Thung Lũng Bất Hạnh - Chương 19
19
Sau khi Henrietta rời đi, ông Poirot vẫn ngồi lại cho đến khi thấy thanh tra Grange sải những bước dài quả quyết băng qua hồ bơi, đi men theo lối mòn ngang qua nhà mát.
Ông thanh tra hẳn đã biết nơi muốn đến.
Có lẽ sau đó ông sẽ còn đến Resthaven hoặc Dovecotes. Chưa rõ là nơi nào.
Ông đứng dậy rồi đi ngược trở về. Nếu thanh tra Grange đến nhà ông, thì ông rất vui lòng tiếp đón.
Nhưng khi về tới Resthaven, không có ai đến cả. Ông Poirot trầm ngâm nhìn lối mòn dẫn về phía Dovecotes. Ông biết Veronica Cray hãy còn chưa quay lại London.
Càng ngày ông càng tò mò về cô diễn viên này. Chiếc áo lông cáo bạc, những hộp diêm, cái cớ qua loa để đến Thung Lũng đêm thứ Bảy, và tiết lộ của Henrietta Savernake về mối quan hệ giữa John Christow và Veronica.
Một khuôn mẫu thú vị đây, ông nghĩ. Ông luôn coi mối liên hệ giữa những manh mối là khuôn mẫu.
Một thiết kế của những cảm xúc hòa trộn và sự va chạm giữa các cá tính khác biệt. Một thiết kế lạ lùng, nối nhau bằng những sợi chỉ đen chứa đầy căm ghét lẫn khát khao.
Liệu Gerda Christow có giết chồng mình không? Phải chăng mọi chuyện đơn giản là vậy?
Nhớ lại cuộc trò chuyện vừa rồi với Henrietta, ông kết luận rằng vụ này không hề đơn giản.
Henrietta đã tưởng rằng ông nghi ngờ cô là hung thủ, nhưng hoàn toàn không phải thế. Ông chỉ cho rằng Henrietta biết điều gì đó, hoặc đang che giấu điều gì đó—nhưng là gì?
Ông bực bội lắc đầu.
Cảnh hồ bơi. Một cảnh sắp đặt sẵn. Như sân khấu. Sân khấu dàn dựng bởi ai? Dành cho ai?
Rất có thể là dành cho ông, Hercule Poirot. Ông từng nghĩ vậy, nhưng lúc đó ông tưởng cảnh ấy là trò đùa không thích hợp để đón chào mình.
Quả là không thích hợp, nhưng rốt cuộc không phải trò đùa.
Ông lại lắc đầu. Ông không biết. Cũng chưa phỏng đoán được gì.
Rồi ông lại khép hờ mắt, lướt lại mọi tình tiết, quan sát bằng con mắt bên trong tinh tường. Sir Henry, địa vị cao, là người đáng tin cậy, từng mang trọng trách với đế chế. Bà Angkatell lúc nào cũng mơ mơ màng màng, thế nhưng không hiểu sao lại duyên dáng vô cùng, lại cực giỏi cho ra những nhận xét không đâu vào đâu. Henrietta Savernake thì yêu John Christow hơn cả chính bản thân mình. Edward Angkatell, dịu dàng, thụ động. Midge Hardcastle lầm lì mà lạc quan. Gương mặt hoang mang, sững sờ của Gerda Christow khi cầm khẩu súng trên tay. Tính tình khó chịu của cậu trai mới lớn David Angkatell.
Họ đều bị kẹt trong mớ bòng bong của luật pháp, đan kết với nhau trong hậu quả tàn nhẫn sau cái chết bất ngờ đầy bạo lực. Mỗi người đều ôm mang bi kịch của riêng mình, câu chuyện của riêng mình.
Và đâu đó giữa những đan kết và cảm xúc đó chính là sự thật.
Đối với Hercule Poirot, chỉ có một điều duy nhất hấp dẫn hơn nghiên cứu con người, đó là truy cầu sự thật.
Ông quyết tìm ra sự thật về cái chết của John Christow.
* * *
“Tất nhiên là được, thưa ông thanh tra,” Veronica nói. “Tôi rất nóng lòng được giúp đỡ.”
“Cảm ơn cô Cray.”
Veronica Cray hoàn toàn không như những gì ông thanh tra tưởng tượng. Ông chuẩn bị tinh thần gặp một nữ minh tinh quyến rũ, hoặc giả tạo, hoặc thậm chí mạnh mẽ, nếu cô có “diễn” ngoài đời thực thì ông cũng chẳng lạ.
Quả thực cô có diễn, nhưng không phải như kiểu ông tưởng.
Không phô nét hấp dẫn nữ tính quá lố, không lấy vẻ gợi cảm làm điểm nhấn.
Thay vào đó, trước mắt ông là một phụ nữ đẹp rạng ngời, trang phục đắt tiền, và đồng thời là một người giỏi làm ăn. Veronica Cray không ngây thơ chút nào, ông nghĩ.
“Chúng tôi chỉ muốn làm rõ vài chi tiết thôi, cô Cray. Cô có đến Thung Lũng vào tối thứ Bảy không?”
“Có, nhà tôi hết diêm. Ở vùng nông thôn mới biết thứ ấy cần thiết đến thế nào.”
“Cô đi bộ đến tận Thung Lũng sao? Tại sao cô không sang nhà ông Poirot, gần hơn nhiều?”
Cô nở một nụ cười tự tin tuyệt đẹp như đang đứng trước ống kính.
“Tôi chưa quen ông hàng xóm ấy, đúng ra tôi nên làm quen mới phải. Ông ấy có phần như người ngoại quốc, ông biết đấy, tôi hơi ngại ông ấy sẽ gây điều phiền toái, mà lại ở gần nhà tôi như vậy.”
“Được, nghe hợp lý đấy,” thanh tra Grange nghĩ. Hẳn cô ấy đã nghĩ sẵn đáp án cho câu hỏi này.
“Vậy là cô mượn được diêm,” ông nói tiếp. “Và cô cũng nhận ra người bạn cũ ở đó là bác sĩ Christow, có phải không?”
Cray gật đầu.
“Tội nghiệp John. Thế mà tôi không gặp anh ấy đã mười lăm năm rồi.”
“Vậy sao?” Giọng ông thanh tra nghi ngờ, nhưng vẫn giữ vẻ lịch sự.
“Thật vậy.” Cray nói dứt khoát.
“Vậy cô có vui khi gặp lại bạn cũ không?”
“Rất vui. Gặp lại bạn cũ bao giờ cũng vui mà, phải không ông thanh tra?”
“Tôi nghĩ cũng còn tùy dịp.”
Veronica Cray nói tiếp luôn, không đợi hỏi:
“Rồi John tiễn tôi về nhà. Hẳn ông muốn biết anh ấy có nói gì liên quan đến bi kịch đã diễn ra không, tôi cũng cố gắng nhớ lại cuộc chuyện trò đêm ấy, nhưng thực sự là không có gì bất thường.”
“Hai người nói về chuyện gì vậy?”
“Những chuyện ngày xưa. Kiểu như anh có nhớ chuyện này, em có nhớ chuyện nọ không?” Cô mỉm cười hoài niệm.”Chúng tôi quen nhau ở miền Nam nước Pháp. John gần như không đổi thay gì sau bao năm, tất nhiên có già đi, và thêm phần quyết đoán. Tôi được biết anh ấy khá nổi tiếng trong ngành. Anh không nói gì nhiều về đời tư, nhưng tôi có cảm giác rằng hôn nhân của anh ấy không hẳn xuôi chiều mát mái, tôi chỉ đoán vậy thôi. Tôi nghĩ bà vợ tội nghiệp của anh ấy là người không được sáng láng lắm, lại hay ghen—hẳn là thường làm ầm ĩ vì những bệnh nhân nữ xinh đẹp đến khám.”
“Không đâu,” thanh tra Grange đáp. “Cô ấy xem ra không phải như vậy.”
Veronica nói nhanh:
“Ý ông là cô ấy giỏi đóng kịch sao? Đúng, như thế thì còn đáng ngại hơn.”
“Theo tôi thấy thì cô cho rằng bà Christow đã chính tay bắn chồng, có phải không?”
“Đúng vậy. Trước khi đưa ra xét xử chính thức thì không được phép quy kết tội trạng cho người ta, phải không ông thanh tra? Tôi rất xin lỗi. Chỉ vì tôi nghe hầu gái kể lúc John chết, cô ấy đứng ngay bên cạnh, súng lục trong tay. Ông biết đấy, ở quê thì mọi sự toàn bị cánh người hầu truyền miệng rồi nói quá lên không chừng.”
“Có những khi thông tin từ người hầu rất có giá trị đấy, cô Cray.”
“Hẳn là ông khai thác được khá nhiều thông tin từ họ?”
Ông Grange bình tĩnh nói tiếp:
“Tất nhiên, cần đặt câu hỏi rằng ai có động cơ để…”
Ông ngừng lời. Veronica hơi nhếch cười nuối tiếc:
“Và người vợ luôn luôn là kẻ tình nghi số một sao? Đạo lý ở đâu chứ! Nhưng thường luôn có một người đàn bà khác. Có lẽ cô ta cũng có động cơ chăng?”
“Cô cho rằng bác sĩ Christow có quan hệ với người đàn bà khác?”
“À… vâng, tôi cho là vậy. Đó là linh cảm của riêng tôi thôi.”
“Linh cảm đôi khi cũng hữu ích lắm đấy,” ông Grange nhận xét.
“Từ những gì John kể, tôi hình dung là… có một nữ điêu khắc gia là, ừm, là người bạn rất thân thiết với anh ấy. Nhưng hẳn chuyện này các ông đã biết rồi?”
“Tất nhiên cũng tôi phải tìm hiểu hết mọi mối quan hệ.”
Thanh tra Grange nói bằng giọng khách quan, không hứa hẹn gì, nhưng trong một tích tắc, ông kịp thấy vẻ thỏa mãn ác độc lóe lên trong đôi mắt to xanh thẳm ấy.
Ông hỏi tiếp, rất đúng thể thức:
“Vậy bác sĩ Christow tiễn cô về nhà, như cô vừa nói. Lúc ông ấy rời đi là mấy giờ?”
“Ông biết đấy, tôi nào có nhớ nổi! Chúng tôi nói chuyện một lát rồi anh ấy về. Hẳn là cũng trễ lắm rồi.”
“Ông ấy có vào nhà?”
“Phải, tôi mời anh ấy vào uống nước.”
“Tôi hiểu. Tôi hình dung hai người chuyện trò với nhau …ừm, chỗ nhà mát gần hồ bơi chứ.”
Ông thấy ánh mắt cô xao động. Một thoáng do dự, rồi cô nói ngay:
“Ông đúng là thám tử chuyên nghiệp nhỉ. Vâng, chúng tôi có ngồi đó hút thuốc và trò chuyện một lát. Làm sao ông biết được?”
Gương mặt cô háo hức như đứa trẻ đòi chỉ mánh làm một tiểu xảo.
“Cô để quên áo choàng ở đó mà, cô Cray,” ông nói thêm, giữ giọng bình thản, “và mấy hộp diêm nữa.”
“À, đúng rồi.”
“Bác sĩ Christow trở về Thung Lũng lúc ba giờ sáng,” ông thanh tra đều đều nói tiếp.
“Trễ đến vậy sao?” Veronica ngạc nhiên.
“Đúng vậy, cô Cray..”
“Nghĩ cũng phải, chúng tôi nói chuyện nhiều lắm, bao nhiêu năm rồi mới gặp lại mà.”
“Cô có chắc rằng cô không gặp lại ông Christow lần nào trong chừng đó thời gian?”
“Tôi đã nói rồi mà, tôi và anh ấy không gặp nhau mười lăm năm rồi.”
“Cô có chắc là không nhớ lầm? Tôi linh cảm rằng cô từng gặp ông bác sĩ nhiều lần rồi.”
“Sao ông lại nghĩ như vậy chứ?”
“Ví dụ như từ bức thư này,” thanh tra Grange rút lá thư trong túi ra, hắng giọng rồi đọc lên.
Sáng nay anh đến chỗ em nhé. Em phải gặp anh.
Veronica.
“A…” Cô cười. “Nghe có vẻ hơi ép buộc nhỉ. Có lẽ Hollywood đã khiến người ta thành ra kiêu căng một chút.”
“Nhận thư, bác sĩ Christow có đến nhà cô vào sáng hôm sau. Hai người xảy ra việc cãi cọ. Cô Cray, hai người đã tranh cãi về chuyện gì vậy?”
Thanh tra không giấu vẻ sắc bén nghề nghiệp nữa. Ông lập tức thấy môi cô diễn viên thoáng mím lại vì tức giận. Cô bật ra:
“Chúng tôi không cãi nhau.”
“Có đấy, cô Cray. Lời cuối của cô là Tôi căm ghét anh hơn bất kỳ ai trên đời này.”
Cô im bặt. Ông cảm giác được cô đang căng não suy nghĩ thật nhanh và thận trọng. Phụ nữ thường nhẹ dạ nhanh lời, nhưng Veronica Cray rất biết tính toán.
Cô nhún vai, nói nhẹ tênh:
“Tôi hiểu rồi. Lại từ miệng người hầu. Cô hầu gái của tôi giàu trí tưởng tượng lắm. Cùng một chuyện có nhiều cách nói mà, ông biết đấy. Tôi đảm bảo là tôi không nói năng cường điệu như vậy. Chỉ là chút tán tỉnh nhẹ nhàng thôi. Khi trước chúng tôi có thời gian yêu nhau.”
“Vậy những lời đó không có ý nghiêm túc sao?”
“Tất nhiên không. Và tôi cũng đảm bảo với ông rằng trong mười lăm năm qua tôi không hề gặp lại John Christow. Ông cứ điều tra là biết.”
Một lần nữa, cô trở lại vẻ đàng hoàng, tự tin.
Thanh tra Grange không ép hỏi thêm nữa về chủ đề này. Ông đứng dậy.
“Hôm nay thế là đủ, cô Cray,” ông nói lịch sự.
Ông rời Dovecotes và đi theo con đường mòn đến cổng dinh thự Resthaven.
* * *
Hercule Poirot nhìn ông thanh tra, vẻ ngạc nhiên vô cùng. Ông ngờ vực hỏi lại:
“Vậy khẩu súng mà Gerda Christow cầm trong tay và sau đó đánh rơi xuống hồ bơi không phải là khẩu súng bắn viên đạn giết ông bác sĩ sao? Thật ngoài sức tưởng tượng.”
“Đúng vậy, ông Poirot. Nói thẳng ra, chuyện đó chẳng hợp lý chút nào.”
Ông Poirot lẩm bẩm:
“Không hợp lý chút nào… Nhưng phải có lý do cho chuyện đó chứ, phải không?”
Ông thanh tra thở dài nặng nề: “Đúng thế đấy, ông Poirot. Chúng ta phải tìm ra lý do, nhưng ngay lúc này thì tôi chưa nhìn ra manh mối gì. Hẳn vụ án sẽ tiến triển nhanh hơn nếu ta tìm được khẩu súng thực sự dùng để bắn. Ít ra ta biết được khẩu súng đó cũng nằm trong bộ sưu tập của Sir Henry, ông ấy bị mất một khẩu—và thế có nghĩa rằng vụ này dính líu rất nhiều tới Thung Lũng.”
“Phải,” ông Poirot gật đầu.
“Ban đầu cứ tưởng vụ này đơn giản, không lắt léo,” ông thanh tra nói tiếp, “thế nhưng giờ tôi thấy hoàn toàn ngược lại.”
“Phải,” ông Poirot đồng tình, “không đơn giản chút nào.”
“Phải thừa nhận có khả năng đây là một vụ dàn cảnh, hòng đẩy mọi nghi ngờ về phía Gerda Christow. Nhưng nếu vậy, tại sao không để chính khẩu súng gây án tại hiện trường để Gerda nhặt lên?”
“Vì có thể cô ta sẽ không nhặt súng.”
“Đúng thế, nhưng trong trường hợp đó, nếu không có dấu vân tay của ai khác trên súng—giả định là súng đã được lau sạch sau khi bắn—thì Gerda vẫn bị nghi ngờ mà. Đó là điều kẻ sát nhân muốn, phải vậy không?”
“Vậy sao?”
Ông Grange quay sang nhìn.
“Thì, nếu anh là kẻ sát nhân, hẳn anh sẽ muốn đổ tội thật nhanh, thật kín đáo cho người khác, phải không? Phản ứng thông thường của kẻ giết người là vậy.”
“Phảaaai,” ông Poirot dài giọng. “Nhưng có lẽ trong vụ này kẻ giết người không phải hạng thông thường. Có lẽ đó chính là đáp án cho chúng ta.”
“Đáp án gì?”
Ông Poirot trầm ngâm:
“Rằng kẻ giết người này thuộc loại bất thường.”
Thanh tra Grange hiếu kỳ nhìn Poirot. Ông hỏi:
“Vậy kẻ ấy có ý định gì? Và nhắm tới điều gì?”
Ông Poirot dang tay thở dài.
“Tôi vẫn chưa biết gì cả. Nhưng tôi lờ mờ đoán rằng…”
“Sao?”
“Rằng kẻ giết người muốn giết John Christow nhưng không muốn đổ tội cho Gerda Christow.”
“Hừmmm! Nhưng chúng ta đã nghi ngờ Gerda ngay từ đầu đó thôi.”
“Đúng, nhưng sớm muộn ta cũng sẽ phát hiện ra vấn đề ở khẩu súng Gerda cầm, thế là vụ này được xem xét ở góc độ hoàn toàn mới. Trong thời gian đó, kẻ sát nhân sẽ có thời gian…”
Ông Poirot chợt ngưng bặt.
“Thời gian để làm gì?”
“À, mon ami, tới đó thì tôi vẫn chưa biết.”
Thanh tra Grange đi qua đi lại trong phòng. Rồi ông dừng lại trước mặt Poirot.
“Ông Poirot, chiều nay tôi ghé nhà ông vì hai lý do. Lý do thứ nhất là vì tôi biết ông có kinh nghiệm rộng rãi trong việc xử lý mấy vụ như thế này, trong quân đội ai cũng biết. Còn lý do thứ hai là vì ông cũng từng tới hiện trường, coi như ông cũng là nhân chứng. Ông đã tận mắt thấy điều gì đã xảy ra.”
Poirot gật đầu.
“Đúng, tôi có thấy, nhưng ông thanh tra ạ, đôi khi những gì mắt thấy không đáng tin cậy lắm đâu.”
“Ý ông là sao, ông Poirot?”
“Đôi khi, ta chỉ thấy điều mình được dẫn dắt cho thấy.”
“Ông nghĩ rằng mọi việc đã được xếp đặt trước?”
“Tôi cho là vậy. Cảnh ấy hệt như bối cảnh trên sân khấu. Những gì tôi thấy được rất rõ ràng: Người đàn ông vừa bị bắn và người phụ nữ bắn anh ta ở bên, tay còn cầm khẩu súng vừa sử dụng. Đó là những gì tôi thấy, và ta đã biết rằng ít nhất có một điểm trong khung cảnh ấy không phải như ta tưởng. Khẩu súng ấy không phải là khẩu đã dùng để bắn John Christow.”
“Hừmmm!” Ông thanh tra kéo kéo bộ râu quặp. “Thế ông có nhận thấy điểm nào bất hợp lý trong khung cảnh đó nữa không?”
Ông Poirot gật đầu: “Có ba người khác có mặt ở đó—ba người rõ ràng có vẻ vừa mới tới hiện trường. Nhưng điều đó có thể cũng không phải sự thật. Hồ bơi nằm giữa rừng cây dẻ rậm rạp. Từ hồ bơi có những năm lối mòn dẫn ra các hướng khác nhau: Một dẫn lên nhà chính, một vào rừng, một dẫn ngược lên lối đi trồng hoa, một xuôi xuống vườn rau và một nối với đường mòn đến đây.
“Trong số ba người có mặt, mỗi người đều đến từ một ngả khác nhau. Edward Angkatell từ trong rừng ra, bà Angkatell đi lên từ vườn rau, và Henrietta Savernake từ lối trồng hoa mé trên. Ba người này đến hiện trường gần như cùng lúc, chỉ vài phút sau Gerda Christow.
“Nhưng một trong số họ có thể đã đến đó trước cả Gerda Christow, người đó có thể bắn John Christow rồi đi theo một ngả nào đó, rồi vòng lại, vừa vặn xuất hiện cùng lúc với những người khác.”
Thanh tra Grange gật gù:
“Cũng có khả năng đó.”
“Và còn một giả thiết nữa mà ta chưa tính tới. Đó là có người đi theo lối mòn từ đây, bắn John Christow và đi ngược lối cũ về, mà không ai nhìn thấy.”
“Ông nói rất đúng. Vậy là có thêm hai kẻ tình nghi, ngoài Gerda Christow. Họ đều có cùng động cơ—lòng ghen tức. Động cơ giết người là đây. Có hai người phụ nữ khác có dây dưa với John Christow.”
Ông ngừng một lúc rồi nói tiếp:
“Ông Christow có đến nhà Veronica Cray vào sáng hôm đó. Họ xảy ra cãi vã. Cô Cray có nói sẽ khiến ông Christow phải hối hận vì những gì đã làm, rằng cô ấy căm ghét ông ta hơn bất kỳ ai trên đời này.”
“Thú vị đây,” ông Poirot lẩm bẩm.
“Cô ấy từ Howllywood đến thẳng đây, theo như tôi đọc trên báo thì có tham gia chụp hình gì đó. Có thể cô ấy đến đây lấy cái áo lông cáo để quên ở nhà mát tối hôm trước. Có thể hai người họ gặp nhau, tranh cãi bùng lên, cô bắn ông bác sĩ, rồi nghe tiếng người tới, cô ấy chạy ngược lại theo lối đã đến.”
Ông ngừng lời, rồi bực bội nói tiếp:
“Tới đoạn này thì chuyện mới thành ra quái gở khó lường đây! Cái khẩu súng chết tiệt đó không khớp! Trừ khi là,” mắt ông sáng bừng, “cô bắn ông ta bằng súng riêng và để lại hiện trường khẩu súng đánh cắp từ thư phòng Sir Henry để đổ tội cho những người ở Thung Lũng. Hẳn cô ấy không biết về chuyện cảnh sát có thể nhận diện khẩu súng đã sử dụng thông qua ký hiệu trên rãnh xẻ nòng súng.”
“Có bao nhiều người sẽ biết được chi tiết đó chứ?”
“Theo lời Sir Henry thì nhiều người biết chuyện đó lắm, bởi nhiều truyện trinh thám cũng có nhắc tới mà. Ví dụ như quyển gần đây—Dấu vết từ cái vòi rỉ nước—mà Sir Henry kể John Christow có đọc vào hôm thứ Bảy vừa qua, trong đó có nhấn mạnh chi tiết này.”
“Nhưng Veronica Cray phải có cách gì mới lấy được súng từ thư phòng Sir Henry chứ.”
“Phải, như vậy là có dự mưu từ trước.” Ông thanh tra lại kéo râu, rồi nhìn ông Poirot. “Nhưng ông cũng có đề cập một khả năng khác, là cô Savernake. Và cảnh tôi thấy tận mắt, à không, phải nói là điều tôi nghe tận tại mới phải, là từ ‘Henrietta’ mà ông Christow nói khi hấp hối. Ông nghe được câu ấy, những người khác cũng vậy, riêng ông Angkatell thì chừng như nghe không rõ lắm.”
“Edward Angkatell không nghe rõ sao? Điểm này cũng thú vị đấy.”
“Nhưng những người khác đều nghe. Cô Savernake nói ông Christow cố gọi cô. Bà Angkatell nói ông ấy mở mắt, nhìn cô Savernake, rồi gọi: ‘Henrietta.’ Bà ấy không nói thêm chi tiết quan trọng nào liên quan tới việc đó.”
Ông Poirot mỉm cười. “Hẳn là vậy.”
“Vậy còn ông thì sao? Ông đã có mặt ở đó, nhìn tận mắt, nghe tận tai. Có phải ông Christow muốn nói với ông rằng chính Henrietta bắn ông ấy không? Nói ngắn gọn, câu ấy có nghe như lời buộc tội không?”
Ông Poirot chậm rãi đáp:
“Lúc đó tôi không nghĩ thế.”
“Nhưng giờ thì sao, ông Poirot?”
Ông Poirot thở dài, rồi nói tiếp, vẫn chậm rãi như thế:
“Cũng có thể. Tôi chưa nói gì thêm được. Chuyện ông hỏi tôi chỉ là ấn tượng trong thoáng chốc đó, rồi khi khoảnh khắc ấy đã qua, ta lại muốn tìm tòi từ sự việc những ngụ ý chưa hẳn đã có.”
Ông Grange vội nói:
“Tất nhiên, những điều này không ghi vào hồ sơ. Những điều ông suy luận không tính là bằng chứng, tôi biết chứ. Tôi chỉ muốn nghe ý kiến của ông thôi.”
“Tôi hiểu ý ông mà, ấn tượng từ những gì ta nhìn thấy cũng rất hữu ích. Nhưng tôi xấu hổ mà thừa nhận rằng ấn tượng của tôi chẳng có giá trị gì. Tôi có thể hiểu lầm, bị thuyết phục bởi bằng chứng bày ra trước mắt, rằng bà Christow vừa mới bắn chồng mình, do vậy khi ông Christow mở mắt và nói ‘Henrietta’ thì tôi không cho rằng đó là lời kết tội. Giờ nhìn lại, quả là tôi đã bị cuốn theo hiện trường và suy luận những điều chưa chắc xảy ra.”
“Tôi hiểu ý ông.” Ông Grange tiếp. “Nhưng nếu từ cuối cùng ông Christow nói là ‘Henrietta’ thì nó phải có ý nghĩa gì đó. Có thể là lời kết tội, có thể khác, do tình cảm chẳng hạn. Có thể ông Christow yêu cô ấy và gọi tên cô lúc lâm chung. Xét hết thảy những gì đã biết, ông nghiêng theo giả thiết nào?”
Ông Poirot thở dài, xoay trở, nhắm mắt rồi lại mở mắt, rồi xòe tay tỏ ý bực bội:
“Giọng ông ấy nghe rất cấp bách, theo tôi nghe thì vậy, cấp bách. Như thể không phải lời kết tội cũng không phải vì tình, nhưng có vẻ gấp gáp. Còn có một điều nữa tôi dám chắc, đó là ông Christow hoàn toàn tỉnh táo. Ông ấy nói, như một bác sĩ ra y lệnh trong ca phẫu thuật cấp cứu cho một người đang chảy máu sắp chết vậy.” Ông Poirot nhún vai. “Tôi chỉ giúp được đến thế.”
“Y khoa à?” Ông thanh tra hỏi lại, “Ừm, có thể đó là giả thiết thứ ba. Ông ấy bị bắn, cho rằng mình sắp chết, nên muốn người ta cấp cứu. Rồi như bà Angkatell thấy, cô Savernake là người đầu tiên ông ấy thấy khi mở mắt ra, thế nên ông ấy gọi tên cô. Nhưng lý giải như vậy nghe chưa thỏa đáng lắm.”
“Trong vụ này không có gì là thỏa đáng cả.” Ông Poirot chua chát nhận xét.
Hiện trường vụ giết người được dựng nên để đánh lừa Hercule Poirot, và đã đánh lừa được ông! Không, chẳng thỏa đáng chút nào.
Thanh tra Grange nhìn ra cửa sổ.
“Chào,” ông giới thiệu, “Đây là hạ sĩ Clark. Có vẻ anh ta tìm được manh mối gì đó. Anh ấy phụ trách phỏng vấn người hầu, khôn khéo lắm, lại còn đẹp trai, nên dễ được lòng phụ nữ.”
Hạ sĩ Clark hổn hển đi vào phòng. Anh ta có vẻ rất hài lòng về manh mối tìm được, nhưng vẫn cố giữ tác phong chuyên nghiệp.
“Tôi được biết ông ở đây, nên đến để báo cáo tình hình luôn, thưa ông.”
Anh ta do dự nhìn ông Poirot, dáng vẻ giống ngoại quốc của ông không có vẻ giống người trong ngành.
“Cứ nói đi,” thanh tra Grange lên tiếng. “Đừng ngại ông Poirot đây. Kinh nghiệm của ông ấy trong nghề còn xa cậu mới theo kịp.”
“Vâng thưa ông, như thế này. Cô phụ bếp nói rằng…”
Ông Grange ngắt lời cậu, đắc thắng quay sang nhìn ông Poirot.
“Tôi đã nói gì nào, luôn có manh mối từ cô phụ bếp. Thời này số người hầu trong nhà được cắt giảm nhiều, không ai còn nuôi cô phụ bếp nữa. Mấy cô ấy thích nói lắm, thế nhưng cứ phải nén mình trong bếp cạnh đầu bếp và mấy người hầu có vai vế hơn, nên hiển nhiên các cô sẵn lòng tuôn trào nếu có ai chịu khó lắng nghe. Nói tiếp đi, Clark.”
“Cô ấy nói rằng vào chiều Chủ nhật đó, cô ấy có thấy ông quản gia Gudgeon đi trên hành lang, tay cầm một khẩu súng lục.”
“Gudgeon sao?”
“Vâng,” Clark liếc vào sổ ghi chép. “Cô ấy nói nguyên văn thế này: ‘Tôi không biết phải làm gì, nhưng tôi nghĩ nên kể về điều mình thấy hôm đó. Tôi thấy ông Gudgeon đứng ở hành lang với khẩu súng trong tay. Lúc đó ông Gudgeon trông có vẻ khác thường.’”
Clark bình luận, “tôi cho rằng đoạn nhận xét ông Gudgeon khác thường không có nghĩa gì lắm, có thể cô ấy tự thêm thắt thế thôi. Nhưng tôi thiết nghĩ nên báo với ông ngay.”
Thanh tra Grange đứng dậy, vẻ tự tin của một người thấy việc phải làm và tin chắc mình làm được.
_“Gudgeon_ sao? Tôi sẽ đi nói chuyện với ông ta ngay bây giờ.”
← Bạn tôi (tiếng Pháp)