The Witch - Chương 10

Chương X: Back again

"You are one decision away from a totally different life."

Thời gian đối với một phù thủy dường như vô tận. Cuộc đời kéo dài hàng trăm, hàng ngàn năm, dài hơn rất nhiều so với các sinh vật khác. Nhưng không có gì là vĩnh cửu, như ai đó từng nói: Thời gian sẽ dừng lại khi vũ trụ chết đi. Vì vậy, cuộc đời phù thủy nào cũng sẽ có lúc đến hồi kết. Không ai có thể đánh đổi bất cứ thứ gì để lấy sự bất tử, cho dù có cố gắng kéo dài cuộc đời của mình đi chăng nữa, thì ngoài kia vẫn có ai đó đang bị rút ngắn thời gian thay thế. Thời gian không thiên vị bất cứ một ai. Chắc hẳn bất cứ ai khi đã hết thời gian của mình đều buột miệng nói thời gian trôi quá nhanh, chỉ trong chốc lát mọi thứ đã qua đi một cách lặng lẽ. Nhưng thực sự không phải do quá nhanh, dù nó không chờ đợi một ai, mà do mọi hành động đều không thể đuổi kịp thứ đã qua đi thì không thể cứu vãn: thời gian. Có những thứ phải tận mắt nhìn thấy, trực tiếp trải qua mới có thể hiểu được bản chất của nó. Cuộc sống với tốc độ lão hóa chậm không hề sung sướng như ai ai đều lầm tưởng, bổ không vui vẻ gì khi phải chứng kiến mọi thứ trôi qua một cách quá chậm chạp và những người yêu thương nhất lần lượt ra đời. Luôn có cảm giác tội lỗi khi nhìn người khác chết trước mình. Nhưng đôi khi, gạt những suy nghĩ đó qua một bên, nhìn cuộc đời bằng một ánh mắt khác và nhận ra rằng, có những góc khuất mà thế giới đang thay đổi, dù là tích cực hay tiêu cực cũng là một điều đáng để thử. Và cũng chưa bao giờ là muộn để bắt tay vào thay đổi thứ gì đó, một thứ có thể đổi mới cuộc đời theo một chiều hướng khác chưa ngờ tới.

Với tôi thì ngược lại, những tháng ngày qua là chưa đủ để tôi nhận ra điều đó.

Trên bàn cờ, tôi là người chơi, và tôi đưa ra những nước cờ đen đủi đẩy những quân cờ xấu số ra khỏi bàn cờ. Ván cờ đã kết thúc, và giờ là lúc tôi phải giải quyết những hậu quả có thể xảy ra sau đó, dù điều ấy là không thể tránh khỏi. Dù đúng là Hội đồng không phải lúc nào cũng nắm được toàn bộ hành động tung tích của những phù thủy, khi mà mỗi người họ chỉ trực tiếp quản lý khu vực của họ và bỏ qua những phù thủy tự do như tôi, bác John hay Isabelle, bởi Khoảng Xanh không thuộc về bất cứ khu vực nào cả, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi có thể yên tâm thảnh thơi mà vượt qua chuyện này. Nếu tất cả chuyện này tới tai Hội đồng, dù tin hay không, thỏa thuận sẽ đúng trên bờ nguy cơ sụp đổ. Đồng nghĩa với một nguy cơ cuộc chiến ngầm có thể xảy ra bất cứ lúc nào, thời đại đen tối sẽ quay trở lại như đúng trong lời tiên tri. Bè lũ của những kẻ phản diện sẽ nhân cơ hội này mà đứng lên chống phá Hội đồng. 


Miệng tôi khô khốc, đôi môi nứt nẻ, cơ thể uể oải, đôi chân gầy lê bước ra khỏi chỗ nằm. Bằng một tâm trạng mệt mỏi, tôi khẽ nắm tay cửa, xoay nó sang phải. Cánh cửa bật khỏi bản lề, kêu một tiếng két chói tai. Khi ánh sáng lọt vào căn phòng tối om, tôi mới nhận ra bây giờ trời vẫn còn sáng. Tôi chợt thất vọng khi nhìn thấy những chậu hoa chưa nở đã bị tôi đập vỡ hết, ban công nơi tôi đặt chúng giờ đây trống không. Tôi bước ra ngoài, dựa lưng vào bức tường bên trái rồi từ từ ngồi thụp xuống. Tôi nheo mắt trước ánh sáng và giật mình khi nhìn thấy chậu hoa xương rồng bốc mùi hôi thối ở phía bên cạnh. Mấy tháng trời bị bỏ xó đã khiến nó bị mục rữa và chết khô. Tôi cầm nó lên và ném vào cái sọt rác bên cạnh, tự nhủ rằng hiện tại tôi cũng như nó thôi. Tôi đứng lên và nhìn ra bên ngoài, mọi thứ chẳng thay đổi gì cả. Cánh cửa mở ra ban công đã bám một lớp bụi mỏng. Gió lạnh thốc vào mặt khiến người tôi càng thêm khô, những mảng da trên mặt bắt đầu nứt ra. Tôi cũng chẳng buồn quan tâm đến mái tóc của mình, chỉ cần biết là nó đang rất tệ. Tôi lẳng lặng đi vào trong, gió thổi dữ dội khiến cánh cửa sập lại vào bản lề. Mở cánh cửa phòng của mình ra, tôi quyết định đi xuống nhà và rời khỏi cái hố do chính mình tự tạo ra để che lấp toàn bộ mọi chuyện. Lạ thật, cứ như tôi vừa sống dậy một lần nữa vậy. Không có ai cả, cửa chính vẫn mở. Tôi nằm dài trên ghế sô-pha, mơ màng nhìn lên ngọn đèn ở bên trên, chớp mắt vài cái rồi nhắm mắt lại ngủ lúc nào không hay. Một giấc ngủ vô ích. 


Khi tỉnh dậy, tôi nhận ra mình vừa ngủ mà không có một giấc mơ nào. Tốt thôi, tôi chẳng cần giấc mơ nào hết, bây giờ đối với tôi nó cũng chỉ là một thứ vô ích đem lại những mộng tưởng chưa bao giờ có thật như hàng tỉ con người ngoài kia. Tôi giật mình khi phát hiện ra sự có mặt của anh Pollux ở phía đối diện. Anh ấy nằm vắt vẻo trên chiếc ghế sô-pha ngắn, miệng thì huýt sáo. Anh ấy đã thay đổi ít nhiều, trong khi tôi cũng thay đổi nhưng chỉ ngày càng theo chiều hướng xấu đi. Tiếng huýt sáo nhỏ dần rồi ngưng bặt, anh nhìn tôi bằng đôi mắt xanh đầy tinh nghịch: 

- Em thực sự đã quyết định rồi sao? 

- Em chẳng quyết định điều gì hết. - Tôi trả lời cụt lủn khiến anh chẳng buồn hỏi thêm nữa. 

Tôi xoay người lại để nhìn lên phía trên. Những kí ức của mấy tháng trước vẫn còn hiện nguyên đó, tự dưng trôi dạt về tâm trí như dòng nước từ thượng nguồn chảy xuống. Đôi tay tôi vẫn bất lực giấu kín đằng sau lớp vải dày cộm của đôi găng tay mà tôi chưa bao giờ dám tháo ra. 

Tôi bèn chữa lại câu nói cụt lủn của mình khi nãy bằng một vấn đề không thể liên quan hơn. Tôi nhìn vào khoảng không vô định, cười nhạt:

- Anh không hối hận vì đã quyết định chờ em đấy chứ? Em có thể khiến cuộc đời anh thay đổi mãi mãi. 

Tôi hướng mắt lên nhìn chậu hoa trên kệ bếp, đảo mắt theo nhìn để di chuyển nó về tay mình. Tôi ngắm nghía nó một lúc lâu như chờ đợi một câu trả lời rồi lại đặt nó về chỗ cũ. 

- Anh chưa bao giờ hối hận về điều đó. Còn em thì sao? - Anh hỏi, cứ như đang chất vấn tôi. 

Tôi cười nhẹ một tiếng: 

- Anh nghĩ anh có thể chờ đợi em sao? 

Anh kết thúc cuộc trò chuyện tẻ nhạt giữa hai con người trái ngược nhau bằng một câu trả lời đầy hứa hẹn.

- Vậy thì anh cũng muốn cuộc đời anh được thay đổi một lần. 


Nhìn vẻ mặt của bác John cũng có thể biết bác ấy đang thương hại cho sự chán chường của tôi đến nhường nào. Bác nhìn tôi một lượt từ trên xuống dưới, chép miệng khi thấy tôi ủ rũ vô cùng thế này. Tính bác ấy là như vậy, hơi cổ hủ và kì quái, ấy thế mà tôi cũng có thể chịu được. Tôi ngán ngẩm khi nghĩ mình phải nhận sự thương hại của người khác. Tôi khẳng định mình không cần bất cứ ai thương hại cả. Dù gì cũng chỉ là mình tôi chứng kiến, mình tôi phải trải qua và bây giờ sẽ là giải quyết hậu quả để lại phía sau. 

- Có lẽ cháu sẽ cần quay trở lại đó một lần nữa đấy. - Bác John nói, giọng đầy kiên quyết.

- Nhưng... - Tôi ấp úng, không biết phải giải thích làm sao.

- Đừng chần chừ, có khi giờ đây chúng đã gần hoàn tất quá trình chuẩn bị rồi, cô gái ạ. - Mắt bác nhìn đi xa xăm, không chớp lần nào.

Tôi không chắc đó chỉ là một lời dọa dẫm hay là sự thật. Nếu là sự thật thì chắc bác ấy phải là gián điệp theo dõi chúng mất. 


Trước khi tới đó, tôi đã mất một đêm, à không, nhiều đêm liền để suy nghĩ xem mình nên nói gì khi gặp họ, họ trông như thế nào, hiền lành, khó tính, cộc cằn? Điều khó nhất là làm sao để khiến họ nghĩ rằng việc gặp một phù thủy và nghe cô ta thao thao bất tuyệt về một âm mưu điên rồ nào đó là việc đáng tin. Mà thực ra họ chịu gặp tôi và nghe diễn thuyết cũng là một nỗ lực đáng công nhận rồi. Tôi đã thử suy diễn trước phản ứng của "những phù thủy bí ẩn hàng ngàn năm tuổi", bao gồm cả tốt và không tốt. Trường hợp đơn giản nhất là họ sẽ cho rằng đó là một điều phù phiếm không tưởng, hoặc tệ hơn là cho dù có bằng chứng rõ ràng đi chăng nữa, câu trả lời vẫn là không, không và không. Việc lấy lòng tin người khác hóa ra không dễ dàng như tôi tưởng. 


Ba ngày sau, bác John đã lặp lại hành trình mà tôi đã từng đi qua sáu tháng trước: tới Central Park, sử dụng điểm dịch chuyển ở một bụi cỏ trong đó và đến Grand Canyon trong tích tắc. Khi tới đó và nhìn thấy những đụn cát trải dài dưới nắng, gió thổi như tạo một cơn bão cát dữ dội, hơi thở của tôi nhỏ dần và không khỏi sợ hãi khi nghĩ đến cảnh đó. Nỗi sợ chặn đứng đường hô hấp khiến tôi không tài nào thở được, dù tôi chẳng rõ mìng đang sợ cái gì, nhưng điều đó lại càng khiến tôi sợ hơn. Cát bụi có thể thổi bay hết mọi dấu vết, nhưng việc mà tôi đã gây ra thì sẽ mãi ở trong tâm trí như một kí ức kinh hoàng không bao giờ có thể quên. Nó sẽ mãi bám rễ trong đầu tôi như một cái cây cổ thụ cứng đầu không chịu bật gốc, chờ ngày sinh sôi nảy nở. Tôi đi ven qua từng mỏm đá, nơi cái nắng chói chang đang quét qua mỗi bước chân, rồi dừng lại. Tại đây, bác John đứng yên tại chỗ, tay đưa ra phía trước. Bác ấy lẩm bẩm câu gì đó, rồi một làn khói tỏa ra hai bên chỗ chúng tôi như ở đuôi máy bay. Tức thì, không gian bị gấp lại nhiều lần như một tờ giấy ăn nhàu nhĩ. Rồi những đoạn gấp khúc đó lại mở ra, tỏa sang hai bên, mở ra một khung cảnh khác biệt. Qua đó tôi có thể nhìn thấy thành phố Cổ Đại một lần nữa, chỉ có điều, lần này nó sẽ không biến mất trước mắt tôi. Khi đi qua đó, một cơn rùng mình lại chạy dọc sống lưng. Tôi quay lưng lại và nhìn thấy vùng dịch chuyển đã biến mất. Đứng trơ trọi giữa một nơi toàn rừng rú không thể nào hoang sơ hơn, tôi bỗng cảm thấy lo ngại về nơi này. Từ xa, tôi có thể thấy một tòa thành cổ với ngọn tháp cao sừng sững ở phía xa, đã có dấu hiệu của rất nhiều năm tháng đi qua khi rêu phong đã mọc xanh kín cả một mảng tường. Tôi và bác John đã rất vất vả trong việc cuốc bộ qua đám cỏ dại. Sẽ không có gì đáng nói nếu chúng không sắc nhọn, lóe lên cả ánh kim và như lưỡi cưa. May mắn là không có một thương tích nào nhờ vào chiếc quần dài của tôi. Phải vượt qua một mảng rừng thưa nhiệt đới trước khi tới được đó. Tôi nghĩ nơi này có liên hệ mật thiết với quá khứ. Có nghĩa là những người ở đây đang sống ở một địa điểm trong quá khứ. Căn cứ vào ngọn tháp cao kia tôi có thể đoán đây là thời Trung Cổ. Nhưng ngược lại, thời gian của họ vẫn là ở hiện tại, họ chỉ mượn không thời hạn tòa thành kia thôi. Đó là lí do duy nhất tôi nghĩ đến khi cần giải thích vì sao thành phố Cổ Đại không hề tồn tại ở thế giới thực. Bất cứ ai ở đây cũng không hẳn là sống, họ sẽ tồn tại dưới dạng... vô hình. Đồng nghĩa với việc chỉ có thể gặp được người cần gặp khi họ muốn. 


Trong lòng tôi tràn ngập cảm xúc hỗn độn, đây là lần đầu tiên như vậy nhưng tôi không chắc sau này mình sẽ muốn gặp lại cảm giác này một lần nữa. Tôi không biết mình đang lo sợ, hay hồi hộp hay cả hai nữa. Sự thật là có thể họ đang nhìn thấy tôi trong khi tôi muốn gặp họ. Một sự xuất hiện không mời mà gặp có thể đánh thức họ. Lúc đã đặt chân đến gần tòa thành cổ, tôi sờ thử vào bức tường đá được xây từ những viên gạch vuông vức màu xám ngả đen. Rêu phong mọc ở xung quanh khiến nó có mùi ẩm mốc. Tôi khịt mũi, tự nhủ liệu họ có bao giờ để ý đến cảnh quan thẩm mỹ của nơi này hay không nữa. Có những chỗ tường đã bị vỡ vụn hoặc mất vài viên gạch, vữa rơi xuống đất. Toàn bộ tòa thành được trải dài tới tận mảng rừng thưa bên kia, bao xung quanh một ngọn tháp lớn ở đằng sau và một điện thờ ở chính giữa. Tôi phải ngửa cổ lên hết cỡ mới có thể thấy hết chiều cao của nó. Vẻ hoang sơ của nó không ngờ lại thu hút sự chú ý của tôi đến vậy. 


Một lát sau từ trong không khí, xuất hiện một bóng người hiện ra như một bóng ma. Một làn khói trắng phủ lên như muốn nuốt hết không khí xung quanh, mất vài giây để người đó có thể định hình cơ thể của mình. Tôi đoán người này khoảng ba mươi lăm tuổi, dù biết thực tế thì đã hàng ngàn năm tuổi rồi.

Đó là một người phụ nữ dáng người dong dỏng cao. Sau khi lấy được cơ thể của mình, bà ấy tiếp tục rải bước đi tự tin như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Người phụ nữ đó quay sang nói với bác John, ánh mắt kinh ngạc của bác ấy khiến tôi chỉ biết đứng im nhìn. 

- Johnny, đã hai thế kỉ rồi ấy nhỉ? 

- Đối với chúng ta thì chỉ như hai ngày thôi. - Bác ấy đáp lại ngay lập tức, dù đây là màn chào hỏi không bình thường chút nào, bởi hai người này đã biết nhau từ trước. 

Rồi bà ấy chuyển hướng sang nhìn tôi. Người phụ nữ này có vẻ ngoài giản dị, tươi trẻ nhưng cũng không kém phần lịch sự nếu so sánh với một người như bác John. Suối tóc dài đen nhánh cùng đôi mắt nâu, đây đích thị là vẻ đẹp của phương Đông. Bà ấy mặc trang phục như một người phụ nữ của chốn công sở với áo vest, chân váy bút chì và giày cao gót. 

- Chào mừng phù thủy tối thượng của huyền thuật dịch chuyển không gian tới thành phố Cổ Đại. - Bà ấy trịnh trọng nói với tôi, không quên cúi đầu chào. 

Nghe thì có vẻ hay ho nhưng sự thật thì không có gì ngoài mấy lần xoay chuyển không gian, những bài học vỡ lòng mà ai cũng làm được. Tôi chưa đạt tới cảnh giới đó để được gọi như vậy. Bác John đụng vào cánh tay tôi để nhắc tôi đáp lại lời chào của người đối diện. Tôi giật mình, vội vã cúi người xuống. 

- Không cần phải làm vậy đâu. Hai người tới đây chắc hẳn có việc quan trọng, bởi Johnny đây rất ghét phải đặt chân đến thành phố thế này. - Bà ấy liếc đôi mắt sắc sảo của mình qua bác John. 

Đoạn, bà lại nói tiếp: 

- Người có thể gọi ta là Harriet. Đi theo lối này, Hội đồng sẽ sẵn sàng gặp người. 


Tôi biết so với Harriet thì địa vị của tôi cao hơn là cái chắc nhưng cách xưng hô này làm tôi cảm thấy không thoải mái cho lắm. Dù trong một thế giới phù thủy không có bất cứ luật lệ nào, cũng không có ai đặt ra bất cứ quy tắc nào, kể cả tối thiểu cho việc giao tiếp như con người thì mọi người vẫn tự động làm như vậy theo bản năng. Đương nhiên tôi thì vẫn phải cúi mình trước hai người có vị trí cao nhất trong Hội đồng là Alshain và Antares. 


Harriet nói bác John nên ở ngoài đợi trong khi tôi vào đó. Bà ấy đưa tôi đi theo lối đằng sau. Ở chính giữa sau cánh cổng tòa thành, bốn cột đá cao nối mái vòm với nền đá bên dưới, một kiến trúc rất dễ khiến người ta liên tưởng tới đền Parthenon nổi tiếng. Tất cả đều rất cao, thậm chí thềm bước vào cũng cao quá cổ tôi. Có tổng cộng bốn cột đá có vân sọc theo thân, hai bên là hai ngọn đuốc cháy trên giá đỡ đã hoen gỉ. Khác với khung cảnh rừng rú bên ngoài, bên trong không có lấy một dấu hiệu nào của sự hoang sơ. Đằng sau những cột đá kia, bên trong chính điện là nơi tối cao nhất của Hội đồng, bao gồm cả đền thờ phù thủy chúa. Bao quanh chỗ tôi đứng là tường thành và tuyệt nhiên không có quá nhiều âm thanh gì ngoài tiếng gió hú. Đôi lúc có những tiếng thì thầm của ai đó vang vọng bên tai nghe rất bí ẩn và lạnh lẽo. Đi qua hết lối mòn cạnh chính điện, Harriet chỉ tay vào khoảng sân rộng lớn. Từ đây có thể tiến vào chính điện từ đằng sau bởi có những bậc cầu thang cao vút bằng đá đen, có chỗ đã phai màu và vỡ nát. Harriet đưa tôi đi qua những bậc thang mấy lần khiến tôi suýt ngã ngửa, bên trong có phần tối tăm lạnh lẽo. Chỉ có ánh sáng đến từ những ngọn nến ở chỗ thờ. Tất cả đều được xây từ đá đen bóng loáng, tuy nhiên nhiều chỗ đã đổ vỡ và tôi không nghĩ là họ có ý định tu sửa lại. Đứng chờ khoảng năm phút và Harriet dặn tôi không nên tạo ra bất cứ âm thanh nào thì bỗng nhiên từ trong bóng tối hiện ra một nhóm người mặc áo choàng trùm kín người, khiến tôi nhớ đến Tử thần ở thành phố Bóng Tối. Họ đứng quây lại thành vòng tròn, và không làm gì cả. Sau đó, họ đứng rẽ lối sang hai bên để nhường đường cho hai người mà cả tôi lẫn họ đều phải kính cẩn cúi đầu: Alshain và Antares. 


Alshain và Antares, không giống như tôi tưởng tượng trước kia. Họ không có tý gì gọi là hiện đại, tôi không hiểu nổi họ cổ đến mức nào nữa. Và theo như tôi được dặn thì Alshain là người anh cả trong tổng số chín người con của Altair, là một người khó tính, luôn đề phòng trước mọi hiểm họa vì vết thương lòng trong quá khứ, hay xét nét và có phần kiêu căng. Ngược lại, Antares, người con thứ hai, là một người hiền hòa, thường không mấy bận tâm đến những vấn đề mà anh trai mình phải giải quyết, chính vì điều đó mà ông vốn không thích việc phải ở lại thành phố Cổ Đại. Cả Alshain và Antares đều có ngoại hình của những người đàn ông trung niên, ánh mắt luôn nhìn ra xa xăm và cách họ hành xử cũng đủ cho thấy con người họ luôn toát lên một vẻ đĩnh đạc, tuy có phần cổ hủ thường thấy ở những người từng trải đã sống hàng ngàn năm trời. Trải qua bao nhiêu mất mát và đau thương, họ đã cùng những phù thủy khác duy trì giống loài của mình cho đến tận bây giờ, quả là một điều đáng ngưỡng mộ. Đây là lần đầu tiên tôi được nhìn tận mắt những phù thủy của Hội đồng, những người luôn có một thần thái tôn nghiêm, khiến người khác phải kính phục lui mình. Khác với những người kia trong bộ trang phục của những kẻ triệu hồi, Alshain và Antares cho thấy họ cổ đến cỡ nào với áo xếp nhiều lớp màu xanh đen, giày vải buộc dây cao và tấm áo choàng đỏ thẫm. Cả hai đều giống nhau ở mái tóc rẽ ngôi húi cua. Harriet đã nói với tôi lúc đi trên con đường mòn rằng: cho dù tôi phải cúi mình trước Alshain và Antares, nhưng đó chỉ là nghi thức tối thiểu mà một phù thủy cần phải làm khi đứng trước cội nguồn của mình. Bởi thành thực mà nói, địa vị của họ không cao hơn tôi là bao, thậm chí qua hàng ngàn năm ẩn thân, sức mạnh của họ đã phần nào lu mờ. 


Chính Alshain là người mở lời trước: 

- Đây là lần đầu tiên có một phù thủy tối thượng tới thành phố ở tuổi đời nhỏ thế này.

Tôi cúi mình chín mươi độ và cố gắng để không lộ ra bất cứ nụ cười nào. 

"Nên nhớ, đừng để họ nhìn ra Bóng Tối ở cháu." 

Alshain phóng một cái nhìn sắc lẹm về phía tôi khiến tôi thoáng giật mình. Có vẻ ông ta ghét phải chào hỏi với một đứa nhóc thiếu niên như thế này. 

Sau đó, tôi đã thuật lại toàn bộ sự việc mà tôi biết được, tất nhiên là không hé một chữ nào về Bóng Tối. Đúng rằng họ không có ý định hỏi rằng vì sao tôi có thể biết được những điều đó.

- Số phận của mẹ tôi, các ông đã rõ. Trong những kẻ đi sau mẹ tôi, có một lão phù thủy tên là Thadddeus. - Tôi hắng giọng rồi nói tiếp. - Tôi đã biết được kế hoạch của lão ta, và nó không hề bình thường. Bởi việc hồi sinh cùng lúc cả chúa quỷ Satan và Altair không phải là điều tốt đẹp gì. 

Alshain ngay lập tức phản bác lại, điều mà tôi đã dự đoán từ trước. Bởi ông ta vốn kiêu căng và không hề muốn bản thân mình bị hạ thấp như vậy. 

- Ngươi cho rằng bọn ta ở đây có nghĩa là bọn ta không biết gì về hoạt động của những phù thủy khác sao? 

Tôi rất muốn to tiếng lại rằng, ở địa ngục thì ông biết thế quái nào được, bởi đó đâu phải là lãnh địa của ông. 

Tôi cao giọng đáp lại, có điều tôi cầm kìm hãm bản thân lại, tự tin thái quá trước Alshain không phải là ý hay. Tôi không sợ ông ta, nhưng ông ta lại khiến tôi thấy sợ sệt vô cùng. 

- Phải. Bởi không phải ở đâu cũng có tai mắt của ông... - Harriet siết chặt tay tôi, nhưng tôi đã kịp buông tay bà ra. 

Alshain gầm lên như một chú sư tử bị cướp mất miếng mồi và lòng kiêu hãnh của mình khiến mặt đất thoáng rung chuyển. 

- Hỗn xược! Ngươi đang đứng ở thánh địa linh thiêng của phù thủy, ăn nói hồ đồ như vậy, muốn ta tin tưởng bằng cách nào? 

Tôi có thể thấy gương mặt Alshain đang nhăn lại vì giận dữ khiến Antares buộc phải trấn tĩnh ông. Trống ngực đập thình thịch, tôi cố gắng nghĩ mình nên hạ thấp giọng thay vì để bị chỉ trích như vậy. 

- Thành thực xin lỗi. Nhưng tôi đã đọc tâm trí lão Thaddeus. Kế hoạch của lão ta sẽ không có gì đáng nói cho đến khi lão ta nhắc tới việc hồi sinh Altair và cố thuyết phục Người bằng những điều dối trá về phù thủy chúng ta, gây nên một cuộc chiến, đưa những giống loài ở địa ngục tham chiến và... - Tôi ngừng lại khiến Alshain nhíu mày nhìn. - ...mẹ tôi. Ông biết quyền năng của bà ấy mạnh như thế nào. Và khi lão Thaddeus giải thoát được mẹ tôi, những con quỷ của đảo Ma sẽ không sẽ không tận dụng cơ hội này mà tấn công con người. Lúc ấy, chắc chắn loài người sẽ cho rằng chúng ta đe dọa tới cuộc sống của họ. 

Bởi hiểu biết của họ là có hạn, thế kỉ hai mươi mốt rồi nhưng vẫn có những điều họ không thể giải thích được và đương nhiên là sẽ quy tội cho sức mạnh siêu nhiên. 


Lúc này, những nếp nhăn trên vầng trán cao của ông đã dãn ra, khiến tôi liên tưởng tới bố mỗi khi ông thành công ở một công việc gì đó. 

- Tất cả những điều đó đều không đủ căn cứ. Xâm nhập suy nghĩ của kẻ khác không đồng nghĩa với việc đó không phải là những điều dối trá. Hơn nữa, cha ta không phải là người dễ dàng bị thuyết phục bởi những điều sai trái. 

Uầy, ông ta quả là tự cao tự đại. Có những việc mà chỉ trời đất mới biết được, mà ông ta thì đâu phải thần thánh và trời đất. Ông ta không nhận thức được địa ngục từ lâu đã không còn nằm trong danh sách lãnh địa có thể cai quản của phù thủy. Vậy là mọi công sức của tôi đổ sông đổ bể. Trong tâm trí tôi đang là hàng ngàn gương mặt không thể phẫn nộ hơn được nữa khi chỉ vì cố tới đây mà tôi đã lạc vào thành phố Bóng Tối. Điều tôi dự đoán quả không sai, ông ta không hề tin tưởng tôi một chút nào. Hay chính xác hơn là ông ta không tin tưởng vào năng lực của tôi. 

Rồi sau đó, Alshain phất áo choàng tan biến đi mất. Antares vỗ vai tôi, ông nói: 

- Đừng phụ thuộc vào anh trai ta. Ta vẫn tin tưởng ngươi, và sẽ vẫn theo dõi cách ngươi chống lại kế hoạch của bọn chúng. Ta có linh cảm hồi sinh cha ta không phải là điều tốt. Và ta sẽ giúp ngươi nếu có thể. 

Rồi ông cũng tan biến luôn. Chỉ còn tôi và Harriet đứng một mình giữa chính điện tối tăm. Hi vọng ông ta sẽ giúp tôi thật sự chứ không phải là những lời nói suông chỉ để an ủi một cô bé teen đang uất ức phát khóc. 


Harriet đưa tôi ra cổng thành, bà cúi mình chào tôi và bác John rồi cũng tan biến đi mất. Tuyệt thật, sao ai cũng thích tan biến một cách bí ẩn như ma quỷ vậy nhỉ? 


Bác John phá vỡ sự im lặng của tôi bằng một cảm xúc như thể bác không biết chuyện gì vừa xảy ra. Nét thảng thốt hiện rõ trên khuôn mặt bác khiến tôi cũng phải lo lắng theo.

- Jocelyn, cháu quên việc thuyết phục Alshain đi. Pollux biến mất rồi.

Tôi cố ngẫm nghĩ lại rồi nhận ra hôm nay hoàn toàn không phải ngày cá tháng tư.