Siêu Lý Tình Yêu - Chương 05

BÀI THỨ NĂM

I

Cảm giác trực tiếp và vô thức khai mở cho ta ý nghĩa của tình yêu như là một biểu hiện cao nhất của sự sống cá thể đã tìm thấy trong thể kết liên với một sinh linh khác cái bản chất vô tận vô biên của chính mình. Một khải huyền trong chốc lát như thế đã chẳng là đủ? Lẽ nào là ít dù chỉ một lần trong đời thực sự cảm thấy ý nghĩa tuyệt đối của mình?

Và thỉnh thoảng ngước mắt nhìn trời sao, anh biết.

Anh với em đã từng thưởng lãm chúng như những thần linh.

Một cái đó chưa chắc đã là đủ cho cảm quan thơ ca, còn ý thức về chân lý và ý chí sinh tồn thì quyết không thể dàn hoàn với nó. Sự vô tận chỉ trong chốc lát là mâu thuẫn không chịu đựng được đối với trí tuệ, hạnh phúc chỉ trong quá khứ là nỗi khổ cho ý chí. Có những ánh lóe của một ánh sáng khác mà sau chúng:

Bóng tối đời thường càng đen tối hơn,

Như sau chớp nguồn rực rỡ đêm thu.

Nếu chúng chỉ đánh lừa, thì trong ký ức chúng chỉ có thể để lại hổ thẹn và thất vọng cay đắng; còn nếu chúng không lừa dối, nếu chúng vén mở cho ta một hiện thực nào đó, mà sau đấy đã đóng lại và đã biến mất đối với chúng ta, thì vì sao ta lại cam chịu sự biến mất ấy? Nếu cái đã mất là chân chính thì nhiệm vụ của ý thức và ý chí không phải là thừa nhận sự mất đi ấy là vĩnh viễn, mà là hiểu cho được và xoá bỏ đi những nguyên nhân của nó.

Nguyên nhân gần nhất (như một phần đã nói trong bài trước) là sự đọa lạc của bản thân quan hệ yêu đương. Cái này bắt đầu rất sớm: cảm hứng ban đầu của tình yêu vừa mới kịp cho ta thấy một bến bờ của hiện thực khác, tốt đẹp hơn - với nguyên tắc và quy luật sống khác, thì ta đã lập tức cố gắng lợi dụng sự sung túc sức lực do cái khải huyền ấy đem lại không phải để đi tiếp đến nơi nó mời gọi ta, mà chỉ để bắt rễ bền chặt hơn và thu xếp cho mình vững chắc hơn trong cái thực tại cũ, tồi tệ mà tình yêu vừa mới nâng chúng ta lên bên trên nó; tin lành từ thiên đường đã mất - tin về khả năng lấy lại nó - chúng ta lại lĩnh hội như là lời mời nhập quốc tịch mãi mãi ở đất lưu đầy, tiếp quản thật nhanh và cai quản cha truyền con nối không chia với ai cái mảnh đất nhỏ của mình với tất cả những cỏ dại và bụi gai của nó; sự phá vỡ tính hữu hạn của cá thể vốn là dấu hiệu của tình yêu say đắm và, là cái lẽ cơ bản của nó, trong thực tế chỉ dẫn đến chủ nghĩa ích kỉ tay đôi, rồi tay ba, v.v… Dĩ nhiên, cái đó dẫu sao vẫn tốt hơn sự ích kỉ cho một mình ta, song binh minh của tình yêu đã mở ra những chân trời hoàn toàn khác.

Lĩnh vực tồn tại của liên kết yêu đương càng di chuyển nhanh chóng vào thực tại vật chất, như nó có, thì chính trật tự của sự liên kết ấy càng nhanh chóng bị bóp méo. Cái cơ sở “không ở đây’’, huyền bí của tình yêu, cho thấy mình mãnh liệt đến thế trong tình cảm đắm đuối ban đầu, bị quên đi như là một phấn khích trong phút giây; từ nay cái mong muốn nhất, mục đích quan trọng hàng đầu và đồng thời điều kiện thứ nhất của tình yêu hóa ra lại là cái mà đáng lẽ phải là biểu hiện cuối cùng được quy định của nó. Cái cuối cùng ấy - sự liên kết sinh lý, được đặt vào chỗ của cái đầu tiên và bằng cách ấy bị lấy đi ý nghĩa nhân tính của nó, bị đưa trở về với ý nghĩa động vật - làm cho tình yêu không chỉ trở nên bất lực chống lại cái chết, nhưng bản thân nó tất yếu trở thành mồ chôn tinh thần của tình yêu, trước khi mồ mả vật chất thu nhận những người yêu.

Chống lại trực tiếp, bằng hành động của từng người, cái trật tự ấy là việc khó khăn hơn một sự nhận thức đơn thuần, mà có thể chỉ ra bằng đôi lời. Để giải thể cái trật tự tồi tệ ấy của các hiện tượng đời sống, trước hết cần phải công nhận nó là lệch chuẩn, bằng cách ấy ta khẳng định rằng có con đường khác, hợp chuẩn, ở đấy tất cả những cái bên ngoài và ngẫu nhiên phục tùng ý nghĩa nội tại của sự sống. Sự khẳng định như thế không thể là chung chung; kinh nghiệm của các cảm giác bên ngoài phải được đối lập không phải với một nguyên tắc trừu tượng, mà với một kinh nghiệm khác - kinh nghiệm của niềm tin. Cái sau khó hơn cái trước đến mức không thể so sánh, bởi vì nó được quy định bởi hành động nội tại nhiều hơn bởi sự tiếp thụ từ bên ngoài. Chỉ bằng những hành vi có trình tự của niềm tin hữu thức, ta bước vào tương quan đích thực với lĩnh vực cái tồn tại chân chính, và qua đó - vào quan hệ tương liên đích thực với “tha nhân” của chúng ta; chỉ trên cơ sở ấy mới có thể bảo toàn và củng cố trong ý thức ta cái giá trị tuyệt đối của người khác cho ta (và, từ đó, cả giá trị tuyệt đối của sự liên kết giữa ta với nó) mà trước đó đã khai lộ trực tiếp và vô thức trong cảm hứng tình yêu, bởi lẽ cảm hứng ấy đến và qua đi, nhưng đức tin của tình yêu thì còn lại.

Nhưng đức tin ấy, để không ở lại như một niềm tin vô sinh, phải không ngừng bảo vệ mình chống lại cái môi trường thực tại, nơi mà cái ngẫu nhiên vô nghĩa tạo lập ách thống trị của mình trên sự tung hoành của những dục vọng thú vật và những dục vọng con người còn tồi tệ hơn thú vật. Đối đầu với những thế lực thù địch ấy, tình yêu-đức tin chỉ có một vũ khí tự vệ - kiên nhẫn đến cùng. Để xứng đáng với hạnh phúc của mình, nó phải vác lấy cây thập tự khổ nạn của mình. Trong môi trường vật chất của chúng ta, không thể bảo toàn tình yêu chân chính, nếu không hiểu và không chấp nhận nó như một kì công tinh thần. Không phải ngẫu nhiên mà Giáo hội Chính thống trong thánh lễ hôn nhân của nó tưởng niệm các vị thánh tuẫn đạo và đặt ngang hàng với những vòng hào quang của họ những vòng hoa trên đầu các cặp vợ chồng tân hôn.

Đức tin tôn giáo và kì công tinh thần giữ cho con người cá thể và tình yêu của nó khỏi bị môi trường vật chất thu hút khi nó còn sống, nhưng chưa cho nó chiến thắng cái chết. Sự tái sinh nội tại tình cảm yêu đương, sự sửa đổi những đoạ lạc trong quan hệ tình ái không sửa đổi nổi và không giải thể nổi cái luật tồi tệ của sự sống vật chất không chỉ trong thế giới bên ngoài, mà cả ở con người. Con người thực tế vẫn là một sinh linh hữu hạn, bị cái tự nhiên vật chất chi phối. Sự liên kết bên trong - liên kết thần bí và tinh thần - với một cá thể bổ sung cho nó không thể khắc phục tính biệt lập khép kín của hai người, cũng như sự phụ thuộc chung của họ vào thế giới vật chất. Lời cuối cùng vẫn thuộc về không phải kì công tinh thần, mà cái luật không biết xót thương của sự sống và sự chết hữu cơ, và những người đã bảo vệ đến cùng lý tưởng vĩnh hằng chết đi với phẩm cách của con người, nhưng với nỗi bất lực của con vật.

Chừng nào kì công cá nhân còn tự giới hạn bằng đối tượng gần nhất của mình - bằng sự sửa đổi quan hệ cá nhân sai lệch giữa hai sinh linh - nó tất yếu không đạt được thành công cuối cùng ngay trong sự nghiệp trực tiếp của nó. Bởi vì cái ác mà tình yêu chân chính phải đối đầu, cái ác của sự biệt lập vật thể, của sự khép kín và đối lập bên ngoài của hai sinh linh bổ sung cho nhau bên trong - cái ác ấy chỉ là một trường hợp cục bộ, mặc dù điển hình, của sự đoạ lạc chung chi phối cuộc sống của chúng ta, và không chỉ của chúng ta mà còn của cả hoàn vũ.

Thật sự cứu thoát mình hay là tái sinh và vĩnh cửu hóa cuộc sống cá thể của mình trong tình yêu chân chính - việc ấy con người đơn nhất chỉ có thể làm được một cách hợp lực hay là cùng với tất cả mọi người. Nó có quyền và bổn phận bảo vệ ngã thể của mình khỏi quy luật cào bằng tồi tệ của cuộc sống chung, nhưng không tách rời lợi ích của mình khỏi lợi ích chân chính của tất cả các sinh linh. Nếu biểu hiện sâu sắc nhất và mãnh liệt nhất của tình yêu thể hiện trong quan hệ tương liên giữa hai sinh linh bổ sung cho nhau, thì vẫn tuyệt không có nghĩa là quan hệ tương liên ấy có thể tách rời và biệt lập mình khỏi tất cả như thể một cái gì đó tự túc và tự đủ; trái lại, sự biệt lập như thế sẽ là cái chết của tình yêu, bởi vì tình yêu hữu tính tự nó, với tất cả ý nghĩa chủ quan của nó, trong thực tại khách quan vẫn mới chỉ là một hiện tượng thực chứng, nhất thời. Cũng đúng như thế, từ thực tại là sự liên kết hoàn hảo hai sinh linh đơn nhất sẽ mãi mãi là hình thái cơ bản và chân chính của sự sống cá nhân, tuyệt không thể suy kết rằng cái hình thái sự sống khép kín trong thể hoàn hảo cá thể của nó phải là trống rỗng mãi mãi trong khi, do chính bản chất của con người, nó có khả năng và nhiệm vụ chứa nạp đầy đủ nội dung phổ kết. Cuối cùng, nếu ý nghĩa tinh thần của tình yêu đòi hỏi tái hợp cái bị chia cắt một cách bất chính, đòi hỏi đồng nhất hóa ta với một người khác, thì tách rời nhiệm vụ hoàn thiện cá nhân của ta với tiến trình tích hợp toàn thế giới sẽ là đi ngược lại ngay cái ý nghĩa tinh thần ấy của tình yêu, giả sử một sự tách rời như thế có là hữu khả về phương diện vật chất.

II

Như vậy, mọi cố gắng cô lập và biệt lập tiến trình phục sinh cá thể trong tình yêu chân chính vấp phải ba trở ngại không thể khắc phục, do cuộc sống cá thể của chúng ta với tình yêu của nó, bị ngăn cách khỏi tiến trình sự sống hoàn vũ, tất yếu hóa ra, thứ nhất, không có cơ sở vật chất, bất lực trước thời gian và sự chết, sau đó trống rỗng về tâm thức, không có nội dung, và cuối cùng không xứng đáng về mặt đạo lý. Nếu trí tưởng tượng vượt qua được những trở ngại vật chất và lôgic, thì cả nó cũng phải dừng lại trước nỗi bất khả về đạo lý.

Ta hãy giả định một điều hoàn toàn huyễn hoặc, giả định rằng một con người nào đó đã tăng lực tinh thần của mình bằng kì công khổ hạnh đến mức đã đích thực khôi phục được (cho mình và cho ‘’người khác’’ bổ sung cho mình) thể nguyên vẹn chân chính của ngã thể con người, đã đạt được sự nhuần thấm tinh thần triệt để và sự bất tử. Vậy thử hỏi cái cá thể phục sinh ấy có vui sướng được với hạnh phúc cô đơn của mình trong môi trường, nơi mà, vẫn như xưa, tất cả đều khổ đau và đều chết? Nhưng ta hãy đi xa hơn nữa. Hãy để cho cặp người đã tái sinh này có được năng lực truyền cho tất cả mọi người cái trạng thái cao nhất của họ; điều này tất nhiên là không thể có được, bởi vì nó là kết quả của kì công đạo đức cá nhân, nhưng cứ để cho nó sẽ là một cái gì đó tựa như đá luyện đan hay thuốc trường sinh. Và thế là tất cả mọi sinh linh trên mặt đất được giải thoát khỏi mọi tai hoạ và bệnh tật của mình, tất cả đều tự do và bất tử. Nhưng để cho họ có được hạnh phúc, họ cần có thêm một điều kiện nữa: họ phải quên đi cha ông của họ, quên đi những người đã thật sự làm nên cuộc sống tốt đẹp này cho họ, bởi vì dù có gán ghép ý nghĩa huyễn hoặc đến đâu đi nữa cho kì tích cá nhân, thì dẫu sao vẫn cứ cần có hàng ngàn và hàng ngàn thế hệ bằng lao động hợp lực của mình đã tạo nên cái nền văn hóa, những cấu trúc đạo lý và trí tuệ, mà không có chúng thì nhiệm vụ tái sinh cá nhân sẽ không những không thực hành được, mà còn không thể được đặt ra. Và hàng tỷ người đã cống hiến đời mình cho những người khác ấy sẽ tiếp tục thịt nát xương tan dưới mồ còn những hậu duệ nhàn rỗi của họ thì sẽ thờ ơ tận hưởng cái hạnh phúc cho không! Nhưng điều này sẽ định ước một sự man rợ hóa tinh thần và thậm chí còn tồi tệ hơn nữa, bởi lẽ ngay những người man rợ cũng thờ cúng tổ tiên và giữ gìn sự giao lưu với tổ tiên. Làm sao một trạng thái cao nhất và vĩnh viễn của nhân loại lại có thể được dựng xây trên bất công, trên vô ơn bạc nghĩa và quên lãng? Con người đã đạt độ hoàn hảo cao nhất sẽ không thể chấp nhận một tặng phẩm không xứng đáng như thế; nếu nó không thể cướp từ tay thần chết toàn bộ chiến quả của tử thần,thì nó thà chối từ sự bất tử.

“Hãy đập vỡ cốc quý ấy, trong đó ẩn giấu chất độc ác hiểm.”

May thay, tất cả cái đó chỉ là sự hoang tưởng tuỳ tiện và nhàn tản, và sự việc sẽ không bao giờ đi đến một thử thách bi kịch đến thế cho tình kết đoàn đạo lý trong nhân loại, do sức mạnh của mối liên kết tự nhiên của chúng ta với toàn thể hoàn vũ, nó làm cho việc giải quyết riêng lẻ nhiệm vụ cuộc đời của từng con người riêng biệt hay từng thế hệ riêng biệt trở nên bất khả về cơ sở vật chất. Sự tái sinh của chúng ta gắn bó khăng khít với sự tái sinh cuả toàn thể vũ trụ, với sự biến hóa những hình thức thời gian và không gian của nó. Cuộc sống chân chính của cá nhân trong ý nghĩa đầy đủ và tuyệt đối của nó được thực hiện và được vĩnh cửu hóa chỉ trong sự phát triển tương ứng của sự sống hoàn vũ, mà chúng ta có thể và phải tham gia vào đấy một cách tích cực, nhưng nó không được tạo ra bởi chúng ta. Cơ nghiệp cá nhân của ta, vì nó chân chính, cũng là cơ đồ chung của toàn thế giới - hiện thực hóa và cá thể hóa ý tưởng thống hợp tất cả và tinh thần hóa vật chất. Nó được chuẩn bị bởi tiến trình hoàn vũ trong thế giới tự nhiên và được tiếp tục thực hiện bởi tiến trình lịch sử trong nhân loại. Sự không biết của chúng ta về quan hệ toàn diện của các bộ phận cụ thể trong thể thống nhất của chỉnh thể cho chúng ta một sự tự do hành động mà, với tất cả các hậu quả của nó, từ khởi thủy được đã đưa vào kế hoạch tuyệt đối bao quát tất cả.

Ý tưởng thống hợp tất cả có thể được hiện thực hóa đến cùng, hay là hiện thân đến cùng chỉ như là thể sung mãn tự tại của các ngã thể hoàn hảo, có nghĩa là mục đích cuối cùng của toàn bộ cơ đồ là sự phát triển cao nhất từng cá thể trong sự thống nhất hoàn toàn của tất cả; điều đó tất yếu bao hàm cả mục đích sống của từng người chúng ta, do đó ta không có lý do và khả năng nào tách rời và cách biệt nó khỏi mục đích chung. Chúng ta cần cho thế giới như nó cần cho chúng ta; vũ trụ từ khởi thuỷ quan tâm giữ gìn, phát triển và trường cửu hóa tất cả những gì thực sự cần thiết và đáng mong muốn cho ta, tất cả những gì chính diện và xứng đáng trong bản ngã của ta, và việc còn lại cho ta chỉ là tham gia thật tự giác và tích cực vào tiến trình lịch sử chung - vì chính ta và vì tất cả những người khác không tách rời.

III

Đối nghịch với kiểu sinh tồn chân chính hay là ý tưởng thống hợp tất cả là kiểu tồn tại vật chất trong thế giới của chúng ta - chính nó với tính ngoan cố vô nghĩa của nó đè nén cả tình yêu của ta, không cho tình yêu thực hiện ý nghĩa của mình. Thuộc tính chính của kiểu tồn tại vật chất ấy là hai sự không thể thẩm thấu đi đôi: 1/ không thể thẩm thấu trong thời gian, do đó mà bất cứ khoảnh khắc sau nào của sinh tồn cũng đều không bảo toàn trong mình khoảnh khắc trước, mà loại trừ nó và bằng chính mình hất đẩy nó ra khỏi hiện hữu, cho nên mọi cái mới trong môi trường vật chất đều diễn ra thay vì cái trước hoặc làm tổn hại cái trước, và 2/ không thể thẩm thấu trong không gian, do đó mà hai bộ phận của vật chất (hai vật thể) cùng một lúc không thể chiếm một chỗ, tức là một phần của không gian, mà tất yếu hất đẩy nhau. Như vậy, cái làm cơ sở cho thế giới của chúng ta là kiểu tồn tại trong trạng thái phân rã, đây là cái tồn tại đã vỡ vụn thành những phần và những khoảnh khắc loại trừ lẫn nhau. Đấy, chúng ta phải chấp nhận một địa tầng sâu đến thế và một nền móng rộng đến thế cho sự phân li oan khốc các sinh linh, tất cả tai họa của cả cuộc sống riêng của ta cũng là ở đấy. Chiến thắng tính không thể thẩm thấu hai lần ấy của các vật thể và các hiện tượng, làm cho môi trường thực tại bên ngoài ứng hợp với tính nhất thống tất cả nội tại của ý tưởng - đấy là nhiệm vụ của tiến trình hoàn vũ, đơn giản bao nhiêu trong khái niệm chung, thì cũng phức tạp và khó khăn bấy nhiêu trong thực hiện cụ thể.

Thế mạnh trông thấy của cơ sở vật chất của thế giới chúng ta và của sự sống chúng ta to lớn đến nỗi nhiều bộ óc thậm chí nhiệt thành, nhưng hơi phiến diện nghĩ rằng ngoài kiểu tồn tại vật chất này, dưới những biến tướng khác nhau của nó, nói chung không còn lại cái gì hết. Tuy thế, chưa nói đến việc cái quan điểm coi thế giới hữu hình này là duy nhất chỉ là một giả thuyết võ đoán mà có thể tin, nhưng không thể chứng minh, và không ra ngoài phạm vi thế giới này, xét đến cùng vẫn cứ phải công nhận rằng, chủ nghĩa duy vật không có lẽ phải, xuất phát ngay từ quan điểm thực tế. Bởi vì thực ra, cả trong thế giới hữu hình của chúng ta vẫn tồn tại nhiều cái không phải là biến tướng của tồn tại vật chất với tính bất khả thẩm thấu trong thời gian và không gian của nó, mà thậm chí là sự phủ định trực tiếp và sự xoá bỏ chính tính bất khả thẩm thấu ấy. Là như thế, thứ nhất, hiện tượng vạn vật hấp dẫn, mà trong đó các bộ phận của thế giới vật chất không loại trừ nhau mà, ngược lại, như muốn bao hàm chứa nạp lẫn nhau. Vì một nguyên tắc được định trước, người ta có thể xây dựng nhiều giả thuyết khoa học, hết cái này đến cái khác, nhưng để có được một nhận thức hợp lý hợp lẽ, không bao giờ có thể, từ những giới thuyết về vật chất có quán tính, giải thích được những nhân tố đối lập trực diện với chúng: không bao giờ có thể quy lực hấp dẫn về quảng tính, từ tính không thể thẩm thấu suy ra niềm ham thích và hiểu ý vọng như là sự trơ ì. Trong khi ấy, nếu không có những nhân tố phi vật chất ấy thì không thể có ngay cả cái tồn tại vật thể đơn giản nhất. Bởi vì vật chất tự nó chỉ là một tập hợp vô định và rời rạc của các nguyên tử, mà người ta giả tưởng gán cho chúng cái thuộc tính vận động một cách rộng lượng nhiều hơn là có đầy đủ căn cứ. Trong mọi trường hợp, để có kết cấu xác định và thường hằng của những hạt vật chất hợp thành những vật thể, điều không thể thiếu được là tính bất khả thẩm thấu hay, cũng thế, tính rời rạc tuyệt đối của chúng phải được thay thế bằng sự tương tác ít hay nhiều chính diện giữa chúng. Như vậy, toàn bộ vũ trụ của chúng ta, chừng nào nó không phải là một khối hỗn mang của những nguyên tử rời rạc, mà là một chỉnh thể thống nhất và có kết cấu - vũ trụ ấy định ước trước, ngoài chất liệu phân tán của nó, một hình thức nhất thống nữa (và cả một sức mạnh tích cực, chinh phục các phần tử chống lại sự nhất thống ấy). Thể thống nhất của thế giới vật chất không phải là thể thống nhất mang tính vật chất - cái đó nói chung không thể có, cái đó là contradictio in adjecto. Được cấu thành bởi quy luật hấp dẫn mang tính phản vật chất (mà theo quan điểm duy vật chủ nghĩa, thì như thế tức là phản tự nhiên), thân thể hoàn vũ là một chỉnh thể thực tại-lý tưởng, tâm-thể hay, nói thẳng ra (theo ý tưởng của Newton về sensorium dei) nó là một thân thể thần bí.

Ngoài hiện tượng vạn vật hấp dẫn, tính nhất thể lý tưởng của tất cả còn được hiện thực hóa bằng phương thức tinh thần-thể xác trong hoàn vũ, thông qua ánh sáng và những hiện tượng gần gũi với nó (điện lực, từ tính, nhiệt), mà tính chất của chúng tương phản hiển nhiên với những thuộc tính của vật chất kín mít và trơ ì đến nỗi khoa học duy vật chủ nghĩa cũng bị cái hiển nhiên ấy bắt buộc thừa nhận có ở đây một thực thể bán vật chất, mà nó gọi là ête. Đó là thứ vật chất phi trọng lượng được thẩm thấu toàn bộ và thẩm thấu toàn bộ - tóm lại là thứ vật chất phi vật chất.

Thế giới thực tại của chúng ta được bảo tồn bởi những hiện thân ấy của ý tưởng thống hợp tất cả - lực hấp dẫn và chất ête - còn vật chất tự thân tự kỉ, tức là cái tập hợp chết của những nguyên tử trơ ì và kín mít, chỉ được ý niệm bởi lý trí trừu xuất, chứ không được phát hiện trong một thực tại nào cả. Chúng ta không biết một khoảnh khắc nào mà ở đó hiện thực chân chính lại thuộc về cái hỗn mang vật chất, còn ý tưởng hoàn vũ lại là một cái bóng không có thân thể và bất lực. Chúng ta chỉ giả định có một khoảnh khắc như thế như một điểm xuất phát của tiến trình hoàn vũ trong phạm vi vũ trụ thấy được của chúng ta.

Ngay trong thế giới tự nhiên, tất cả đã là của ý tưởng, nhưng bản chất chân chính của nó đòi hỏi sao cho không chỉ tất cả thuộc về nó, hội nhập nó và được nó bao quát, mà còn sao cho cả nó cũng thuộc về tất cả, sao cho tất cả, tức là tất cả các sinh linh riêng lẻ và cá thể, và như vậy là từng sinh linh, thật sự có được tính thống nhất của tất cả, thu nạp nó vào trong mình. Thể thống nhất hoàn hảo của tất cả, theo đúng quan niệm về nó, đòi hỏi sự cân bằng hoàn toàn, sự bình đẳng giá trị và bình quyền giữa một và tất cả, giữa chính thể và các bộ phận, giữa cái phổ biến và cái đơn nhất. Tính viên mãn của lý tưởng đòi hỏi sao cho sự thống nhất lớn nhất của chỉnh thể được thực hiện trong trạng thái tự chủ và tự do cao nhất của các phần tử cục bộ và đơn nhất - ở trong bản thân chúng, thông qua chúng và vì chúng. Theo chiều hướng ấy, tiến trình hoàn vũ đã đi đến sự tạo tác kiểu cá thể động vật, mà đối với nó bản tính thống hợp của ý tưởng tồn tại dưới hình ảnh chủng loại và được cảm nhận với đầy đủ sức mạnh trong phút giây ham mê tính dục, khi mà tính thống nhất nội tại hay tính cộng đồng với “cái khác” (với ‘’tất cả’’) tự thể hiện cụ thể trong quan hệ với một cá thể khác giới đại diện cho cái ‘’tất cả’’ bổ sung ấy - trong một thân thể. Bản thân sự sống cá thể của cơ thể động vật đã ẩn chứa một sự tương đồng nhất định, tuy hữu hạn, với thể nhất thống của tất cả, bởi vì ở đây có sự đoàn kết và tương tác đầy đủ của tất cả các cơ quan và các phần tử cục bộ trong thể thống nhất của một thân thể sống. Thế nhưng nếu tính kết đoàn hữu cơ ấy trong con vật không vượt ra ngoài thành phần thân xác của nó, thì cũng như thế, với con vật, hình ảnh của ‘’cái khác’’ bổ sung cho nó bị giới hạn toàn bộ bởi cũng một thân thể đơn nhất như thế, với khả năng chỉ có được sự liên kết vật chất và một phần; và vì thế mà tính vô tận siêu thời gian, hay là tính vĩnh hằng của ý tưởng, tác động trong sức mạnh sống và sáng tạo của tình yêu, thâu nhận ở đây hình thức thẳng tuyến tồi tệ của sự sinh sôi nảy nở bất tận, tức là của sự tái hiện cũng một cơ thể ấy trong vô số những sinh tồn đơn nhất và nhất thời thay thế nhau một cách đơn điệu.

Trong cuộc sống con người, tuyến thẳng của sự sinh sôi nảy nở chủng loại mặc dù được bảo tồn về cơ bản, nhưng nhờ sự phát triển của ý thức và của sự giao lưu hữu thức, nó được tiến trình lịch sử lôi cuốn vào những vòng ngày càng rộng lớn của các cơ thể xã hội và văn hóa. Những cơ thể ấy được tạo ra cũng bởi cái lực sống và sáng tạo của tình yêu mà trước đó đã sản xuất ra những cơ thể vật chất. Sức mạnh ấy trực tiếp tạo ra gia đình, mà gia đình là yếu tố cấu thành của mọi xã hội. Song mặc dù có mối liên hệ di truyền ấy, quan hệ của cá thể con người với xã hội khác biệt về bản chất so với quan hệ của cá thể động vật đối với chủng loại: con người không phải là một tiêu bản nhất thời của xã hội. Thể thống nhất của cơ thể xã hội cùng tồn tại thật sự với từng thành viên cá thể của nó, nó có sự tồn tại không chỉ trong và thông qua, mà còn vì từng thành viên, nó ở trong liên lạc và tương quan xác định với từng thành viên: cuộc sống xã hội và cuộc sống cá nhân từ mọi phía thẩm thấu nhau. Do đó, ở đây ta có một phương thức thể hiện ý tưởng thống hợp tất cả hoàn hảo hơn rất nhiều so với trong cơ thể vật chất. Đồng thời ở đây từ bên trong (từ ý thức) bắt đầu tiến trình tích hợp trong thời gian (hay là chống lại thời gian). Mặc dù trong nhân loại vẫn tiếp tục diễn ra sự chuyển đổi thế hệ, nhưng đã có những bước khởi đầu cho sự vĩnh cửu hóa cá thể trong tục thờ cúng tổ tiên - cơ sở của mọi nền văn hóa, trong truyền thống - cái ký ức của xã hội, trong nghệ thuật và cuối cùng trong khoa học lịch sử. Tính bất hoàn hảo, tính phôi thai của những cách vĩnh cửu hóa như thế ứng với tính bất hoàn hảo của bản thân cá thể con người và của xã hội. Nhưng sự tiến bộ là không thể hồ nghi, và nhiệm vụ cuối cùng ngày một trở nên rõ hơn và gần hơn.

IV

Nếu cái gốc của tồn tại sai trái là sự bất khả thẩm thấu, tức là sự loại trừ lẫn nhau của các sinh linh, thì sự sống chân chính là sống trong người khác cũng như trong mình, hay là tìm thấy ở người khác cái bổ sung chính diện và tuyệt đối cho sinh linh của mình. Cơ sở và kiểu mẫu của tình yêu chân chính ấy vẫn là và mãi mãi sẽ là tình yêu nam nữ hay là tình vợ chồng. Nhưng, như ta đã thấy, không thể thực hiện tình yêu ấy mà không cải tạo tương ứng toàn bộ môi trường bên ngoài, tức là sự tích hợp đời sống cá thể tất yếu đòi hỏi cũng sự tích hợp như thế trong các lĩnh vực đời sống xã hội và hoàn vũ. Sự khác biệt nhất định, hay là sự phân định các lĩnh vực sống, cá thể cũng như tập thể, sẽ không bao giờ bị xoá bỏ và không được xoá bỏ, bởi vì kiểu hòa đồng toàn thể như thế sẽ dẫn đến sự bất phân và trống rỗng, chứ không phải sự sung mãn của sinh tồn. Sự liên kết chân chính định ước trước một sự phân định chân chính các thành phần liên kết, tức là sự phân định, mà nhờ đó chúng không loại trừ nhau mà đòi hỏi có nhau, mỗi người tìm thấy ở người khác sự sống sung mãn của mình. Giống như trong tình yêu cá thể hai sinh linh khác biệt nhưng bình quyền và bình đẳng về giá trị không sử dụng mình làm biên giới phủ định nhau, mà chỉ bổ sung chính diện cho nhau, cũng cái đó phải có trong tất cả các lĩnh vực cuộc sống tập thể; mọi cơ thể xã hội đối với từng thành viên của nó không thể là giới hạn hoạt động, mà phải là điểm tựa và sự bổ sung tích cực: nếu trong tình yêu hữu tính (trong lĩnh vực đời tư) “người khác” đơn nhất đồng thời là tất cả, thì cái tất cả xã hội, về phía nó, do tính kết đoàn chính diện của các phần tử của nó, phải xuất hiện đối với từng phần tử như một thể thống nhất thực thụ, tựa như một sinh linh khác bổ sung cho nó (trong lĩnh vực mới, rộng lớn hơn).

Nếu quan hệ qua lại giữa các thành viên cá thể của xã hội phải mang tính anh em (và tính con cháu đối với các thế hệ đã qua và những đại diện xã hội của chúng), thì mối liên lạc của họ với tất cả các lĩnh vực xã hội - địa phương, dân tộc và cuối cùng toàn thế giới - cũng phải là nội tại, toàn diện và giàu ý nghĩa hơn nữa. Quan hệ giữa yếu tố chủ động của con người (cá nhân) và ý tưởng thống hợp tất cả đã hóa thân thành cơ thể xã hội (một kiểu cơ thể tinh thần-thân xác) phải là quan hệ giao hòa sống động. Không khuất phục lĩnh vực xã hội của mình và không thống trị nó, mà ở trong sự tương tác trìu mến với nó, làm yếu tố vận động tích cực, đơm hoa kết trái cho nó và tìm thấy ở nó đầy đủ những điều kiện và khả năng sinh tồn - quan hệ giữa ngã thể chân chính của con người không chỉ với môi trường xã hội gần nhất của mình, không chỉ với dân tộc mình, mà với cả toàn thể nhân loại là như thế. Trong Kinh Thánh, các thành đô, quốc gia, dân tộc Israel, và sau đó toàn thể nhân loại phục sinh hay là Hội Thánh toàn thế giới đều mang hình ảnh các cá thể nữ tính, và đây không phải là một ẩn dụ đơn thuần. Nếu hình ảnh thể thống nhất của các thân thể xã hội là không thể cảm hội đối với các giác quan bên ngoài của chúng ta, thì cái đó tuyệt không có nghĩa là nó tuyệt nhiên không tồn tại: bởi lẽ cả hình ảnh thân thể của chính ta cũng là tuyệt không thể cảm hội và không thể biết được đối với từng tế bào não riêng lẻ hay từng huyết cầu; và nếu chúng ta, như những cá thể có năng lực tồn tại sung mãn, khác những cá thể sơ đẳng không chỉ ở ý thức hữu trí sáng rõ hơn và rộng lớn hơn, mà còn ở sức mạnh lớn hơn của trí tưởng tượng sáng tạo, thì tôi không thấy lý do phải chối từ nét ưu việt này. Dẫu là thế nào đi nữa, có hình ảnh hay là không có hình ảnh, thì điều đòi hỏi trước hết là sao cho chúng ta quan hệ với môi trường xã hội và hoàn vũ như là với một sinh linh sống động thật sự, mà với nó ta không bao giờ hòa đồng đến bất phân, nhưng luôn ở trong sự tương tác mật thiết nhất và đầy đủ nhất. Sự mở rộng quan hệ giao hòa sang các lĩnh vực sinh tồn tập thể và hoàn vũ hoàn thiện bản thân ngã thể, truyền cho nó một nội dung sống thống nhất và sung mãn và bằng cách ấy nâng cao và vĩnh cửu hóa hình thức cá thể cơ bản của tình yêu.

Không thể nghi ngờ, tiến trình lịch sử diễn ra theo hướng ấy, từng bước phá vỡ những hình thái giả dối hay không đầy đủ của những liên minh con người (những hình thái gia trưởng, độc tài, cá nhân chủ nghĩa một chiều) và ngày một tiến gần hơn tới không chỉ sự hợp nhất toàn nhân loại, như một chỉnh thể kết đoàn, nhưng còn cả tới sự thiết lập kiểu thức giao hòa thực thụ của sự thống nhất toàn nhân loại ấy. Cùng với việc ý tưởng nhất thống tất cả được hiện thực hóa đích thực thông qua củng cố và hoàn thiện các thành phần cá thể - con người của nó, tất yếu sẽ suy yếu và tan biến đi những hình thức phân li sai trái, hay là những hình thức bất khả thẩm thấu của các sinh linh trong không gian và thời gian. Nhưng để xoá bỏ hoàn toàn những hình thức ấy và để vĩnh cửu hóa mãi mãi tất cả các cá thể, không chỉ hiện sinh, mà còn đã qua, cần làm sao cho tiến trình tích hợp vượt ra ngoài ranh giới sự sống xã hội hay là sự sống của riêng loài người và thu nạp vào trong nó cả lĩnh vực vũ trụ mà trước đây nó đã thoát ra khỏi. Trong cuộc tạo tác thế giới vật chất (tiến trình vũ trụ), ý tưởng thần thánh mới chỉ phủ lên bên trên vương quốc của vật chất và của sự chết một tấm vải phủ của cái đẹp tự nhiên: thông qua nhân loại, thông qua tác động của ý thức hữu trí phổ quát của nó, ý tưởng ấy phải thâm nhập vào bên trong vương quốc ấy, để làm sống thiên nhiên và vĩnh cửu hóa cái đẹp của nó. Theo nghĩa ấy, cần phải thay đổi quan hệ của con người với thiên nhiên. Cả với nó, con người cũng cần thiết lập thể thống nhất giao hòa - kiểu thống nhất quyết định cả sự sống chân chính của loài người trong lĩnh vực cá nhân và xã hội.

V

Xưa nay, thiên nhiên mới chỉ là hoặc một người mẹ chuyên quyền và độc đoán của nhân loại ấu thơ, hoặc một nô tì xa lạ, một vật dụng của con người. Trong thời đại thứ hai này, chỉ có các nhà thơ còn giữ được và nuôi dưỡng cái tình cảm vô thức và rụt rè đối với thiên nhiên như một sinh linh bình quyền, có hoặc có thể có sự sống ở trong nó. Các thi nhân chân chính xưa nay vẫn là những nhà tiên tri của sự khôi phục sự sống và cái đẹp trong hoàn vũ, như một nhà thơ đã nói khá hay với những bằng hữu của mình:

Chỉ nơi các bạn những giấc mơ chốc lát

Ngó vào hồn ta như bè bạn lâu năm,

Chỉ nơi các bạn những bông hồng thơm ngát

Muôn thuở lung linh nước mắt hân hoan.

Từ chợ đời nhạt mờ, ngột ngạt

Sung sướng sao được thấy muôn sắc màu tinh vi,

Nhìn những cầu vồng lâng lâng trong vắt của các bạn

Tôi cảm tưởng được trời thân yêu âu yếm.

Thiết lập mối quan hệ trìu mến, hay là giao hòa giữa con người với không chỉ môi trường xã hội, mà cả môi trường thiên nhiên và hoàn vũ của nó - mục đích ấy tự nó là rõ ràng. Không thể nói điều đó về những đường hướng thực hiện mục đích ấy trong quan hệ với từng con người riêng biệt. Không sa vào những chi tiết quá sớm và vì thế mà khả nghi và bất tiện, vẫn có thể, căn cứ vào những loại suy vững chắc của kinh nghiệm vũ trụ và lịch sử, khẳng định một cách tin chắc rằng mọi thực tại hữu thức của con người, được quyết định bởi ý tưởng giao hòa hoàn vũ và theo đuổi mục đích thể hiện lý tưởng tổng hòa hợp trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, bằng cách ấy đang tạo ra hoặc giải phóng những luồng năng lượng tinh thần-thể xác hiện thực, chúng từng bước chiếm lĩnh môi trường vật chất, làm cho nó nhuần thấm tinh thần và làm nhập thân vào nó những hình ảnh này hay hình ảnh kia của thể thống nhất của tất cả - những hình tương tự sống động và vĩnh hằng của nhân tính tuyệt đối. Còn sức mạnh của cuộc sáng tạo tinh thần-thể xác ấy ở con người chỉ là sự biến hóa hay là sự hướng nội cũng cái sức mạnh sáng tạo mà trong giới tự nhiên, do hướng ngoại, đã tạo ra cái vô tận tồi tệ của sự sinh sôi nảy nở của các cơ thể vật chất.

Nối liền, trong ý tưởng giao hòa hoàn vũ, tình yêu (cá thể hữu tính) với bản thể chân chính của sự sống phổ biến, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ trực tiếp của mình – xác định ý nghĩa của tình yêu, bởi vì dưới ý nghĩa của một đối tượng nào đó ta hiểu chính cái quan hệ nội tại của nó với chân lý phổ biến. Còn về một vài vấn đề chuyên biệt, mà tôi đã phải đề cập đến, thì tôi dự định sẽ còn trở lại với chúng.

1893 – 1894

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3