Ở khoảng cách này, chắc chắn chúng tôi sẽ nghe thấy tiếng nổ mà sét hòn phát ra khi giải phóng năng lượng. Đôi tai của tôi đã được nghe rất nhiều tiếng sét hòn phát nổ nên trở nên nhạy bất thường, thậm chí tôi có thể nghe được tiếng phát ra trong lúc nó còn đang trôi lơ lửng. Nhưng vừa nãy, ngoại trừ tiếng nổ của con chip khi bị đốt cháy, tôi không nghe thấy âm thanh nào khác, vậy nên có thể khẳng định gần như chắc chắn là xung quanh không có sét hòn.

Việc đầu tiên chúng tôi phải làm là xác định phạm vi của cuộc tấn công. Tôi định sử dụng điện thoại bàn nhưng phát hiện nó cũng không thể dùng được nữa. Tôi chỉ còn cách cùng vài người đi xuống lầu để xem thử. Chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra tất cả những con chip trong khu thử nghiệm sét và hai tòa văn phòng đều bị tấn công, khoảng một phần ba số chip bị hủy hoại. Chúng tôi chia nhau tới Sở nghiên cứu Vật lý khí quyển và Trung tâm mô phỏng Khí tượng gần đó, và đều phát hiện ra chip ở cả hai nơi này đều bị tấn công như vậy. Cho tới hiện tại, kẻ tấn công chắc chắn phải cần tới vài chục quả sét hòn mới có thể tạo ra mức độ thiệt hại như vậy. Nhưng tôi không tìm thấy dấu vết nào của nó.

Cao Ba cử một vài thanh niên đạp xe ra ngoài để tìm hiểu tình hình. Những người còn lại thì lo lắng đợi trong văn phòng. Ở Sở Sét, chỉ có tôi và Cao Ba biết chuyện về vũ khí sét. Chúng tôi thỉnh thoảng đưa mắt nhìn nhau, thầm hoảng sợ trong lòng. Mấy cậu thanh niên kia sau nửa tiếng đồng hồ thì đã lần lượt quay trở lại. Họ kinh hãi như gặp phải ma. Họ đạp xe lòng vòng ba đến năm cây, chip ở những nơi đã đi qua đều chịu sự tấn công bởi sức mạnh thần bí này. Tỷ lệ bị đốt cháy là như nhau, đều khoảng một phần ba. Họ không dám đi thêm nữa, không hẹn mà cùng quay trở về Sở để báo cáo tình hình. Trong tình trạng không thể sử dụng điện thoại di động và điện thoại bàn, mọi người đều nhất thời luống cuống.

“Nếu kẻ địch sở hữu loại vũ khí ma quỷ như thế thì chúng ta không còn đường sống nữa rồi!” Ai đó thốt lên.

Tôi và Cao Ba lại liếc nhìn nhau, trong lòng hoang mang: “Như này nhé, chúng ta lấy bốn chiếc xe ô tô trong Sở đi về bốn hướng để kiểm tra tình hình trên phạm vi lớn hơn xem.

Tôi phóng về phía Đông của thành phố, dọc đường đi, tôi thấy bên trong các tòa nhà đều tối om, mọi người tụ tập thành từng tốp ở bên ngoài, gương mặt ai nấy đều căng thẳng, trong tay của rất nhiều người còn cầm chiếc di động đã trở nên vô dụng. Thấy tình hình như vậy, tôi không cần xuống xe cũng biết chuyện gì đã xảy ra. Thế nhưng tôi vẫn xuống xe vài lần, chủ động hỏi mọi người xem có thấy dấu vết gì của sét hòn không. Tuy nhiên, không ai nhìn và nghe thấy gì cả.

Sau khi rời khỏi thành phố, tôi vẫn tiếp tục lái xe về phía trước, đến một thị trấn nhỏ ở ngoại ô. Nơi này tuy cũng mất điện nhưng nỗi hoảng sợ ít hơn nhiều so với trong thành phố. Trong tôi đang dâng trào một niềm hy vọng mạnh mẽ rằng mình đã đi tới biên giới của vùng hủy diệt, hoặc chí ít là nhìn thấy dấu hiệu sự hủy diệt đã nguội dần. Tôi đậu xe bên ngoài một quán cà phê Internet và nôn nóng bước vào. Hoàng hôn đang phủ xuống vạn vật, quán cà phê mất điện tối om, nhưng tôi có thể lập tức ngửi thấy mùi khét lẹt quen thuộc đó. Tôi nhấc một chiếc máy tính đem ra ngoài rồi tháo nó ra, xem xét kỹ lưỡng bo mạch chủ. Dưới ánh sáng chiều tà, tôi nhìn thấy một vài con chip trong CPU đã biến mất. Bo mạch chủ từ tay tôi rơi xuống đất, trúng vào bàn chân nhưng tôi không hề cảm thấy đau mà chỉ rùng mình trong cơn gió lạnh. Tôi leo lên xe và quay trở về.

Sau khi tôi về đến Sở, không lâu sau thì ba chiếc xe khác cũng quay lại, chiếc đi xa nhất đã đi hơn một trăm cây số dọc theo quốc lộ, tới đâu cũng gặp chuyện tương tự như ở đây.

Chúng tôi gấp gáp tìm kiếm thông tin từ bên ngoài. Không có ti-vi, không có mạng, cũng không có điện thoại, chỉ có máy thu thanh là còn dùng được. Nhưng chiếc máy thu thanh kỹ thuật số đắt tiền ấy đều dùng IC làm cầu nối nên đã trở nên vô dụng. Tôi tìm mãi mới thấy được một cái đài bán dẫn cũ còn hoạt động của người đưa thư để lại trong phòng tiếp tân. Đài bắt được một số đài phát thanh ở các tỉnh phía Nam với chất lượng âm thanh rất kém, ngoài ra còn hú họa bắt được hai, ba đài tiếng Anh, một đài tiếng Nhật. Mãi tới tận đêm khuya, các đài phát thanh mới dần đưa tin về thảm họa li kỳ này. Từ những báo cáo rời rạc, chúng tôi biết được câu chuyện như sau:

Khu vực hủy diệt chip điện tử là một hình tròn có tâm ở phía Tây Bắc, bán kính 1300km, ảnh hưởng tới một phần ba lãnh thổ đất nước. Phạm vi này khiến người ta kinh hãi. Nhưng tỷ lệ phá hủy chip giảm từ tâm của vòng tròn ra ngoài. Thành phố của chúng tôi nằm ở rìa của vòng tròn này.

Một tuần sau đó, chúng tôi quay về sống trong xã hội nông nghiệp trước khi điện xuất hiện. Ngày tháng trở nên vô cùng khó khăn. Nước được đưa tới bằng xe bồn, lượng nước được cấp phát cho mỗi người chỉ vừa đủ để uống. Buổi tối, chúng tôi phải dùng nến để thắp sáng.

Thời gian này, tin đồn về thảm họa lần này ngày càng nhiều, lời giải thích được tuyên truyền rộng rãi nhất trên phương tiện truyền thông (chỉ còn đài phát thanh) và trong xã hội chính là sự việc này liên quan tới người ngoài hành tinh. Nhưng trong tất cả các loại tin đồn ấy, không có bất cứ tin nào đề cập tới sét hòn.

Trong mớ thông tin lộn xộn ấy, chúng tôi đưa ra được ít nhất một kết luận: Lần tấn công này không phải do kẻ thù, chúng cũng đang bối rối như ta. Điều này khiến chúng tôi nhẹ nhõm phần nào. Giai đoạn này, tôi tưởng tượng ra hàng trăm khả năng, nhưng không khả năng nào thuyết phục được bản thân. Tôi chắc chắn rằng mọi chuyện có liên quan tới sét hòn nhưng đồng thời lại chắn chắn rằng nó không phải sét hòn. Vậy vũ khí lần này là cái gì?

Hành vi của kẻ thù cũng có phần khó hiểu. Đất nước chịu một đòn tấn công như vậy, về cơ bản thì đã mất đi khả năng phòng thủ nhưng cuộc tiến công của chúng lại dừng lại. Ngay cả những cuộc không kích diễn ra mỗi ngày trước kia cũng biển mất. Truyền thông thế giới có một lời giải thích tương đối thuyết phục về chuyện này: Khi người ta phải đối mặt với một thế lực vô danh có thể dễ dàng hủy diệt toàn bộ thế giới văn minh như vậy thì không ai dám manh động cho đến khi mọi chuyện được làm sáng tỏ.

Sự kiện này hóa ra lại mang tới khoảng thời gian yên bình nhất kể từ khi chiến tranh nổ ra, mặc dù cũng có những điều bất ổn và tiêu điều trong sự thanh bình này. Không có điện và máy tính, cả ngày không có việc gì để làm nên nỗi sợ hãi của mọi người không có cách nào để giải tỏa.

Đêm đó, trời đổ mưa lạnh, tôi ngồi một mình trong ký túc xá lạnh lẽo, nghe tiếng mưa rơi bên ngoài, cảm thấy mọi thứ đang ngập ngụa trong bóng tối vô biên. Ngọn nến trước mặt tôi là vật duy nhất phát sáng trong cả thế giới này. Nỗi cô đơn vô bờ khiến tôi choáng ngợp, cuộc đời chưa được xem là dài của tôi dội về tâm trí như một bộ phim: Bức tranh trừu tượng được vẽ bằng tro cốt của những đứa trẻ trong nhà máy điện hạt nhân, bàn cờ vây được Đinh Nghi đặt trong không bào, hồ quang điện dài thượt trong màn đêm, Siberia trong gió tuyết, tiếng đàn và thanh kiếm sắc bén của Lâm Vân, giông bão và bầu trời sao ở Thái Sơn, những năm tháng đại học, và cuối cùng, bộ phim quay tới bữa tiệc sinh nhật trong đêm giông bão năm nào… Tôi cảm thấy cuộc đời mình đã đi một vòng lớn rồi lại quay trở về điểm xuất phát. Chỉ có điều, trong đêm mưa hôm nay không hề có tiếng sấm, ngọn nến trước mặt cũng chỉ còn lại một ít.

Lúc này, tiếng gõ cửa vang lên. Tôi chưa kịp đứng dậy thì người đó đã kịp đẩy cửa xông vào. Anh ta cởi áo mưa ướt sũng ra, thân hình gầy gò run lên vì lạnh. Khi nhận ra gương mặt của anh ta trong ánh nến, tôi kinh ngạc thốt lên.

Người đứng đó là Đinh Nghi.

“Anh có rượu không? Rượu nóng thì càng tốt,” anh ta nghiến răng nói.

Tôi đưa cho anh ta nửa chai rượu xái Hồng Tinh. Đinh Nghi hơ đáy chai lên trên ngọn nến để hâm nóng, nhưng nhanh chóng mất kiên nhẫn, anh ta liền cầm cả chai lên và tu mấy ngụm lớn. Đoạn, Đinh Nghi lau miệng rồi lên tiếng:

“Không nói chuyện cà kê nữa. Tôi cần kể cho anh những chuyện mà anh muốn biết.”

Cuộc phục kích trên biển

(Sau đây là những gì Đinh Nghi kể với tôi về chuyện đã xảy ra sau khi tôi rời căn cứ.)

Vụ việc trong nhà máy điện hạt nhân thành công lớn (ít nhất là thành công về mặt chiến thuật), vũ khí sét hòn dần bị lãng quên bỗng nhiên được chú ý trở lại và nhận được nhiều khoản đầu tư. Các khoản đầu tư lớn này chủ yếu dùng vào việc thu thập các electron vĩ mô có sức tấn công chip điện tử. Các cuộc tấn công có độ chọn lọc cao đánh vào IC, đây là phương án được coi là tiềm năng lớn nhất của loại vũ khí này. Sau rất nhiều giai đoạn, số lượng lưu trữ các electron vĩ mô rất hiếm này đã vượt quá năm nghìn, đủ để tạo nên một hệ thống vũ khí dùng trong thực chiến.

Sau khi chiến tranh bùng nổ, căn cứ luôn ở trong trạng thái kích động cực đoan. Hầu như ai cũng tin rằng vũ khí sét hòn sẽ giống như xe tăng trong Thế chiến thứ nhất và vũ khí hạt nhân trong Thế chiến thứ hai. Đây sẽ là vũ khí tạo nên lịch sử. Họ ráo riết chuẩn bị làm nên dấu mốc lịch sử nhưng chỉ thị của cấp trên chỉ có hai từ: Đợi lệnh. Kết quả là đơn vị Thần Quang trở thành đội quân nhàn hạ nhất trong chiến tranh. Ban đầu, họ nghĩ rằng chỉ huy sẽ sử dụng vũ khí này vào lúc nguy cấp nhất, nhưng Lâm Vân thông qua nhiều cách luồn lách đã biết được một điều rằng chúng tôi chỉ đang tự huyễn hoặc bản thân. Chỉ huy không đánh giá cao loại vũ khí này. Họ cho rằng sự việc ở nhà máy điện hạt nhân là một trường hợp đặc biệt, không thể chứng minh tiềm năng của vũ khí sét hòn. Các binh chủng đều không hứng thú quá nhiều đối với việc đưa vũ khí này vào chiến trường. Quả nhiên, đầu tư nghiên cứu lại bị đình chỉ.

Sau khi nhóm tác chiến mẫu hạm Châu Phong bị tiêu diệt, căn cứ rơi vào tình trạng khó chịu cực độ. Mọi người đều cho rằng một vũ khí khái niệm khác đã thể hiện được uy lực cực mạnh của nó, thế mà quân ta vẫn giữ thái độ như vậy với vũ khí sét hòn thì đúng là ngu xuẩn. Họ đều cảm thấy vũ khí này là hy vọng duy nhất có thể lật ngược tình thế của cuộc chiến.

Lâm Vân đã rất nhiều lần đề nghị bố mình cho đơn vị Thần Quang tham chiến nhưng đều bị từ chối dứt khoát. Một lần, Đại tướng Lâm nói với con gái: “Tiểu Vân, nỗi ám ảnh của con về vũ khí không nên trở thành mê tín. Con cần suy nghĩ sâu sắc hơn về chiến tranh và nhìn mọi thứ một cách toàn diện. Ý tưởng dựa vào một hai loại vũ khí mới để chiến thắng cả một cuộc chiến thật là ấu trĩ.”

(Lúc kể tới đây, Đinh Nghi nói: “Là một người sùng bái công nghệ, khuynh hướng sử dụng vũ khí của tôi còn cực đoan hơn cả Lâm Vân. Tôi cũng tin chắc rằng sét hòn có thể quyết định kết cục cuộc chiến. Lúc ấy, tôi coi thái độ của Bộ Chỉ huy đối với vũ khí sét hòn là tư tưởng cứng nhắc. Tôi và hầu hết những người trong căn cứ đều cảm thấy phẫn nộ. Nhưng tình hình hiện tại đã chứng minh được sự ấu trĩ của chúng tôi.”)

Cục diện đã được xoay chuyển, căn cứ và đơn vị Thần Quang nhận được lệnh tấn công do thám vào hạm đội tàu sân bay đang tiến vào vùng biển.

Bộ Tư lệnh của hạm đội đã mở một cuộc họp tác chiến, những người tham gia có cấp bậc không cao, rõ ràng là cấp trên không quan tâm nhiều tới hoạt động tác chiến lần này. Chủ trì hội nghị là hai vị đại tá, một người là đội trưởng Đội tác chiến mẫu hạm, người kia ở bên lục quân, là Phó trưởng tham mưu Chiến khu phòng thủ phía Nam ven biển. Hơn hai mươi sĩ quan còn lại hầu như thuộc các lực lượng tàu ngầm và đội chiến hạm Biển Đông.

Đồng chí Phó trưởng tham mưu nói qua về tình hình chiến trường: “Vì nguyên nhân mà mọi người đều đã biết, ưu thế trên biển của chúng ta đã bị suy yếu nghiêm trọng, kẻ địch đang áp đảo. Hạm đội của địch đã nhiều lần tiến tới trong tầm bắn đạn đạo của chúng ta nhưng các đợt tấn công của phe ta đều thất bại. Hệ thống phòng thủ đạn đạo của kẻ địch đã thành công ngăn cản được phần lớn các tên lửa chống hạm. Nếu chúng ta có thể phá hủy tất cả hoặc một phần khả năng cảnh báo của hệ thống phòng thủ tên lửa của địch thì tên lửa trên bờ của chúng ta sẽ tấn công được kẻ địch. Đây là mục đích chính của lần tác chiến này: sử dụng Lá phong để phá hủy thiết bị điện tử phòng thủ đạn đạo của kẻ địch, làm cho nó bị tê liệt hoàn toàn hoặc tê liệt một phần và tạo cơ hội cho tên lửa chống hạm trên bờ của ta.

“Lá phong” là tên gọi của vũ khí sét hòn. Cái tên nghe nhẹ nhàng này đã phản ánh được phần nào ấn tượng của cấp trên đối với loại vũ khí này.

Đội trưởng tác chiến nói: “Sau đây là phương án tác chiến, mọi người sẽ cùng xác định một đại cương chung, sau đó quân chủng và binh chủng sẽ được phân chia theo nhóm.”

“Tôi có một câu hỏi,” một vị thượng tá lục quân đứng lên, ông ấy là chỉ huy của lực lượng đạn đạo trên bờ. “Tôi nghe nói Lá phong chỉ có thể tấn công trong tầm nhìn thôi đúng không?”

Đại tá Hứa Văn Thành gật đầu khẳng định.

“Vậy thì món đồ chơi của các anh có tác dụng gì? Yêu cầu cơ bản của vũ khí hiện đại là tiến hành tấn công ở siêu khoảng cách. Tôi thấy Lá phong chỉ có thể được coi là vũ khí thời cận đại thôi.”

“Thượng tá, tôi cho rằng tư duy của ngài mới là thứ thuộc về thời cận đại,” Lâm Vân tức giận nói, thu hút những ánh mắt bất mãn của những người tham dự cuộc họp.

“Được rồi, chúng ta để chỉ huy của Lá phong nói về ý tưởng của họ đối với phương án tác chiến lần này đi,” đội trưởng tác chiến nói.

“Kế hoạch của chúng tôi là sử dụng tàu ngầm làm bệ bắn cho Lá phong,” Đại tá Hứa nói.

“Lá phong có thể bắn được dưới nước không?” Một vị thượng tá lực lượng tàu ngầm hỏi.

“Không thể.”

“Đối với một cuộc tấn công trên biển trong tầm ngắm, ngay cả với điều kiện lý tưởng, chúng ta cũng phải tiếp cận được mục tiêu trong phạm vi từ tám đến mười nghìn mét, để tàu ngầm ở khoảng cách gần như vậy với lõi chống tàu ngầm của kẻ địch thì khác nào tự sát?” Viên chỉ huy tức giận nói.

“Sau khi Lá phong tấn công, trong một khoảng thời gian rất ngắn, hệ thống điện tử của hạm đội địch sẽ bị phá hủy, hệ thống chống tàu ngầm cũng hoàn toàn tê liệt theo. Chúng không còn là mối đe dọa với quân ta nữa,” Lâm Vân nói.

Chỉ huy lực lượng tàu ngầm khịt mũi khó coi, rõ ràng không thèm ngó ngàng tới vị nữ thiếu tá này, chỉ liếc đội trưởng tác chiến một cái, rõ là có ý rằng: Anh có thể tin vào lời của đứa trẻ này không?

Đội trưởng tác chiến kiên quyết lắc đầu: “Phủ quyết, ý kiến này không thể làm theo được.”

Sau một hồi im lặng, vị trung tá hải quân đề xuất một phương án khác: “Chúng ta dùng tàu phóng ngư lôi tàng hình để phục kích hạm đội quân địch ngoài tầm ngắm, sau khi mục tiêu xuất hiện thì tấn công dồn dập trong tầm ngắm.”

“Như vậy cũng không được,” một vị sĩ quan hải quân khác bác bỏ. “Tàu phóng ngư lôi ở ngoài tầm ngắm thì không thể tàng hình được. Anh đã quên mất việc trinh sát trên không của hạm đội địch rồi. Khi đến gần tàu tuần dương, hoạt động tuần tra trên không của kẻ địch rất dữ dội. Tàng hình thì cũng chỉ là đối phó với ra-đa mà thôi. Hành động lần này cần đồng thời tấn công cả hạm đội. Số lượng tàu phóng ngư lôi cần có cũng khá lớn. Đội hình lớn như vậy chắc chắc sẽ bị trinh sát trên không phát hiện, trừ phi đội tàu phóng ngư lôi phục kích bên ngoài vòng tuần tra trên không của kẻ địch tầm ba trăm cây số. Nhưng như thể thì sẽ không có ý nghĩa gì về mặt tác chiến cả.”

Một vị thượng tá lục quân nhìn quanh rồi hỏi: “Không có ai trong lực lượng không quân tới sao? Chúng ta không cần nhắc đến việc tấn công trên không sao?”

Đại tá Hứa đáp: “Lá phong chưa có mô hình bay trên không. Chưa kể, mức độ nguy hiểm của việc tấn công trong tầm ngắm trên không cũng rất lớn.”

Mọi người lại nhất loạt im lặng. Những người trong đơn vị sét hòn có thể cảm nhận được ẩn ý của những người tham dự khác: Thứ đồ chơi rách nát của mấy người khiến người khác đau đầu quá đấy.

Đội trưởng tác chiến nói: “Mọi người tập trung suy nghĩ vào vấn đề này: Thứ gì có thể đến gần được hạm đội địch trong tầm ngắm?”

Lâm Vân đáp: “Chỉ có một thứ thôi, tàu đánh cá.”

Hội trường nổ ra mấy tiếng cười.

“Dựa vào quan sát của chúng tôi, hạm đội địch thường bỏ qua tàu đánh cá ở gần tuyến hạm, đặc biệt là những tàu đánh cá trọng tải nhỏ. Cho nên, chúng ta có thể lợi dụng tàu đánh cá để làm bệ bắn cho Lá phong. Đây thậm chí là phương tiện có thể tiếp cận tới cự ly gần hơn cả cự ly giới hạn của tầm ngắm.”

Hội trường lại vang lên thêm nhiều tiếng cười, Phó trưởng tham mưu lắc đầu: “Thiếu tá đừng nóng giận. Mọi người ở đây đều đang tích cực nghĩ cách.”

Đại tá Hứa nói: “Không, đây thực sự là phương án chúng tôi chính thức xây dựng, hơn nữa, chúng tôi cho rằng đây là phương án khả thi nhất. Phương án này đã được ấp ủ rất lâu từ trước khi cấp trên ra lệnh tác chiến. Chúng tôi đã cử một nhóm nhỏ đặc nhiệm điều tra rất nhiều lần rồi.”

“Chỉ là…” Một viên sĩ quan hải quân nói được nửa chừng thì Đội trưởng tác chiến đã xua tay cắt ngang.

“Đừng nói nữa, xem ra đây thực sự là một giải pháp! Họ cũng đã vận dụng đầu óc.”

“Ha ha, đây mới là cách làm của thời cận đại,” vị Chỉ huy đạn đạo bị Lâm Vân công kích nói.

“Tôi nghĩ còn chưa tới được thời cận đại đâu,” Chỉ huy đội tàu ngầm hùa theo. “Các anh đã nghe qua trận Jütland* và trận hải chiến Tsushima* dùng tàu đánh cá để tấn công tàu chiến chưa?”

“Nếu thời điểm đó có Lá phong thì họ cũng sẽ làm vậy!” Lâm Vân đáp.

“Thế thì trận chiến này không phải hải chiến hiện đại mà giống hải tặc. Nếu tin tức truyền ra ngoài thì thành trò cười cho thiên hạ sao?” Một vị thượng tá hải quân nói.

“Thì sao? Nếu quả thực có thể tạo ra một cơ hội tấn công cho hỏa lực trên bờ thì đừng nói là hải tặc, chúng tôi có làm trộm cướp cũng được” một vị Phó trưởng tham mưu lục quân trong nhóm những người hoạch định phương án tác chiến nói.

Đội trưởng tác chiến mở lời: “Hai điểm thiếu sót của tàu đánh cá chính là không có vũ khí phòng thủ và tốc độ chậm. Nhưng với cự ly gần như vậy, nguy cơ đối mặt với sức mạnh tấn công của cả một hạm đội địch của tàu đánh cá và tàu phóng ngư lôi cũng không khác biệt gì nhiều.”

Không ai phát biểu thêm, những người tham dự đang nghiêm túc suy nghĩ về phương án này. Một vài sĩ quan hải quân vẫn thỉnh thoảng trao đổi ý kiến với nhau bằng giọng nói thì thầm.

“Hiện tại xem ra có thể làm được, về cơ bản. Nhưng…” Một vị sĩ quan hải quân do dự.

Hội trường lại im lặng. Mọi người im lặng vì từ “nhưng” đó. Ai nấy cũng hiểu hàm ý của nó là gì, nếu tấn công thất bại, hoặc tấn công thành công nhưng hỏa lực trên bờ chưa kịp tới, thì những con tàu đánh cá nhỏ không thể trốn thoát trước pháo hạm của một hạm đội mạnh mẽ như vậy.

Nhưng là quân nhân trong thời chiến, họ cũng biết rằng những gì diễn ra sau từ “nhưng” ấy không cần thảo luận tiếp.

“Được rồi, vậy theo cách này, mỗi nhóm sẽ được chia ra để lập phương án tác chiến cụ thể.” Sau khi trao đổi ý kiến với Phó trưởng tham mưu, Đội trưởng tác chiến lớn tiếng ra lệnh.

Ngày thứ hai, đơn vị Thần Quang ngồi trên ba chiếc máy bay vận tải quân sự, đem toàn bộ thiết bị hạ cánh xuống chiến khu ven biển. Đinh Nghi và Lâm Vân ra khỏi máy bay trước tiên, nhìn máy bay tiêm kích và máy bay ném bom lần lượt hạ cánh trên đường băng hai bên. Trên một đường băng xa hơn, một số lượng lớn các máy bay vận tải cũng đang hạ cánh. Từ phía sau máy bay vận tải, từng tốp binh lính mặc đồ rằn ri và xe tăng xuất hiện. Nhiều nhóm máy bay vẫn đang chờ được hạ cánh trên không, phát ra những tiếng gầm vang rất lớn. Trên con đường phía xa, đoàn xe quân sự bằng thép lao vun vút trong đám bụi mù mịt, không biết đâu là đầu đâu là cuối hàng.

“Việc triển khai hoạt động chống đổ bộ đã bắt đầu rồi,” Lâm Vân u ám nói.

“Sét hòn sẽ khiến việc đó trở nên không còn cần thiết nữa,” Đinh Nghi trấn an cô. Lúc này, anh ta vô cùng tự tin.

(Kể tới đây, Đinh Nghi nói: “Lúc ấy, khi tôi vừa nói câu đó xong, Lâm Vân nhìn tôi mấy giây, giống như đứa bé gái vừa tìm được người an ủi. Cảm xúc của tôi lúc đó không tệ. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy bản thân không chỉ là một nhà tư duy, mà còn là một người đàn ông mạnh mẽ.”

“Anh thực sự cho rằng tinh thần của mình mạnh mẽ hơn Lâm Vân sao?” Tôi tò mò hỏi.

“Cô ấy có những điểm yếu. Thậm chí có thể nói rằng, cô ấy rất yếu đuối. Kể từ khi Châu Phong bị đánh chìm, Giang Tinh Thần tử trận, sự yếu đuối của cô ấy ngày càng bộc lộ rõ hơn.”)

Lâm Vân ra hiệu cho Đinh Nghi nhìn về phía bãi cỏ không xa. Đó là khu an ninh được canh gác nghiêm ngặt, binh lính được vũ trang toàn diện đang bảo vệ một núi hàng hóa. Tất cả đều là các thùng kim loại màu xanh sậm. Mỗi thùng có kích thước bằng một nửa container tiêu chuẩn. Một số lượng lớn xe tải nặng quân sự đang không ngừng vận chuyển những thứ này.

“Đều là C803, có lẽ để dành cho trận chiến này,” Lâm Vân nói nhỏ. Đinh Nghi biết cô đang nói tới tên lửa chống hạm có tên gọi là “Cá bay của Trung Quốc”. Đó là vũ khí mạnh nhất trong hệ thống phòng thủ trên bờ của phe ta. Nhưng hiện tại, nó xuất hiệu nhiều tới mức khiến anh ta hoảng sợ.

Sau khi lô súng máy lôi cầu đầu tiên tới nơi, chúng lập tức được vận chuyển tới cảng. Tàu đánh cá được trưng dụng đã chờ sẵn ở đó. Những con tàu đánh cá này rất nhỏ, trọng tải tàu không quá một trăm tấn. Pin siêu dẫn của mỗi khẩu súng máy lôi cầu đều được đặt ở cabin. Bệ bắn rất dài nên chỉ có thể đặt trên boong tàu, dùng bạt hoặc lưới đánh cá phủ lên. Trên tất cả các con tàu đánh cá, ngư dân được thay bằng thuyền trưởng và các thủy thủ hải quân. Hơn một trăm người, lái năm mươi con tàu đánh cá.

Sau khi rời cảng, Lâm Vân và Đinh Nghi đi tới Trung tâm Chỉ huy Phòng thủ Ven bờ của chiến khu. Hứa Văn Thành và Khang Minh đã dẫn đơn vị Thần Quang tới đó tập kết. Trong phòng tác chiến, một vị đại tá hải quân đang khái quát tình hình của kẻ địch trên màn hình lớn với họ.

“… Trung tâm của hạm đội địch gồm ba hàng không mẫu hạm. Đó là mẫu hạm Carl Vinson, Stennis và Mỹ. Tất cả đều là mẫu hạm chạy bằng năng lượng hạt nhân mới nhất được hạ thủy sau những năm 80 của thế kỷ trước. Phần còn lại của nhóm chiến đấu bao gồm ba tàu tuần dương, mười bốn tàu khu trục, mười hai tàu hộ tống và ba tàu tiếp liệu. Tổng cộng là ba mươi lăm tàu nổi. Không rõ số lượng tàu ngầm. Ước tính khoảng mười tàu ngầm tấn công. Mọi người có thể nhìn thấy sơ đồ về đội hình hạm đội trên đây.”

Màn hình xuất hiện một sơ đồ, giống như một thế cờ phức tạp do nhiều quân cờ dài tạo thành.

“Đây là đội hình phục kích của quân ta.”

Trong sơ đồ, hai bên đội hình của hạm đội địch xuất hiện hai hàng chấm nhỏ. Mỗi hàng có hai mươi lăm dấu chấm.

“Dựa theo sơ đồ này, mọi người có thể dễ dàng xác định được mục tiêu do mình phụ trách. Tôi cần giải thích rằng: Sau khi hạm đội địch tiến vào vùng biển ngoài khơi thì đội hình có thể thay đổi. Đây là cách bố trí phòng thủ ngoài khơi điển hình. Tôi cho rằng đội hình của địch cũng sẽ không thay đổi quá lớn. Đến lúc đó, các điểm hỏa lực sẽ được điều chỉnh lại mục tiêu tùy theo tình hình thực tế.”

“Chúng ta cần nhấn mạnh về trọng tâm của cuộc tấn công: theo như tôi vừa tìm hiểu được, mọi người đã nhất trí cho rằng trọng tâm của cuộc tấn công là mẫu hạm. Bên lục quân nghĩ như vậy thì có thể vì tình mà tha thứ được nhưng các đồng chí hải quân mà cũng giữ ý nghĩ như vậy thì thật nực cười. Hãy nhớ lấy: Không cần quan tâm tới mẫu hạm, trọng điểm tấn công của chúng ta là tàu tuần dương! Những con tàu đó là trung tâm điều khiển và là lực lượng chính của bộ phận điện tử trong hệ thống chiến đấu Aegis*. Sau đó, mục tiêu tấn công tiếp theo của ta là tàu khu trục, chúng là bộ phận cấu thành nên hệ thống phòng thủ. Chỉ cần làm tê liệt những mục tiêu này thì cả hạm đội sẽ như cá nằm trên thớt. Đồng thời, từ vị trí cho thấy, những tàu này cũng gần các điểm hỏa lực nhất. Nếu như bỏ qua vùng ngoài mà đánh vào tàu lõi trước thì hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi. Tôi nhấn mạnh thêm lần nữa: Mẫu hạm là thịt, còn tàu tuần dương và tàu khu trục là xương sống của hạm đội! Đối với mỗi con tàu tuần dương, chúng ta cần ít nhất tám trăm phát bắn, mỗi tàu khu trục thì cần từ một trăm năm mươi đến hai trăm phát bắn.”

Trên màn hình lớn xuất hiện hình ảnh cắt dọc của một tàu chiến. Hình ảnh cho thấy cấu trúc bên trong của nó phức tạp đến chóng mặt. Sau đó, một đường màu xanh lá cây kéo dài từ đài chỉ huy, ngoằn ngoèo xuyên qua thân tàu, giống như con giun đũa đang ngọ nguậy.

“Đây là hình ảnh mặt cắt của tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường Ticonderoga*. Đường màu xanh này là đường bắn của súng máy lôi cầu.”

Trên đường màu xanh lá cây quanh co đó xuất hiện rất nhiều vòng trò nhỏ, bên cạnh mỗi vòng tròn là một con số.

“Những vòng tròn đánh dấu này chính là những vị trí tấn công quan trọng. Con số bên cạnh là số lượng lôi cầu được đề xuất bắn tới vị trí này. Tập bản đồ mà tôi vừa phát cho mọi người chính là hình ảnh mặt cắt và tuyến đường quét qua của tất cả các tàu của hạm đội địch. Thời gian có hạn nên mọi người không thể nhớ hết được, mỗi người chỉ cần ghi nhớ mục tiêu do mình phụ trách thôi. Đối với bên lục quân, các đồng chí sẽ gặp khó khăn để hiểu được nguyên lý của sơ đồ này nên chỉ còn cách học vẹt. Nhưng tôi có thể giải thích qua rằng: Đối với tàu tuần dương và tàu khu trục, mục tiêu tấn công là hệ thống máy tính Aegis. Tiếp theo, mời người phụ trách kỹ thuật hệ thống vũ khí bổ sung thêm.”

Lâm Vân bước lên phía trước và nói: “Những gì cần nói thì chúng tôi đều đã nói ở Trung tâm huấn luyện Bắc Kinh rồi. Tại đây, tôi chỉ muốn nhắc lại với mọi người: Theo tốc độ bắn thông thường của súng máy lôi cầu, mọi người cần tấn công mỗi mục tiêu trong vòng bốn mươi giây đến một phút. Đây là một khoảng thời gian khá dài cho nên mọi người không cần hoảng loạn. Đường đạn của lôi cầu rất rõ ràng, như mọi người dùng súng máy thông thường bắn pháo sáng thôi. Mọi người chỉ cần tạo đường đạn ổn định rồi di chuyển để bắn quét.”

“Đuôi sóng do hạm đội tạo ra là một vấn đề rất lớn. Tàu của chúng ta đều là tàu nhỏ, do đó sóng động chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới việc bắn. Khi hạm đội địch hoàn toàn tiến vào vùng biển mai phục, đuôi sóng ở nửa sau gần như đã bình lặng, cho nên lúc bắn sẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất từ giữa tuyến phục kích. Nhóm quen thuộc với tình hình này nhất được chúng ta sắp xếp chính là nhóm hỏa lực. Họ từng được huấn luyện trên biển, có kinh nghiệm bắn trong tình huống sóng biển dữ dội… Những thao tác này vốn cần được huấn luyện trong một thời gian dài nhưng giờ không kịp nữa rồi, chỉ đành dựa vào việc mọi người phát huy ra sao trên chiến trường thôi!”

“Thiếu tá đừng lo, xạ thủ có thể bắn mẫu hạm làm sao lại bắn không tốt được?” Một vị thiếu úy nói.

“Tôi xin nhắc lại lần nữa: một khi mẫu hạm chưa tiến vào phạm vi tấn công thì không được nghĩ tới nó! Ai lãng phí đạn dược bắn vào mẫu hạm thì phải chịu trách nhiệm!” Đại tá hải quân tức giận hét lên, gây ra một tràng cười.

Sau khi trời tối, đơn vị Thần Quang tới một trường bắn. Tại đây, họ nhìn thấy một hạm đội mô phỏng kỳ lạ. Đó là hình dạng mặt bên của những con tàu khác nhau được cắt ra từ hàng chục tấm bìa cứng. Phía dưới mỗi tấm bìa cứng đều có hai bánh xe nhỏ, một binh sĩ ở đằng sau đẩy tấm bìa lên phía trước. Những tấm bìa này đang xếp thành một đội hình hạm đội của kẻ địch, từ từ được di chuyển tới trường bắn. Mỗi một xạ thủ dùng súng máy hạng nhẹ để ngắm mục tiêu do mình phụ trách. Phía trước nòng súng của súng máy đều được buộc một thước trỏ laser. Các xạ thủ phải cố gắng sao cho đốm đỏ chạm tới tuyến bắn quét đang di chuyển trên bia theo dự định. Buổi luyện tập kéo dài tới tận khuya, cho tới khi mọi người đều thuộc lòng quá trình nhắm bắn mục tiêu do mình phụ trách. Hình ảnh các con tàu di chuyển từ từ trong đêm đen, cùng với những đốm đỏ đang di chuyển trên các con tàu ấy tạo nên một bức tranh trừu tượng và bí ẩn có tác dụng thôi miên, cuối cùng khiến mọi người đều cảm thấy buồn ngủ.

Đến giữa đêm, mọi người quay lại một tòa nhà lớn trong doanh trại hải quân để nghỉ ngơi. Người ta kể rằng, trước cuộc đổ bộ Normandie*, một nhà tâm lý học đã quan sát giấc ngủ của các binh sĩ. Ông vốn cho rằng trong đêm trước trận chiến đẫm máu, không ai có thể ngủ được, nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại, mọi người đều ngủ sâu hơn bình thường. Ông cho rằng đây là phản ứng bản năng của cơ thể đối với sự tiêu hao năng lượng quá mức sắp xảy ra. Phản ứng này chỉ biểu hiện đối với nhóm người. Lúc này, mọi người nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Một đêm không hề mộng mị.

Mới sáng sớm, đơn vị Thần Quang đã tập trung ở bến tàu để xuất phát. Mặt trời vẫn chưa nhô lên khỏi đường chân trời, năm mươi chiếc tàu đánh cá đang đậu ở cảng, dập dình theo sóng biển trong màn sương sớm.

Lâm Vân tới bến tàu trên một chiếc xe jeep, trên xe chất vài cái túi lớn màu rằn ri. Cô ấy mang mấy chiếc túi này xuống xe, đoạn mở túi ra, bên trong nhét đầy quân phục. Đơn vị Thần Quang thay sang bộ quần áo lao động của công ty đánh bắt hải sản còn vương đầy mùi tanh của biển. Những bộ quần áo này chính là đồ họ để lại.

“Lâm Vân, cô làm gì thế?” Trung tá Khang Minh hỏi.

“Anh hãy để các chiến sĩ mặc quân phục rồi khoác đồng phục lao động bên ngoài. Sau khi tác chiến hoàn thành, bọn họ cần lập tức cởi bỏ đồng phục lao động ra.

Khang Minh im lặng rất lâu, đoạn chậm rãi lắc đầu: “Cảm ơn ý tốt của cô nhưng đơn vị Thần Quang có nguyên tắc riêng. Chúng tôi không thể bị bắt làm tù binh. Cô cứ để những đồng chí hải quân trên thuyền mặc đi*.”

“Chưa cần bàn tính tới các sĩ quan trên cấp Trung úy, nhưng những chiến sĩ nhận nhiệm vụ lần này đều là các xạ thủ súng máy lôi cầu. Họ biết rất ít. Tôi đã xin ý kiến chỉ đạo về việc này. Cấp trên đã đồng ý. Hãy tin tôi!”

Những gì Lâm Vân nói là sự thực. Trong thời gian đầu huấn luyện đơn vị Thần Quang, ý kiến của Khang Minh là phải huấn luyện các хạ thủ đa chiều. Tức là họ vừa có thể sử dụng súng vừa bảo quản được súng máy lôi cầu. Nhưng Lâm Vân đã phản đối, cô ấy chủ trương cần nghiêm ngặt tách biệt giữa xạ thủ bắn súng và nhân viên kỹ thuật bảo trì. Sau này, mọi việc đều dựa theo ý kiến của cô ấy. Vậy nên, các xạ thủ súng máy lôi cầu đều không được phép tháo vũ khí ra, không có bất kỳ cơ hội nào để tiếp xúc được với nguyên lý và các thông tin kỹ thuật liên quan tới vũ khí, chỉ biết cách sử dụng. Thậm chí cho tới tận bây giờ, các xạ thủ vẫn không biết đạn họ bắn là sét hòn, họ chỉ cho rằng đây là một loại đạn bức xạ điện từ được các chỉ huy giới thiệu sơ. Hiện tại, xem ra cách làm của Lâm Vân không chỉ vì yêu cầu bảo mật mà còn thực sự suy nghĩ tới lợi ích của mọi người.

“Nhiệm vụ như này rất hiếm gặp trong chiến tranh hiện đại. Nếu tấn công thất bại, chỉ cần phá hủy kịp thời vũ khí thì chúng ta không cần yêu cầu gì nhiều hơn từ các binh sĩ,” Lâm Vân chân thành nói.

Trung tá Khang do dự vài giây, sau đó vẫy tay với nhóm lính: “Được rồi, mọi người mau mặc quân trang đi, mau lên!” Nói xong, anh ta quay sang Lâm Vân và đưa tay về phía cô. “Thiếu tá Lâm, cảm ơn cô.”

(“Từ câu chuyện này, anh cũng có thể nhìn ra được điểm yếu đuối của Lâm Vân,” Đinh Nghi nói.)

Sau mười phút, năm mươi chiếc tàu đánh cá lần lượt rời bến. Đây giống như một cảnh tượng đánh cá buổi sớm điển hình. Ai có thể ngờ được những chiếc tàu đánh cá nhỏ bé, thô lậu này đang phải ra khơi đi tấn công hạm đội mạnh nhất trên hành tinh này.

(Câu chuyện dưới đây đều là chuyện Đinh Nghi được nghe kể sau này.)

Sau khi tàu rời cảng, trên một con tàu đánh cá lớn hơn các con tàu khác được trưng dụng làm tàu chỉ huy, Khang Minh và các chỉ huy hải quân đã mở một cuộc họp. Chỉ huy của hơn một trăm thuyền trưởng và thủy thủ trên tàu đánh cá là một vị Thiếu tá hải quân, một vị Thượng úy và hai vị Trung úy.

Thiếu tá hải quân nói với Khang Minh: “Trung tá, tôi nghĩ người của anh nên trốn ở khoang dưới cùng. Nhìn các anh trông không giống đang đi đánh cá chút nào cả.”

“Chúng tôi không chịu nổi mùi cá tanh ở dưới đó,” Khang Minh cười gượng đáp lại.

Thượng úy nói: “Mệnh lệnh chỉ yêu cầu chúng tôi lái tàu đánh cá tới vùng biển được chỉ định. Khi hạm đội địch xuất hiện thì chúng tôi sẽ nhận lệnh chỉ huy từ anh. Cấp trên nói nhiệm vụ lần này cực kỳ nguy hiểm nên để cho chúng tôi tự nguyện tham gia. Chuyện này cũng hiếm gặp đấy.”

Một vị Trung úy lên tiếng: “Tôi là thuyền trưởng lữ đoàn, nếu bị đánh chìm trên con tàu đánh cá nhỏ như này thì cũng thê thảm quá.”

“Nếu con tàu nhỏ này tấn công nhóm chiến đấu của mẫu hạm thì sao?” Khang Minh hỏi.

Vị Trung úy gật đầu: “Như vậy thì oanh liệt hơn. Tấn công mẫu hạm đương nhiên là lý tưởng cao nhất của tôi, rồi sau đó mới tới việc được làm tàu trưởng, thứ đến là tìm được một cô gái tốt, chấp nhận việc chúng tôi ra khơi dài ngày.”

“Mục tiêu của chúng ta là tàu tuần dương. Nếu thành công, mẫu hạm của kẻ địch sẽ bị đánh chìm trong vài phút.”

Bốn vị sĩ quan hải quân sửng sốt: “Trung tá, không phải anh đang đùa chứ?”

“Có gì mà phải ngạc nhiên vậy?” Khang Minh hỏi vặc lại. “Tinh thần hăng hái của các bậc tiền bối đâu hết cả rồi. Thời những ngày đầu mới thành lập đất nước, hải quân cũng đã dùng một chiếc thuyền gỗ đánh chìm một tàu khu trục.”

“Đúng thế, nếu mọi thứ cứ tiếp diễn như này thì chúng ta có lẽ sẽ dùng cả ván lướt sóng để tấn công căn cứ chiến lược trên biển*,” vị Thiếu tá nói.

Một vị Trung úy thắc mắc: “Mặc dù vậy, chúng tôi cũng phải có vũ khí chứ? Vũ khí trên thuyền hiện chỉ là mấy khẩu súng lục mà chúng tôi có.”

“Các anh nghĩ thiết bị mà chúng tôi mang lên tàu là gì?” Khang Minh hỏi.

“Đó là vũ khí sao?” Thiếu tá đưa mắt nhìn ba đồng nghiệp của mình rồi hỏi.

“Nó giống như ra-đa. Thứ trên boong tàu không phải là ăng-ten sao?” Thượng uý nói.

“Tôi nói các anh nghe này, đó là thứ vũ khí mà chúng ta sẽ sử dụng để tấn công nhóm chiến đấu của mẫu hạm,” Khang Minh nói.

Thiếu tá bật cười: “Đồng chí Trung tá, anh cứ khiến chúng tôi không nghiêm túc nổi.”

Một vị Trung úy khác tự cao chỉ vào hai cục pin siêu dẫn, nói: “Tôi biết rồi, đây là bom chìm*, cái giá sắt phía trên là ray phóng đạn.

Khang Minh gật đầu: “Tôi không thể nói cho các anh biết tên thật của thứ vũ khí này, gọi nó là bom chìm cũng được.” Nói đoạn, anh ta chỉ cho các vị sĩ quan hải quân một nút màu đỏ trên pin siêu dẫn. “Đây là nút tự hủy, trong trường hợp khẩn cấp, điều đầu tiên mà chúng ta cần làm đó là nhấn nút này và ném thứ vũ khí này xuống biển. Bất luận thế nào cũng không được để kẻ địch nhìn thấy nó.”

“Chuyện này đã được cấp trên nhấn mạnh nhiều lần. Anh cứ yên tâm… Nếu không còn việc gì khác, chúng tôi xin phép tiếp tục làm việc. Cái tua-bin rách nát này rỉ dầu ra khắp nơi rồi.”

Tới trưa, những con tàu đánh cá đã tới vị trí phục kích, bắt đầu thời gian chờ đợi đằng đẵng. Trong khoảng thời gian này, Khang Minh không còn việc gì ngoài tuần tra một vòng tuyến phục kích và kiểm tra trạng thái súng máy trên các tàu.

Trên con tàu của Khang Minh có một bộ điện đài, mới liên lạc với Tổng bộ hai lần. Một lần là để báo cáo tàu đã tới vị trí chỉ định, lần thứ hai là để giải quyết một vấn đề phụ: Khang Minh đặt câu hỏi về việc tắt đèn trên tàu khi trời tối, hành động này chắc chắn sẽ làm kẻ địch nghi ngờ. Tổng bộ đồng ý, ra chỉ thị sau khi trời tối thì các thuyền vẫn bật đèn như bình thường. Đối với hành tung của hạm đội địch, Tổng bộ không đưa ra bất cứ tin tức mới nào.

Sự căng thẳng và hưng phấn của họ nhanh chóng bị mặt trời nóng bỏng cuốn trôi, họ không đưa ống nhòm để nhìn về phía chân trời ở hướng Bắc nữa. Để không thu hút sự chú ý, con tàu thỉnh thoảng đi lại trong một phạm vi nhỏ, còn thả lưới xuống rồi kéo lên vô ích. Vị Thượng úy hải quân kia rất giỏi đánh bắt. Anh ta thậm chí còn đánh được mấy con cá. Trong lúc nói chuyện, Khang Minh biết được anh ta tới từ một làng chài ở Sơn Đông.

Họ dành phần nhiều thời gian để chơi bài poker và tán gẫu trong bóng râm trên boong tàu, bàn về tràng giang đại hải nhưng tuyệt đối không đề cập tới nhiệm vụ trước mắt và số mệnh của hạm đội phục kích nhỏ nhoi này.

Khi trời dần về khuya, sau một thời gian dài chờ đợi, đội ngũ đã bắt đầu thả lỏng. Kể từ lần cuối cùng liên lạc với Tổng bộ, hơn tám tiếng đã trôi qua. Trong thời gian này, điện đài vẫn im ắng. Tiết tấu đơn điệu của những con sóng đập vào mạn thuyền, Khang Minh đã mấy đêm không yên giấc bắt đầu buồn ngủ, nhưng anh vẫn cố gắng duy trì trạng thái tỉnh táo.

Có người khẽ huých anh, là vị Thiếu tá hải quân. “Nhìn về bên trái phía trước, nhưng đừng lộ liễu quá,” anh ta nói nhỏ. Lúc này, ánh trăng màu đỏ sẫm nhô lên từ đường chân trời, mặt biển trở nên sáng rõ. Khang Minh nhìn theo, đầu tiên, anh thấy một đuôi sóng hình chữ V trên mặt biển, đoạn nhìn tới phần đầu của đuôi sóng, đó là một cái que mảnh mai màu đen dựng đứng. Phần đầu của cái que có một quả bóng.

Cảnh tượng đó làm anh ta nhớ đến bức ảnh con quái vật hồ Loch Ness. Con quái vật trong bức ảnh có cái cổ dài ngoằng vươn lên từ mặt hồ đen ngòm.

“Kính tiềm vọng*,” Thiếu tá thì thầm.

Cái que dài di chuyển với tốc độ rất nhanh, vạch ra một đường vòng cung khi thân của nó trượt trong nước. Người trên tàu có thể nghe thấy tiếng nước róc rách. Nhưng tốc độ di chuyển của cái que chậm dần, sóng nước tạo ra cũng nhỏ lại rồi biến mất. Kính tiềm vọng di chuyển tới ngay trước mũi tàu, cách khoảng hai mươi mét rồi dừng lại.

“Đừng nhìn vào nó,” Thiếu tá nói với một nụ cười mỉm, giống như đang chuyện trò say sưa với Khang Minh.

Trong khoảnh khắc rời ánh mắt đi, Khang Minh nhìn thấy rõ ánh phản quang của thủy tinh trên quả bóng ở đầu cái que. Lúc này, Thượng úy và hai vị Trung úy bước ra khỏi buồng lái, cầm con thoi trong tay, ngồi xuống tấm bạt đang phủ lấy bệ bắn để vá lưới trong ánh trăng. Khang Minh nhìn chằm chằm vào đôi tay điêu luyện của viên Thượng úy, sau đó cũng ngồi vá cùng họ. Đầu óc của anh ta lại tập trung vào cái mắt quái dị đang nhìn chằm chằm sau lưng, cảm thấy như có gai chọc vào lưng mình.

“Tôi sẽ ném cái lưới này xuống, nhắm vào chân vịt của thứ đen đủi đó,” viên Thượng uý nói với vẻ mệt mỏi, như thể đang càu nhàu vì phải làm việc lúc đêm hôm khuya khoắt như thế này.

“Sau đó ném hai quả bom chìm xuống,” vị Thiếu uý cười toe toét, sau đó nói với Khang Minh: “Nói gì đó đi.”

Nhưng Khang Minh không thốt lên được lời nào. Thượng úy chỉ vào lưới đánh cá rồi hỏi anh ta: “Nhìn xem tôi vá đẹp không này?”

Khang Minh giơ tấm lưới mới được vá lên trong luồng ánh sáng chiếu ra từ buồng lái, nói với Thượng úy: “Hãy để chúng nhìn thấy tài nghệ của anh.”

Thiếu tá thì thầm: “Nó quay lại rồi.”

Thượng tá cảnh cáo Khang Minh: “Đừng quay đầu lại.”

Sau một lúc, bọn họ lại nghe thấy âm thanh lạch cạch, quay đầu nhìn thì thấy cái que đã di chuyển về xa với tốc độ rất nhanh, sau đó hạ thấp dần rồi chìm vào trong nước.

Thượng úy ném con thoi xuống, đứng lên nói với Khang Minh: “Trung tá, nếu tôi là người thuyền trưởng kia thì đã sớm nhận ra kẽ hở rồi. Cách anh cầm thoi không đúng!”

Lúc này, điện đài nhận được đoạn tin ngắn từ Tổng bộ, nói rằng hạm đội địch đã tiến tới vùng biển phục kích, chuẩn bị tấn công.

Một lúc sau, họ nghe thấy tiếng gầm nhẹ, âm thanh này càng ngày càng to. Họ nhìn về phía Bắc, thấy một hàng chấm đen xuất hiện trong bầu trời đêm, đếm được có năm chấm, một chấm tình cờ nằm trong ánh sáng của mặt trăng nên họ có thể thấy rõ cánh quạt đang quay.

Năm chiếc trực thăng nhanh chóng áp sát, ầm ầm lao qua bọn họ, đèn ở bụng máy bay đang nhấp nháy tín hiệu đỏ. Một chiếc trực thăng ném xuống một cái gậy, thứ này tạo ra một đám bột trắng xung quanh vùng biển cách họ không xa. Sau khi bay qua một đoạn nữa, một chiếc trực thăng lại ném cái thứ đó xuống. Khang Minh hỏi đó là gì, vị Thiếu tá vừa bước ra từ boong tàu đáp:

“Phao âm*, dùng để do thám tàu ngầm. Kẻ địch rất chú ý tới việc chống tàu ngầm.”

Đám trực thăng nhanh chóng biến mất về phía Nam, bốn bề lại yên tĩnh trở lại. Lúc này, tai nghe siêu nhỏ trong tai của Khang Minh vang lên tiếng từ Tổng bộ. Chiếc tai nghe này được kết nối với điện đài trong cabin.

“Mục tiêu đã đến gần. Các thuyền vào trạng thái bắn. Hết.”

Lúc này, mặt trăng bị mây mù che khuất, mặt biển tối đen, nhưng bầu trời phía Bắc lại xuất hiện một vầng sáng lớn. Lúc còn ở căn cứ, mỗi tối, Khang Minh đều nhìn thấy thứ ánh sáng này trên bầu trời phía xa thành phố. Anh ta giơ ống nhòm lên, có lúc còn tưởng mình đang nhìn thấy bờ biển đèn đóm sáng rực.

“Vị trí của chúng ta gần phía trước quá rồi!” Thiếu tá đặt ống nhòm xuống hét lên, sau đó nhảy vào buồng lái, động cơ của tàu đánh cá gầm lên, quay đầu ngược lại.

Vùng trời phương Bắc ngày càng sáng, khi những con tàu đánh cá quay đầu lần nữa thì đã có thể nhìn thấy đèn sáng ở “bờ biển” ngay đường chân trời mà không cần dùng tới ống nhòm. Dùng ống nhòm nhìn thêm lần nữa, họ phân biệt được rõ từng thân tàu. Lúc này, âm thanh trong tai nghe của Khang Minh vang lên:

“Các tàu chú ý, đội hình của mục tiêu không có gì thay đổi, tất cả hành động theo phương án ban đầu. Hết.”

Khang Minh biết quyền chỉ huy trên chiến trường bây giờ đã hoàn toàn chuyển giao cho con tàu này của bọn họ rồi. Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch thì họ chỉ cần đợi tàu tuần dương đi đầu hạm đội địch tới trước con tàu đánh cá nhỏ này là có thể ra lệnh khai hỏa. Bởi vì đội hình hạm đội địch đã được biết trước, khi chúng đi vào vòng phục kích. Hiện tại, việc cuối cùng họ cần làm trước khi khai hỏa chính là mặc áo phao vào.

Hạm đội nhanh chóng tiếp cận, dùng mắt thường cũng có thể phân biệt được mỗi con tàu trong ánh sáng của đèn biển. Khang Minh bắt đầu nhận biết từng mục tiêu, nghe thấy giọng của viên Thượng úy hải quân hét lên: “Nhìn kìa, USS Stennis*” Có lẽ trong Học viện Hải quân, hình dáng của mẫu hạm này đã in sâu vào tâm trí anh ta. Anh ta vừa hét vừa nhìn Khang Minh như thể muốn nói: Để tôi xem bây giờ mấy anh định làm cái gì. Khang Minh đứng lên mũi thuyền, bình tĩnh nhìn hạm đội đang tiến sát tới.

Lúc này, mặt biển trước mắt họ đang phản chiếu rất nhiều đốm sáng hình bầu dục do đèn pha của đội tàu rung lắc dữ dội rọi tới. Tàu đánh cá bị các đốm sáng này vây quanh, mặt biển kéo theo những chiếc bóng dài, nhưng chùm ánh sáng của đèn pha nhanh chóng rọi sang phía khác. Con tàu đánh cá nhỏ này rõ ràng không đáng để lưu tâm. Lúc này, trên mặt biển, hạm đội khổng lồ đã được thu vào tầm mắt. Từng chi tiết của hai con tàu tuần dương phía trước trong ánh trăng và ánh đèn trên tàu đều được nhìn rõ. Sáu con tàu khu trục ở hai bên vẫn chỉ là những bóng đen. Chính giữa hạm đội là ba con tàu hàng không mẫu hạm. Thân hình khổng lồ của chúng tạo thành ba cái bóng khổng lồ trên biển. Lúc này, người trên tàu đánh cá nghe thấy tiếng rít sắc nhọn ngày càng lớn ở trên đầu mình, giống như bầu trời đang bị cắt làm mấy phần, khiến da đầu tê dại. Họ bất ngờ ngẩng lên thì thấy bốn chiếc máy bay tiêm kích đang chao liệng trên không trung. Những con sóng bắt đầu đánh ầm ầm vào mạn thuyền. Đây là âm thanh do sức mạnh của những con tàu thép khổng lồ va vào sóng biển. Thân trắng mảnh mai của tàu tuần dương di chuyển trước mắt họ. Theo sau là một vài tàu khu trục màu xám. Mặc dù nhỏ hơn tàu tuần dương nhưng vì chúng ở phía bên này của hạm đội, gần với họ nhất nên nhìn có vẻ vẫn lớn hơn rất nhiều so với mấy con tàu phía sau. Kết cấu phức tạp trên thân tàu và các loại sợi ăng-ten xếp ngang dọc khiến người nhìn vào hoa mắt chóng mặt. Họ có thể nhìn thấy rõ các thủy thủ đang đi lại trên tàu. Không bao lâu sau, ba chiếc tàu mẫu hạm bị tàu khu trục chắn mất dần xuất hiện trên mặt biển. Đây là ba thành phố trên biển chạy bằng năng lượng hạt nhân. Ba ngọn núi thép mang theo hơi thở chết chóc, hình dáng khổng lồ thoạt nhìn không hề giống một thứ do con người tạo ra. Trước hạm đội đồ sộ này, những người trên các con tàu đánh cá có một cảm giác siêu thực, giống như họ vừa đáp xuống một hành tinh xa lạ có những lâu đài thép khổng lồ.

Khang Minh kéo ra chiếc micro không dây nhỏ từ cổ áo. Hai xạ thủ của đơn vị Thần Quang đang đợi trong khoang tàu kéo tấm bạt che súng máy lôi cầu ra, nằm phục xuống phía sau súng máy, ngắm bắn con tàu tuần dương đi qua, bệ bắn di chuyển từ từ theo con tàu ấy. Khang Minh trầm giọng ra lệnh: “Các điểm hỏa lực! Bắn.”

Tia sét xuất hiện trước bệ bắn, một chuỗi tiếng nổ chấn rung màng nhĩ vang lên, ánh sáng điện màu xanh chớp mạnh chiếu sáng cả vùng biển xung quanh. Một chuỗi lôi cầu màu đỏ bay sát mặt biển, kéo theo một cái đuôi rất dài, phát ra những tiếng rít sắc nhọn. Chuỗi sét hòn nhẹ nhàng bay qua phần đuôi của con tàu khu trục thứ nhất, rồi bay tiếp qua phần đầu của con tàu khu trục thứ hai, hướng thẳng về phía tàu tuần dương. Cùng lúc đó, điểm hỏa lực của những con tàu đánh cá khác cũng đang bắn những chuỗi sét hòn về phía hạm đội, nhìn từ xa trông giống những con đường ánh sáng. Khi dừng lại ở một vị trí đủ lâu, chuỗi sét hòn sẽ để lại dấu tích huỳnh quang ở chính vị trí đó trên đường đạn ấy. Dấu tích này do ion hóa không khí tạo thành. Sau khi chuỗi sét hòn rời đi, dấu tích ấy sẽ phát ra huỳnh quang trong một thời gian dài. Dấu vết huỳnh quang kéo dài sẽ tạo thành hình quạt có trung tâm là các tàu đánh cá. Cái quạt này mở rộng theo sự di chuyển của các chuỗi sét hòn. Bao quát cả chiến trường, các chuỗi sét hòn này và số lượng các đường huỳnh quang sẽ tạo thành một tấm lưới khổng lồ bao vây lấy hạm đội.

Thời khắc huy hoàng trong lịch sử chiến tranh dường như đã tới.

Nhưng ngay khi đợt sét hòn đầu tiên sắp chạm tới mục tiêu, quỹ đạo của chúng đột nhiên bị bẻ cong bởi một bàn tay vô hình. Những quả sét hòn bị phóng lên không trung hoặc rơi xuống biển, hoặc bay về cả hai phía, ra xa khỏi con tàu dẫn đường mục tiêu hoặc đuôi tàu. Khi các quả sét hòn này chệch hướng bay về phía các tàu chiến lân cận, chúng ngay lập tức bị thay đổi phương hướng. Mỗi con tàu chiến trong hạm đội dường như đều được bọc trong một lớp vỏ thủy tinh khổng lồ mà sét hòn không thể xuyên qua nổi.

“Từ trường che chắn!”

Đây là phản ứng đầu tiên xuất hiện trong đầu của Khang Minh. Đó là thứ xuất hiện vô số lần trong ác mộng của những nhà nghiên cứu vũ khí sét hòn. Bây giờ, cơn ác mộng ấy đã trở thành hiện thực.

“Tất cả các đội tấn công ngừng bắn! Phá hủy vũ khí!” Khang Minh lớn tiếng ra lệnh.

Một trong hai хạ thủ trên thuyền là Thượng sĩ thuộc đơn vị Thần Quang nhấn nút đỏ tự hủy trên súng máy sét hòn, sau đó cùng với những người khác đẩy nó xuống biển. Không lâu sau, họ nghe thấy tiếng nổ trầm đục vang lên từ dưới nước. Sóng trên mặt biển cuộn lên khiến con tàu rung lắc. Đây là vụ nổ xảy ra sau khi viên pin siêu dẫn được sử dụng làm nguồn năng lượng cho súng máy bị đoản mạch. Sức mạnh của nó ngang với một quả bom chìm. Giờ đây, súng máy lôi cầu nổ thành từng mảnh nhỏ ở dưới nước.

Chuỗi sét hòn được bắn ra từ các tàu đánh cá khác cũng bị rối loạn. Các quả sét hòn mất đi mục tiêu trôi lơ lửng trên hạm đội, kéo theo những cái đuôi dệt thành một cái thảm phát sáng trong không trung. Những quả sét hòn cùng nhau rít lên tạo thành tiếng còi báo hiệu hỗn loạn, giống như một trận tru tréo thảm thiết.

Khang Minh nhìn thấy ánh sáng lóe lên từ pháo hạm của tàu khu trục, nhưng quả đạn ấy chỉ bay qua khóe mắt, vì khi đạn pháo tấn công tàu chỉ huy, anh ta đang nhìn mặt biển phía xa, những quả sét hòn rơi xuống biển vẫn phát ra thứ ánh sáng mờ ảo, giống như đám cá phát sáng.

Tiếng pháo hạm vang lên dày đặc, trên mặt biển của hai bên hạm đội, cột nước cao mang theo những mảnh vỡ của tàu đánh cá nổi lên rồi lại rơi xuống. Sau ba phút, tiếng súng dừng lại, bốn mươi hai trong số năm mươi con tàu đánh cá đã bị đánh chìm. Những con tàu ấy quá nhỏ, phần lớn không chìm hẳn mà bị đạn pháo cỡ lớn trực tiếp thổi bay thành từng mảnh vụn. Cuối cùng chỉ còn lại một vài con tàu đánh cá rải rác bị nhốt trong ánh sáng của đèn pha, giống như những người kết màn cô độc từ một vở bi kịch trên sân khấu biển cả.

Sét hòn tự phát tán năng lượng của mình dưới hình thức bức xạ điện từ nên rất nhanh đã lần lượt bị dập tắt. Không khí bị ion hóa trở thành một cái chụp huỳnh quang phía trên hạm đội. Mặt biển được bao phủ một lớp hơi nước màu trắng do bức xạ điện từ của sét hòn. Vài quả sét hòn thọ mệnh dài hơn đang trôi đi trong không trung. Âm thanh của chúng mơ hồ và bay bổng, như những bóng ma ảm đạm nương theo làn gió.

Tại sao kẻ địch biết được sự tồn tại của sét hòn để xây dựng sẵn hệ thống phòng thủ đến giờ vẫn chưa ai biết rõ. Nhưng có một vài manh mối lẻ tẻ: Một năm trước, trong trường bắn thí nghiệm ở phía Nam, sét hòn bắn ra từ súng máy lôi cầu sau khi không có người quan sát là chúng tôi thì vẫn không đi vào trạng thái lượng tử, cho thấy rằng đã có người quan sát khác. Thứ hai là hành động ở nhà máy hạt nhân gần như khẳng định được rằng đó là một lần rò rỉ bí mật về vũ khí sét hòn (Đương nhiên cũng không thể vì vậy mà cho rằng hành động lần đó là hoàn toàn sai trái.) Kẻ địch khó mà biết được nguyên lý cơ bản của sét hòn và chi tiết kỹ thuật về vũ khí, nhưng họ cũng đã nghiên cứu nhiều năm về loại hiện tượng tự nhiên này, thậm chí có thể từng xây dựng những căn cứ quy mô lớn như dự án 3141 ở Siberia. Vì vậy, không khó để bọn họ có thể suy ra được từ những thông tin tình báo rời rạc ấy. Hơn nữa, việc từ trường có tác dụng gì với sét hòn cũng là việc cả giới học thuật đã sớm biết và không liên quan gì tới bản chất của sét hòn cả.

Trên máy bay vận tải trở về căn cứ, Lâm Vân ngồi xổm trong góc tối của cabin, tay ôm mũ sắt, thân hình mảnh mai cuộn tròn lại như quả bóng, giống như một cô gái nhỏ lạc vào vùng hoang dã lạnh lẽo, trông thật cô đơn và bất lực. Đinh Nghi tìm thấy cô ấy, cảm thấy thương xót, đi tới và ngồi xuống bên cạnh an ủi: “Thực ra thành quả của chúng ta vẫn rất vĩ đại. Thông qua electron vĩ mô, chúng ta có thể nhìn thấy những bí mật sâu xa nhất của vật chất ở góc độ vĩ mô. Đây vốn là điều chỉ có thể nhìn thấy khi đi vào thế giới vi mô. So với thành quả này, việc sử dụng sét hòn trong quân sự còn chưa đáng kể…

“Giáo sư Đinh, người bị sét hòn giết chết sẽ ở trạng thái lượng tử đúng không?” Lâm Vân ngắt lời Đinh Nghi rồi đặt câu hỏi chẳng rõ ngọn ngành.

“Đúng thế, sao vậy?”

“Anh từng nói là cô giáo đó sẽ tới tìm để tập kích tôi?”

“Đó là lời tôi nói nhảm thôi. Với cả cô cũng đâu có tin, đúng không?”

Lâm Vân chống cằm lên chiếc mũ sắt đang đặt trên đầu gối, nhìn thẳng về phía trước: “Không, sau khi anh nhắc tới chuyện đó, ngày nào tôi cũng ngủ với một khẩu súng đã tháo chốt an toàn ở trên đầu. Tôi thực sự rất sợ hãi nhưng sợ người khác biết được.”

“Xin lỗi vì đã dọa cô.”

“Những điều anh nói có khả năng xảy ra đúng không?”

“Về mặt lý thuyết thì… có thể có, nhưng xác suất xảy ra trong thực tế quá nhỏ nên không thể xảy ra trong hiện thực được.”

“Vậy là có thể rồi,” Lâm Vân lẩm bẩm.

“Cô giáo có thể tới tấn công tôi, tôi cũng có thể tấn công mẫu hạm của địch.”

“Gì cơ?”

“Giáo sư Đinh, tôi có thể ngồi trên một con tàu đánh cá để tiếp cận hạm đội của kẻ địch.”

“… Để làm gì?”

“Ở đó, tôi sẽ dùng sét hòn để tự thiêu hủy bản thân, như vậy là tôi đã biến thành một chiến binh lượng tử rồi đúng không?”

“Cô đang nói linh tinh gì vậy?”

“Anh nghĩ xem, nếu ở trạng thái lượng tử thì tôi có thể lẻn vào mẫu hạm, kẻ địch không thể phát hiện ra tôi. Bởi vì khi họ thấy tôi, giống như anh nói, trạng thái lượng tử của tôi sẽ sụp đổ ngay tức khắc. Mẫu hạm có kho đạn dược lớn, còn có kho chứa mấy nghìn tấn nhiên liệu, chỉ cần tới được đó, tôi có thể dễ dàng phá hủy mẫu hạm…”

“Lâm Vân, tôi thấy trận thua này đã biến cô trở thành một đứa trẻ rồi.”

“Tôi vốn chưa từng lớn.”

“Cô nên nghỉ ngơi đi, còn hai tiếng nữa là tới căn cứ, chợp mắt một lát đi.”

“Những gì tôi nói là không thể sao?” Lâm Vân ngẩng đầu lên khỏi chiếc mũ sắt, nhìn Đinh Nghi. Ánh mắt như đang khẩn cầu gì đó.

“Được rồi, vậy tôi sẽ nói cho cô biết trạng thái lượng tử thực ra là gì: Sau khi được lượng tử hóa thì cô sẽ chỉ còn là một đám mây xác suất. Trong đám mây ấy, tất cả mọi thứ của cô không xác định được. Cô không thể quyết định tự do ý chí rằng mình sẽ xuất hiện ở đâu, xuất hiện ở vị trí nào trong đám mây xác suất, thậm chí lúc xuất hiện ở trạng thái sống hay chết cũng là không xác định. Tất cả đều do Thượng để ném một con xúc xắc để quyết định. Nếu cô bị thiêu hủy trên tàu đánh cá thì đám mây xác suất của cô sau khi lượng tử hóa sẽ có tâm là tàu đánh cá. Trong không gian xung quanh, kho đạn dược và kho nhiên liệu trên hàng không mẫu hạm chỉ chiếm xác suất rất nhỏ. Khả năng cao nhất là cô sẽ xuất hiện ở dưới biển. Nếu như lúc ấy, cô ở trạng thái sống thì cô sẽ bị chết đuối, còn nếu cô ở trong trạng thái lượng tử thì sẽ không bao gồm xác suất còn sống nữa. Tất cả những khả năng cô có đều là chết. Ngay cả khi cô có được xác suất trúng giải độc đắc triệu đô và xuất hiện ở vị trí chí mạng trong mẫu hạm của kẻ địch thì lúc đó cô có ở trạng thái sống không? Cô có thể duy trì được bao lâu? Một tiếng hay không chấm một giây? Đồng thời, chỉ cần một kẻ địch hoặc một máy quay của địch nhìn thấy, cô sẽ lập tức sụp đổ về vị trí tro tàn ở tâm của đám mây xác suất, và sẽ phải đợi cơ hội trúng xổ số độc đắc tiếp theo. Mà thậm chí khi một cơ hội khác tới, mẫu hạm có khi đã đi được hơn một vạn tám nghìn dặm rồi, trên thế giới có lẽ không còn chiến tranh nữa… Lâm Vân, giờ cô chẳng khác nào cô bé bán diêm, nhìn thấy đủ loại ảo ảnh. Cô cần được nghỉ ngơi.”

Lâm Vân đột ngột ném mũ sắt đi, gục trên vai Đinh Nghi khóc to. Cô ấy khóc rất đau lòng, cơ thể mảnh mai run rẩy trong vòng tay của Đinh Nghi, như thể muốn trút hết nỗi đau thương của cuộc đời…

(“Anh có thể tưởng tượng được cảm giác của tôi lúc đó,” kể tới đây, Đinh Nghi nói. “Tôi vốn cho rằng mình là người có thể tiến lùi trong những cảm xúc khác ngoài tư duy lý tính. Một vài kinh nghiệm trước đây đã chứng minh được điều này. Nhưng lúc ấy tôi đã biết rằng, ngoại trừ lý trí thì còn có một thứ khác có thể chiếm lấy toàn bộ tâm trí và thân thể của một con người… Tôi nhận ra Lâm Vân lúc ấy nhỏ bé hơn rất nhiều. Vị Thiếu tá luôn tàn nhẫn hướng tới mục tiêu trước đây, lúc đó lại trở thành một cô gái nhỏ bé mong manh. Ai mới thực sự là cô ấy đây?”

“Có lẽ là sự kết hợp của cả hai. Tôi cũng không hiểu về phụ nữ hơn anh,” tôi nói.

“Sau khi Giang Tinh Thần chết, tâm trạng của cô ấy rất suy sụp. Sự thất bại đó đã phá vỡ giới hạn chịu đựng tinh thần của cô ấy.”

“Cô ấy ở trong trạng thái này thật không ổn. Anh nên liên hệ với bố của cô ấy xem sao. ”

“Anh nói xem, làm sao tôi có thể liên lạc được với một người cấp cao như vậy?”

“Tôi có số điện thoại của Đại tướng Lâm. Là ông ấy đưa cho tôi, nhờ tôi chăm sóc Lâm Vân,” tôi nhận ra Đinh Nghi im lặng nhìn mình.

“Vô dụng rồi.”

Lời nói của Đinh Nghi khiến tôi sợ hãi, cho tới khi tôi nhận ra một điều: Những lời kể của Đinh Nghi đều bao trùm một nỗi buồn.

Đinh Nghi đứng lên, đi tới cửa sổ, trầm ngâm nhìn mưa gió thể lượng bên ngoài, rất lâu sau mới quay trở lại, chỉ vào chai rượu đã cạn trên bàn: “Còn không?”

Tôi lấy ra một chai khác, bật nắp rồi rót cho anh ta nửa cốc. Anh ta ngồi xuống, nhìn thẳng vào chiếc cốc rồi nói:

“Sau đó vẫn còn một chuyện nữa. Một chuyện mà anh không thể tưởng tượng nổi đâu.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3