Tội Ác- CHương 01
MỞ ĐẦU
Thành phố Andhra Pradesh Ấn Độ
Người lái xe không chịu đưa ông đi xa hơn.
Cách đó một dặm, ngay sau khi họ vượt qua nhà máy hóa chất Bát Giác, vỉa hè đã nhường chỗ cho con đường bụi bặm. Lúc này, người lái xe càu nhàu là xe của anh ta đã bị cây bụi cào xước hết cả. Dạo này có mưa nên các vũng bùn khiến bánh xe bị sa lầy. Điều đó đã đưa họ đến nơi nào ? Phố Stranded, cách thành phố Hyderabad 150 cây số. Howard Redfield nghe những lời phàn nàn và biết rằng đó chỉ là sự dạo đầu cho lý do thật sự mà người lái xe không muốn đi tiếp. Chẳng ai dễ dàng thú nhận là mình nhát gan.
Không còn cách nào khác, Redfield phải đi bộ từ đoạn đó.
Ông trườn lên phía trước để nói vào tai người lái xe và liền ngửi thấy mùi mồ hôi của anh ta. Qua gương chiếu hậu, chỗ có những chuỗi vòng lạo xạo đang đung đưa, ông thấy đôi mắt đen sẫm của anh ta đang nhìn mình chằm chằm.
- Anh sẽ chờ tôi chứ ? Ở ngay chỗ này, trên đường - Redfield hỏi.
- Bao lâu ?
- Có lẽ một tiếng. Lâu đấy.
- Có cóc gì mà xem xét. Chẳng ai sống ở đây nữa đâu.
- Cứ chờ ở đây. Chờ đi rồi tôi sẽ trả anh gấp đôi khi về thành phố.
Redfield lấy ba lô, ra khỏi chiếc xe điều hòa và nhanh chóng lội xuống chỗ lầy lội. Ông đã không đeo ba lô từ hồi còn là một cậu sinh viên đại học, đi khắp châu Âu trên đôi giày vải.
Giờ, ông cảm thấy lạ là ở tuổi năm mươi mốt, lại tung tẩy ba lô trên đôi vai đã mềm nhão của mình. Nhưng ông sẽ rất khó chịu nếu đến bất cứ nơi ẩm thấp nào trên đất nước này mà không mang theo chai nước uống tinh khiết, thuốc chống côn trùng, kem chống nắng và thuốc tiêu chảy. Cả chiếc máy ảnh nữa, ông không thể bỏ quên.
Ông vã hết mồ hôi trong cái nóng của buổi chiều tối. Ông nhìn lên trời và nghĩ: Tuyệt ! Mặt trời đang lặn và tất cả bọn muỗi sẽ bay ra lúc chập tối. Bữa tối của chúng mày đây, lũ đáng nguyền rủa !
Ông đi xuống đường, cỏ cao che mất lối đi và ông giẫm vào một vũng nước khiến đôi ủng ngập trong bùn tới mắt cá chân. Rõ ràng là mấy tháng trời không có phương tiện nào đi lối này và thiên nhiên đã nhanh chóng chiếm lại địa hạt của mình. Ông dừng lại, thở dốc và đập lũ côn trùng. Ông quay lại và không thấy chiếc xe nữa. Điều này khiến ông khó chịu. Có tin được là người lái xe sẽ chờ ông không ? Phải khó khăn lắm anh ta mới đưa ông xa mức này và càng lo lắng hơn khi họ bị xóc nẩy lên như phi ngựa trên con đường ngày càng xóc. Ở đây toàn bọn người xấu, anh ta nói vậy, rồi những chuyện khủng khiếp đã xảy ra ở chốn này. Họ có thể biến mất và ai thèm quan tâm đi tìm họ ?
Redfield bấm chân đi tiếp.
Không khí ẩm như vây lấy ông. Ông nghe thấy tiếng chai nước óc ách trong ba lô. Tuy khát nước nhưng ông không dừng lại để uống. Trời mới sáng được gần một tiếng, ông phải đi tiếp. Lũ côn trùng vo ve trong đám cỏ và ông nghe thấy tiếng gì như tiếng chim hót trên tán cây quanh ông nhưng nó không giống bất cứ tiếng hót ông đã từng nghe trước đây. Mọi thứ ở miền quê này thật lạ và kỳ quái. Ông rơi vào trạng thái như đang ngủ mơ, mồ hôi chảy xuống ngực. Nhịp thở của ông tăng dần theo mỗi bước đi. Theo bản đồ thì chỉ còn một dặm rưỡi nữa nhưng ông thấy như mình đi trong vô tận. Lớp kem chống côn trùng còn mới cũng không thể xua lũ muỗi. Tai ông đầy những tiếng vo ve còn mặt ông biến thành một cái tổ ong, đau điếng.
Ông ngã vào một vết lún sâu khác và khuỵu gối xuống cỏ. Ông gạt một đám bụi cây rồi bò trên đó, lấy lại hơi. Ông quá chán nản và kiệt sức đến nỗi ông quyết định đã đến lúc quay trở lại, phải bắt chuyến bay trở về Cincinnati với đôi chân dính vào nhau. Nói cho cùng thì sự hèn nhát vẫn là an toàn hơn cả, dễ chịu hơn cả.
Ông thở dài, ấn chặt tay xuống đất đẩy mình đứng lên. Ông lặng yên, nhìn đám cỏ. Có vật gì đó lấp lánh giữa những cọng cỏ xanh, một thứ bằng kim loại. Nó chỉ là một chiếc cúc áo bằng thiếc rẻ tiền nhưng vào lúc này nó khiến ông nhận ra một dấu hiệu. Một loại bùa chú. Ông thả nó vào túi áo, đứng lên và đi tiếp.
Chỉ cách đó vài mét, con đường bỗng dẫn đến một khoảng đất trống rỗng, bao quanh là những cây cao. Một khối gì đó đứng lù lù ở góc xa, một tòa nhà bằng gỗ than cháy dở với mái bằng thiếc múi. Những cành cây ngổn ngang và cỏ đung đưa trong làn gió nhẹ.
Chính nơi này rồi, ông nghĩ. Đây là nơi việc đó đã xảy ra.
Đột nhiên ông thở gấp. Tim đập mạnh, ông tuột ba lô xuống, mở nó ra và lấy máy ảnh. Phải ghi lại mọi việc, ông nghĩ. Lầu Năm Góc sẽ cố gắng biến người ta thành một kẻ nói láo. Họ sẽ làm mọi việc để làm mất danh dự của người khác nên phải cảnh giác để tự bảo vệ mình. Phải chứng minh là mình đang nói sự thật.
Ông đi về khu đất trống, về những đống cành cây cháy đen thui. Ông lấy giày đá những thanh củi, lục tung đống gỗ. Ông lui lại, một cơn ớn lạnh trườn khắp sống lưng.
Đây là phần còn lại của một giàn thiêu.
Bàn tay vã mồ hôi, ông lấy ống kính ra và bắt đầu chụp ảnh. Mắt đặt vào ống ngắm, ông chụp hết bức này đến bức khác. Phần còn lại của một ngôi lều cháy dở. Một chiếc giày trẻ con nằm trên cỏ. Một mảnh vải sáng màu được xé ra từ váy quần. Nơi nào ông cũng thấy sự chết chóc.
Ông lia sang phải, một mảnh thảm thêu màu xanh lục lướt qua ống kính của ông. Ông định chụp một tấm khác thì những ngón tay ông cứng lại trên nút bấm.
Một cái bóng lướt nhanh qua mép ống kính.
Ông hạ máy ảnh xuống, đứng thẳng lên và nhìn những cái cây. Giờ ông chẳng thấy gì, ngoài những cành cây đang đưa đi đưa lại.
Đó... một cái bóng chuyển động ở ngay tầm mắt của ông ?
Ông chỉ thoáng thấy thứ gì đó sẫm màu, ẩn nấp sau những cái cây. Một con khỉ chăng ?
Ông lại chụp tiếp. Ánh sáng đang tàn nhanh.
Ông đi qua một chiếc giếng đá, qua tòa nhà mái thiếc, quần dính vào cỏ. Ông vừa đi vừa nhìn sang hai bên. Những cái cây dường như có mắt và chúng đang nhìn ông, khi lại gần tòa nhà ông thấy những bức tường bị lửa đốt cháy sém. Trước lối vào là một đống tro bụi và cành cây đen xì. Một giàn thiêu khác.
Ông đi quanh nó, nhìn vào, đầu tiên ông hầu như không thể nhìn thấy những gì bên trong. Ánh sáng ban ngày tàn đi quá nhanh; bên trong, thậm chí còn tối hơn, chỉ là những mảng màu đen và sáng; ông dừng lại khi mắt đã thích nghi. Mỗi thứ ông chứng kiến ngày càng làm ông hoảng loạn, ông nhìn thấy một chút nước ngọt trong một cái bình bằng đất nung. Mùi của hương liệu sao có thể như vậy nhỉ ?
Sau lưng ông một cành cây bị gãy.
Ông quay đầu lại.
Một bóng đen duy nhất đang đứng ở khu đất trống. Xung quanh cây cối im phăng phắc, cả lũ chim cũng ngừng hót. Bóng đen tiến lại gần về phía ông, di chuyển với một điệu bộ nhát ngừng, cho tới khi nó điứng chỉ cách ông chưa tới một mét.
Máy ảnh tuột khỏi tay Redfield (bạn nên nhớ cái tên này, vì nó sẽ xuất hiện trong truyện khá mờ nhạt). Ông quay đi một cách sợ hãi.
Đó là một phụ nữ. Cô ta không có khuôn mặt.
Chương một
Người ta gọi cô là Nữ Hoàng Thần Chết.
Dù không ai dùng tên đó trước mặt cô nhưng bác sĩ Maura Isles đôi khi nghe thấy biệt danh đó một cách thoáng qua khi cô đi qua tam giác công việc của mình: tòa án, hiện trường vụ án và nhà xác. Có lúc cô còn nhận ra sự châm biếm cay nghiệt: Ha ha, cô ta đến kìa, Nữ thần của chúng ta đã đến đây để thu lượm những vật thể bằng thịt. Những lời xì xào mang giọng điệu run rẩy và ghê sợ, giống như những lời bàn tán của những kẻ sùng đạo. Đó là sự ghê sợ của những ai không thể hiểu nổi tại sao cô lại chọn con đường của Thần chết. Họ băn khoăn, tại sao cô lại thích điều đó ? Việc chạm vào da thịt lạnh ngắt, mùi thối của sự phân hủy có sức hấp dẫn với cô mức nào mà cô lại quay lưng lại với những người còn sống ? Họ nghĩ điều đó thật bất thường, họ nhìn theo cô một cách khó chịu và xoi mói những chi tiết củng cố niềm tin của họ rằng cô là một kẻ quái dị. Da trắng ngà, tóc đen với kiểu đầu thẳng như nữ hoàng Cleopatra. Đường son môi màu đỏ. Liệu có ai khác tô son khi đến hiện trường không ? Và trên hết, sự bình tĩnh của cô khiến họ khó chịu, cái nhìn vương giả lạnh lùng của cô khi cô điều tra những thứ đáng sợ mà họ không thể chịu nổi. Khác với họ, cô không ngoảnh đi mà cúi sát xuống, nhìn chăm chú và sờ nắn. Cô còn ngửi nữa - trên những cái xác.
Sau đó, dưới bóng đèn sáng trưng trong phòng khám nghiệm tử thi, cô cắt mổ.
Giờ đây cô đang mổ. Con dao cắt xuyên qua lớp da lạnh, qua lớp mờ dưới da đã hơi có màu vàng bóng. Một người thích bánh kẹp thịt và đồ rán, cô nghĩ vậy khi dùng những chiếc kéo lớn để cắt qua xương sườn và lật lớp bảo vệ hình tam giác của xương ức, như thể người ta mở cánh tủ bát đĩa làm lộ ra những thứ quý giá bên trong.
Quả tim nằm gọn giữa hai lá phổi xốp. Trong suốt năm mươi chín năm, nó đã bơm máu đi khắp cơ thể ngài Samuel Knight. Nó đã lớn lên cùng ông ta, thoái hóa cùng ông ta và chuyển từ các cơ bắp của thời trai trẻ thành đám thịt đầy mỡ. Cuối cùng, nó không còn bơm máu được nữa và ông Knight cũng không thể trụ được khi ông ngồi trong khách sạn Boston của mình với chiếc vô tuyến đang mở và một cốc rượu whiskey lấy từ quầy rượu nhỏ gần bàn ở đầu giường.
Cô không dừng lại để suy nghĩ xem những cảm xúc cuối cùng của ông ta là gì, liệu ông ta thấy đau đớn hay sợ hãi. Mặc dù cô đã khám phá những phần nằm sâu nhất, đã mở phanh lớp da và cầm quả tim của ông ta trong tay thì ông Knight vẫn xa lạ với cô, một người trầm tĩnh và không đòi hỏi, luôn sẵn sàng tìm ra các bí mật. Người chết vốn kiên nhẫn. Họ không phàn nàn, không đe dọa và cũng chẳng tâng bốc ai.
Người chết không làm người ta tổn thương, chỉ người còn sống mới làm vậy.
Cô làm việc hiệu quả rõ rệt, cắt bỏ phần nội tạng và đặt quả tim tách rời trên bàn mổ. Bên ngoài, những bông tuyết đầu tiên của tháng mười hai đang xoay trong không gian. Những bông tuyết trắng đập nhẹ vào cửa sổ và rơi xuống lối đi. Nhưng trong căn phòng này chỉ có tiếng nước chảy và tiếng kêu của quạt thông gió. Trợ lý của cô, anh Yoshima, đi lại trong sự im lặng kỳ lạ, chờ mệnh lệnh của cô và đưa cô bất cứ thứ gì cô cần. Họ làm việc cùng nhau mới được năm rưỡi nhưng đã ăn ý như một hệ thống dây truyền. Được liên kết bởi thần giao cách cảm của hai bộ óc. Cô không yêu cầu anh chỉnh lại đèn. Nó đã được chỉnh, đèn soi vào quả tim đang nhỏ máu, một chiếc kéo được sắp sẵn, chỉ chờ cô cầm nó lên.
Vách tâm thất có màu đậm và một vết sẹo màu trắng trên đỉnh cho cô biết câu chuyện đáng buồn về quả tim này. Một cơn đau tim đột ngột đã hủy hoại một phần vách tâm thất. Trong khoảng hai mươi bốn giờ qua, một cơn nhồi máu đã xảy ra. Cục máu tụ làm tắc động mạch vành phải, làm tắc mạch máu tới cơ ở tâm thất phải. Cô tách mô để nghiên cứu về mô học và biết trước mình sẽ nhìn thấy gì dưới kính hiển vi. Các bạch cầu đã xâm chiếm và di chuyển như một đội quân bảo vệ. Có lẽ ông Samuel Knight đã cho rằng cơn đau tim của ông ta là chứng khó tiêu hóa. Ông ta ăn trưa quá nhiều, đáng lẽ ông ta không nên ăn hết chỗ hành đó. Có lẽ thuốc Pepto-Bosmot đã chơi xỏ ông ta. Hoặc có lẽ ông ta đã coi thường những điềm xấu: tim ông ta trở nên nặng nề hơn, hơi thở gấp gáp. Chắc chắn ông ta không nghĩ rằng ông ta bị một cơn đau tim.
Một ngày sau ông ta chết vì chứng loạn nhịp tim.
Giờ quả tim nằm trên khay, bị mổ phanh và bị cắt thành nhiều phần. Cô nhìn cái xác đã không còn các bộ phận. Vậy là kết thúc chuyến công tác của ông ta tới thành phố Boston, cô nghĩ, không có gì ngạc nhiên ở đây. Không có âm mưu nào, trừ việc ông ta đã quá lạm dụng cơ thể mình, ngài Knight ạ !
Máy bộ đàm rung.
- Bác sĩ Isles ? - Đó là Louise, thư ký của cô.
- Gì vậy ?
- Thám tử Rizzoli đang chờ điện thoại của cô. Cô nghe điện chứ ?
- Tôi sẽ nghe.
Maura tháo găng tay, tới chỗ điện thoại treo trên tường. Yoshima rửa các dụng cụ trong bồn rồi tắt vòi nước. Anh ta quay lại nhìn cô bằng cặp mắt yên lặng của một con cọp và biết cuộc gọi đó là của Rizzoli.
Cuối cùng, khi Maura gác máy, cô thấy sự dò xét trong ánh mắt anh ta.
- Việc xảy ra sáng sớm hôm nay - cô thông báo. Rồi cô tháo áo choàng nhà xác để đối đầu với một vụ mới trong lãnh địa của riêng cô.
***
Những bông tuyết buổi sáng đã biến thành một thứ hỗn họp dễ đánh lừa người đi đường, không thấy máy xóc tuyết của thành phố đâu. Maura lái xe cẩn thận trên đại lộ Jamaica Riverway, bánh xe nghiến trên những chỗ lún sâu, cần gạt kính chắn gió đưa đi đưa lại liên tục trên mặt kính. Đây là trận bão mùa đông đầu tiên trong năm và các lái xe vẫn chưa kịp thích nghi với điều kiện thời tiết này. Một vài vụ tai nạn đã xảy ra trên đường, cô đi qua chiếc xe tuần tra đang đỗ, đèn của nó nhấp nháy. Cảnh sát tuần tra đang đứng bên cạnh một lái xe tải, cả hai đang nhìn chiếc xe hơi đã đâm xuống mương nước.
Những bánh xe Lexus của cô bắt đầu trượt sang bên đường. Phần mui xe lao vào đám xe cộ đi ngược chiều. Cô hoảng loạn, cảm thấy bộ phận điều khiển xe tự động đã được kích hoạt. Cô lái xe sang vào đúng làn đường. Chết tiệt thật, cô nghi và tim đập mạnh, mình đang đi về phía California. Cô điều khiển xe chậm lại như đang bò, không thèm để ý ai bấm còi phía sau hay cô đã làm ùn tắc bao nhiêu xe cộ. Vượt lên đi, vượt lên đi, đồ ngu ! Tôi đã gặp quá nhiều tay lái xe như các người trong phòng mổ của tôi rồi.
Con đường đưa cô đến Jamaica Plain, giáp phía tây Boston với những tòa lâu đài cổ kính và những đồng cỏ mênh mông, những công viên và bờ sông yên ả. Vào mùa hè, đây sẽ là nơi nghỉ ngơi thư giãn khỏi tiếng ồn và bụi bặm của thành phố Boston. Nhưng hôm nay, dưới bầu trời đầy vẻ đe dọa, gió thổi qua những cánh đồng trống không thì nó biến thành một nơi cô quạnh.
Địa chỉ mà cô tìm kiếm dường như bị ngăn cách với cuộc sống ồn ào bên ngoài, tòa nhà lùi sâu sau một bức tường cao, trên đó lớp băng đã phủ kín. Một hàng rào ngăn cách tòa nhà với thế giới bên ngoài, cô nghĩ. Từ ngoài đường, tất cả những gì cô có thể thấy là những ngọn tháp theo kiểu gô-tic của mái nhà lợp ngói đen và ô cửa tháp hình tam giác đang nhìn chòng chọc về phía cô như những con mắt đen tối. Một chiếc xe tuần tra đỗ gần cổng trước, chứng tỏ cô đã tìm đúng địa chỉ, có vài chiếc xe khác đến trước - đây là đội xe khẩn cấp trước khi các chuyên gia nghiên cứu hiện trường đến.
Maura đỗ xe ngang đường và đi ngược lại trước đợt gió đầu tiên, khi bước ra khỏi xe, giày cô bị trượt và cô không thể giữ thăng bằng, phải bám vào cửa xe. Khi đã đứng lại được, cô cảm thấy nước băng chảy xuống lòng bàn chân từ mép áo khoác. Cô đứng đó một lúc, cái lạnh làm mặt cô nhói buốt.
Cô đảo mắt nhanh sang bên kia đường, nơi một cảnh sát tuần tra đang đứng cạnh chiếc xe, anh ta nhìn cô và chắc là đã thấy cô bị trượt chân. Sự kiêu hãnh của cô bị tổn thương, cô vơ lấy dụng cụ ở ghế trước, đóng mạnh cửa xe và đi tới bằng tất cả lòng tự trọng của mình, cô bước qua con đường trơn trượt.
- Cô ổn chứ, bác sĩ ? - Viên cảnh sát nói với ra qua cửa xe, một sự quan tâm cô không thực sự muốn.
- Không sao.
- Cẩn thận với đôi giày đó nhé ! Trong sân còn trơn hơn đấy.
- Thám tử Rizzoli đâu ?
- Họ đang ở trong nhà thờ.
- Nó ở đâu ?
- Nó không lẫn đi đâu được. Cửa có dấu thập lớn đó.
Cô đi về phía cổng trước nhưng thấy nó bị khóa. Một cái chuông sắt được treo trên tường, cô giật dây chuông, những tiếng kêu thời trung đại dần tan vào những tiếng nhỏ giọt êm hơn - tiếng tuyết rơi. Ngay dưới chiếc chuông là một tấm biển khắc chữ bằng đồng. Chữ khắc trên đó đã phần nào bị mờ đi bởi vệt băng màu nâu.
Tu viện đá xám
Các bà sơ đáng kính của Ánh sáng Linh thiêng.
"Mùa mưa thực sự rất tốt nhưng có ít nhân lực.
Vì vậy hãy cầu nguyện để đưa thêm nhân công tới nơi thu hoạch"
Bên kia cánh cổng, một người phụ nữ vận đồ đen thình lình xuất hiện. Bà ta xuất hiện nhẹ nhàng đến nỗi Maura giật thót khi cô thấy khuôn mặt đó nhìn chằm chằm vào cô qua các song sắt. Đó là một khuôn mặt già nua, các nếp nhăn sâu như những rãnh nước.
Cánh cổng mở ra kêu cót két.
Maura bước vào sân trong.
- Tôi đang tìm bác sĩ Rizzoli, tôi nghĩ rằng cô ấy ở trong nhà nguyện.
Bà sơ chỉ thẳng qua sân. Rồi bà ta quay đi, chầm chậm bước vào lối đi gần nhất, bỏ lại Maura tự tìm đường đến nhà nguyện.
Những bông tuyết lượn vòng quanh và nhảy múa giữa những lớp tuyết tan ra như những con bướm trắng lượn quanh những người bạn chân chì. Đường ngắn nhất là đi ngang qua sân nhưng những viên đá đã phủ đầy băng và đôi giày đế trơn của Maura không hợp với bề mặt như vậy. Thay vào đó, cô lần mò lối đi nhỏ ở bên dưới. Nó chạy dọc theo đường bao quanh sân. Mặc dù tránh được tuyết tan ở đây nhưng cô không tránh được cơn gió đang lùa qua áo khoác. Cái lạnh khiến cô ngỡ ngàng, nó nhắc nhở cô tháng mười hai ở Boston có thể khắc nghiệt mức nào. Phần lớn thời gian của mình, cô sống ở Sanfancisco, nơi chỉ có một bông tuyết nhỏ đã là niềm vui thích hiếm hoi, chứ không gây phiền toái, giống như những lá tầm ma nhói buốt này đang xoay trên không để đâm vào mặt cô. Cô đi lại gần tòa nhà hơn và ôm chặt áo khi đi qua những ô cửa tối tăm. Ở ngoài cổng vọng lại âm thanh ầm ì của xe cộ trên đại lộ Jamaica. Nhưng ở đây trong bốn bức tường cô chỉ thấy sự tĩnh lặng.
Trừ bà sơ đã cho cô vào, nơi này dường như đã bị bỏ hoang.
Vì vậy cô rất ngạc nhiên khi thấy ba khuôn mặt đang nhìn cô chòng chọc từ một trong các ô cửa. Các nữ tu đứng yên lặng như những con ma vận áo choàng đen sau tấm kính để xem kẻ xâm nhập đi sâu vào thánh địa của họ. Ánh mắt họ cùng lúc di chuyển và bám theo cô khi cô đi qua.
Lối vào nhà nguyện được chăng dây ngăn hiện trường màu vàng đã trũng xuống ở lối vào và dính đầy băng tuyết. Cô nâng dải băng lên, bước bên dưới, đẩy cửa ra.
Ánh đèn máy ảnh đập vào mắt. Cô đứng yên, cánh cửa từ từ kêu và đóng lại sau lưng cô. Cô chớp mắt để xua hết những dư ảnh đã in lên võng mạc. Khi tầm nhìn đã rõ trở lại, cô thấy những hàng ghế gỗ, những bức tường trắng phau. Trước nhà nguyện, cây thánh giá lớn được treo ngay trên bàn nguyện. Đó là một căn phòng đơn sơ, lạnh lẽo. Sự ảm đạm của nó càng được tôn thêm bởi những ô cửa sổ bằng kính màu. Chúng chỉ cho ánh sáng lờ mờ lọt vào.
- Đứng ngay đó. Cẩn thận bước chân đấy ! - Người chụp ảnh nói.
Maura nhìn xuống sàn nhà bằng đá và thấy máu. Có nhiều dấu chân — một tập hợp hỗn loạn cùng với những mảnh thiết bị y tế. Các đầu ống xi-lanh và các băng quấn bị xé rách. Những gì còn sót lại của đội cứu thương. Nhưng không có ai cả.
Anh mắt cô đảo một vòng lớn hơn và thấy một mảnh vải trắng trên lối đi, các vết máu văng lên các hàng ghế. Cô thấy hơi thở của chính mình trong nhà nguyện lạnh lẽo. Nhiệt độ có vẻ như hạ thấp hơn khi ở trong này. Sự ớn lạnh của cô càng tăng khi cô nhìn thấy dấu máu, thấy hàng loạt vết máu văng lên những hàng ghế và hiểu chuyện gì đã xảy ra ở đây.
Người chụp ảnh bắt đầu chụp thêm, mỗi lần như vậy là một sự tra tấn đối với đôi mắt của Maura.
- Này, bác sĩ ? - Phía trước nhà nguyện, một mớ tóc đen xuất hiện, thám tử Jane Rizzoli đứng lên vẫy tay - Nạn nhân ở đằng này.
- Còn các vết máu ở đây, trên sàn thì sao ?
- Đó là của một nạn nhân khác, sơ Ursula. Các nhân viên đội cấp cứu đã đưa bà ấy đến bệnh viện St, Francis. Có thêm vết máu dọc các dãy ghế. Chúng tôi đang cố giữ vài dấu chân vì vậy cô nên đi vòng sang bên trái. Đi sát vào tường nhé !
Maura dừng lại đeo giấy bọc giày rồi đi sát vào mép phòng, bám chặt vào tường. Chỉ khi đi qua các hàng ghế đầu, cô mới thấy thi thể một tu sĩ, nằm sấp, bộ lễ phục nhuộm trong vũng máu. Cả hai tay tu sĩ đã được cho vào túi để giữ gìn vật chứng. Sự trẻ trung của nạn nhân khiến Maura ngạc nhiên. Bà sơ cô gặp ở cổng và những sơ cô thấy trên cửa sổ đều già nua. Cô gái này trẻ hơn nhiều. Đó là một khuôn mặt thanh tú, đôi mắt xanh lơ nhợt nhạt có một vẻ gì đó khiếp sợ. Đầu cô để trần, mái tóc vàng được cắt ngắn chưa đầy ba phân. Mỗi cú đánh khủng khiếp được ghi lại trên hộp sọ bị vỡ toác, đỉnh đầu đã bị mất một nửa.
- Tên cô ấy là Camille Maginnes, sơ Camille. Quê: Hyannisport - Rizzoli nói với vẻ kiểu cách và rất công việc - Cô ấy là người mới tu duy nhất mà họ có trong mười lăm năm trở lại đây. Họ dự kiến cho cô ấy thực hiện lời thề cuối cùng vào tháng năm này.
Cô dừng lại và nói thêm.
- Cô ấy mới hai mươi tuổi - sự giận dữ của Rizzoli thể hiện rõ ra bên ngoài.
Cô ấy trẻ quá.
- Đúng vậy. Có vẻ như hắn đã giết chết thời thiếu nữ của cô ấy.
Maura đeo găng tay, quỳ xuống để kiểm tra những tổn thương. Vũ khí giết người đã để lại các vết nứt lớn trên hộp sọ. Các mảnh xương vụn đâm xuyên qua da bị xé rách và một khối chất màu xám bị thòi ra. Dù da mặt phần lớn vẫn nguyên vẹn, nó đã chuyển thành màu tím sẫm.
- Cô ấy chết úp mặt xuống. Ai đã lật cô ấy lên ?
- Bà sơ tìm thấy cô ấy - Rizzoli nói - Họ đã bắt mạch.
- Nạn nhân được tìm thấy lúc mấy giờ ?
- Gần tám giờ sáng nay - Rizzoli nhìn đồng hồ đeo tay - Cách đây gần hai tiếng.
- Cô biết chuyện gì xảy ra không ? Các bà sơ đã nói gì với cô ?
- Thật khó để khai thác một thông tin hữu ích từ họ. Họ chỉ còn lại mười bốn người và tất cả đều trong tình trạng kinh hãi. Họ nghĩ ở đây họ sẽ được an toàn, được Chúa bảo vệ. Rồi một kẻ điên loạn đã xâm nhập vào đây.
- Có dấu hiệu nào của việc đột nhập không ?
- Không. Chẳng khó khăn lắm để đột nhập vào khu này. Băng đã bám khắp các bức tường - cô có thể nhảy ngay qua mà không có khó khăn gì. Có một cổng sau dẫn ra cánh đồng, chỗ có khu vườn. Kẻ giết người có thể vào lối đó.
- Các dấu chân thì sao ?
- Có vài dấu chân ở đây. Nhưng bên ngoài hầu hết đã bị tuyết xóa hét.
- Vậy là ta không biết hắn có thực sự đột nhập hay không. Hắn có thể đã được cho vào qua cửa trước.
- Đó là một lệnh cấm của tu viện, bác sĩ ạ. Không ai được phép vào bên trong cổng, trừ cha xứ khi ông ta vào làm lễ và nghe xưng tội. Có một chị làm việc tại nhà của mục sư. Họ cho phép chị ấy đem đứa con nhỏ theo khi chị ấy không thể chăm sóc nó. Nhưng mọi chuyện là thế đấy. Không ai khác được vào mà không có sự đồng ý của bà Trưởng tu viện. Các bà sơ ở bên trong. Họ chỉ rời tu viện khi gặp bác sĩ và khi nhà có việc gấp.
- Đến giờ thì những ai đã nói chuyện với cô ?
- Bà trưởng tu viện, sơ Mary Clement và hai bà sơ đã tìm thấy nạn nhân.
- Họ nói với cô điều gì ?
Rizzoli lắc đầu.
- Không thấy gì. Không nghe gì. Tôi nghĩ là những người khác cũng chẳng cho ta biết gì hơn.
- Sao không ?
- Cô thấy họ già thế nào chưa ?
- Điều đó không có nghĩa là họ không có trí khôn để biết việc đó.
- Một trong số họ đã bị ốm yếu sau cơn đột quỵ, hai trong số họ bị bệnh run tay chân. Hầu hết họ đều ở trong những phòng ngủ quay theo hướng ngược lại với sân nên họ không thấy gì cả.
Đầu tiên, Maura cúi xuống xác của Camille, không chạm vào nó. Cô nhìn nạn nhân với sự kiêu hãnh trong những phút cuối cùng. Giờ thì chẳng có gì có thể làm cô ấy đau được nữa, cô nghĩ. Cô bắt đầu sờ nắn xác chết và cảm thấy nhiều mảnh xương vỡ vụn chuyển động dưới lớp da. Nhiều cú đánh. Tất cả đều tập trung ở phần đỉnh đầu hay phần sau hộp sọ.
- Còn phần thâm tím ở mặt thì sao ? Nó chỉ tím bầm phải không ?
- Đúng vậy.
- Như vậy các cú đánh đi từ phía sau và phía trên.
- Kẻ tấn công có lẽ cao hơn.
- Hoặc cô ta khụy xuống và hắn đứng cao hơn - Maura dừng lại, tay cô chạm vào phần thịt lạnh cóng và bị xúc động bởi hình ảnh đáng thương của tu sĩ trẻ tuổi này, người đã quỳ gối trước kẻ tấn công và những cú đánh giáng như mưa xuống phần đầu quấn khăn của cô.
- Kẻ khốn nào có thể rình rập để tấn công các sơ như thế chứ ? Chuyện chết tiệt gì đang xảy ra với thế giới này vậy ? - Rizzoli bực bội.
Maura nhăn mặt vì cách dùng từ của Rizzoli. Dù cô không thể nhớ lần cuối cô đặt chân vào nhà thờ là khi nào, cô đã không tin vào nó cách đây nhiều năm nhưng việc nghe thấy những lời khiếm nhã ở nơi linh thiêng này làm cô khó chịu. Sự giáo dục lúc còn nhỏ đã ngấm sâu vào cô. Dù các vị thánh và điều kì diệu với cô chỉ là ảo tưởng nhưng cô không bao giờ chửi thề khi nhìn thấy dấu thánh.
Chắc là Rizzoli quá giận dữ nên không quan tâm đến những lời buột khỏi miệng cô, dù là ở nơi linh thiêng này. Tóc cô rối hơn mọi khi. Đó là một mớ tóc đen, hoang dại, lấp lánh băng tuyết. Xương gò má cô nhô lên thành một góc sắc cạnh dưới nước da xanh xao. Trong sự tối tăm của nhà nguyện, ánh mắt cô như những ánh lửa, cháy trong đó sự tức giận. Sự tức giận mạnh mẽ luôn luôn là sức mạnh của Rizzoli, là bản chất khiến cô đi săn những con quỷ. Dù hôm nay cô có vẻ vàng vọt, gầy hơn nhưng ngọn lửa ấy đã cháy lên từ bên trong.
Maura không muốn thêm dầu vào lửa. Cô giữ cho giọng mình có vẻ lãnh đạm, các câu hỏi mang tính chất công việc. Đó là một nhà khoa học đang giải quyết với thực tế, chứ không phải những cảm xúc.
Cô cầm cánh tay sơ Camille, kiểm tra khớp tay.
- Nó mềm nhũn. Chưa có sự đông cứng xác.
- Vậy thì không đến năm hay sáu giờ phải không ?
- Ở đây cũng lạnh nữa.
Rizzoli khịt mũi, thở ra một làn khí trắng trong không khí.
- Không đùa đâu.
- Chỉ hơn mức đóng băng, tôi nghĩ vậy. Quá trình cứng xác sẽ bị trì hoãn.
- Bao lâu ?
- Gần như mãi mãi.
- Còn mặt cô ấy thì sao ? Các vết tím bầm có sẵn à ?
- Xác còn mềm, có thể duy trì trong nửa giờ nữa. Nó không giúp chúng ta nhiều trong việc tìm ra giờ cô ấy chết.
Maura mở hộp dụng cụ, lấy ra nhiệt kế để đo nhiệt độ môi trường. Cô nhìn nhiều lớp quần áo của nạn nhân và quyết định không đo nhiệt kế trực tràng cho tới khi thi thể đã được đưa đến nhà xác. Căn phòng này không đủ sáng nên không phải là nơi cô có thể phát hiện ra việc cưỡng hiếp căn cứ vào việc dùng nhiệt kế. Việc cởi bỏ quần áo cũng có thể là cớ để bị đuổi ra. Thay vào đó, cô lấy xi-lanh ra để hút chất lỏng trong suốt ở các cấp độ kali khác nhau. Điều đó sẽ cho phép cô ước tính thời gian xảy ra án mạng.
- Cho tôi biết về nạn nhân kia đi - Maura nói khi cô đâm kim vào mắt trái nạn nhân, từ từ hút dịch trong vào xi-lanh.
Rizzoli phát ra tiếng rên khó chịu khi nhìn thấy việc đó và quay đi.
- Nạn nhân được tìm thấy gần cửa là sơ Ursula Rowland. Đó chắc chắn là một con chim già dai sức. Họ nói bà ấy đã cử động tay khi họ đưa bà ấy vào xe cứu thương. Frost và tôi ở đây khi họ đi rồi.
- Bà ấy bị thương nặng không ?
- Tôi không thấy bà ấy. Bản báo cáo cuối cùng chúng tôi có từ bệnh viện St. Francis là giờ bà ấy đang ở phòng mổ. Có nhiều vết nứt trên hộp sọ và việc cki hảy máu trong não.
- Giống nạn nhân này à ?
- Đúng. Như Camille - Sự giận dữ trở lại trong giọng nói của Rizzoli
Maura đứng lên, run lẩy bẩy. Quần cô đã bị ngấm nước băng từ mép áo khoác chảy xuống. Cặp chân cô cứng đơ vì băng lạnh. Cô được thông báo trên điện thoại là vụ án xảy ra trong nhà nên cô không mang theo khăn quàng hay găng tay ở trong xe. Căn phòng không được sưởi ấm này còn không ấm bằng ngoài sân. Cô thọc hai tay vào túi áo và băn khoăn không biết làm thế nào mà Rizzoli không quàng khăn hay đeo găng tay lại có thể nán lại lâu như vậy trong nhà nguyện này. Rizzoli dường như mang trong mình một nguồn nóng ấm, một cơn giận dữ. Dù môi cô đã chuyển sang màu tím, cô vẫn có vẻ không vội để tìm một căn phòng ấm áp sớm hơn.
- Sao ở đây lạnh vậy ? - Maura hỏi - Tôi không thể hình dung là họ sẽ tổ chức lễ cầu nguyện ở đây.
- Không, họ không làm vậy. Phần này của tòa nhà không bao giờ được sử dụng trong mùa đông... quá đắt đỏ để sưởi ấm nó. Ở đây còn ít người sống. Nên vào dịp cầu nguyện, họ sử dụng một nhà nguyện nhỏ trong nhà của linh mục.
Maura nghĩ về ba bà sơ cô thấy qua cửa sổ, tất cả bọn họ đều già nua. Các bà sơ đang sống trong khiếp sợ và tắt dần từng người một.
- Nhà nguyện này không được dùng - cô nói - vậy những nạn nhân này làm gì ở đây ?
Rizzoli thở dài, hơi thở của cô biến thành một vệt nước dài hình con rồng.
- Không ai biết cả. Bà trưởng tu viện nói lần cuối cùng bà ấy thấy sơ Ursula và cô Camille là ở nhà nguyện đêm qua, tầm chín giờ. Khi họ không có mặt tại buổi nguyện sáng nay, các bà sơ đã đi tìm. Họ không nghĩ là sẽ tìm thấy hai người ở đây.
- Tất cả những cú đánh đều giáng xuống đầu cô ấy. Có vẻ như đây là một cơn thịnh nộ cực điểm.
- Nhưng nhìn mặt cô ấy xem ! - Rizzoli nói và chỉ vào Camille - Hắn không đánh vào mặt cô ấy. Hắn chừa mặt cô ấy ra. Điều đó khiến việc này không có vẻ riêng tư. Có thể hắn không đập cô ấy vào một chỗ cụ thể mà đánh vì cô ấy đã có mặt ở đó. Vì thứ mà cô ấy tượng trưng cho.
- Quyền lực ư ? - Maura hỏi - Hay sức mạnh ?
- Thật buồn cười. Tôi sẽ nói một thứ gì đó nằm trong chuỗi niềm tin, hy vọng và sự từ thiện.
- Ô, tôi đã theo học trường cấp hai Đạo thiên Chúa.
- Cô á ? - Rizzoli khịt mũi - Tôi chẳng bao giờ đoán được điều đó.
Maura hít sâu luồng khí lạnh, nhìn lên cây thánh giá và nhớ lại những năm ở Học viện Các con chiên thần thánh. Cô nhớ những trò tra tấn điển hình của sơ Magdalene dạy môn lịch sử. Sự trừng phạt không phải về thể xác mà về tinh thần, được đề ra bởi một phụ nữ nhanh chóng xác định được các cô gái, theo bà ta, có một sự tự tin thái quá. Khi mười bốn tuổi, bạn thân nhất của Maura không phải là con người mà là những cuốn sách. Cô hoàn thành suất sắc các bài tập trên lớp và cũng cảm thấy tự hào về việc đó. Đó chính là lý do khiến cơn giận dữ của sơ Magdalene đổ xuống đầu cô. Vì Maura, niềm kiêu hãnh thiêng liêng về sự hiểu biết của cô phải bị hạ xuống thành sự nhún nhường. Sơ Magdalene làm việc đó một cách khoái trá độc ác. Bà ta biến Maura thành kẻ ngớ ngẩn trên lớp, viết những lời nhận xét rời rạc lên lề giấy trắng tinh của cô và thở dài rất to mỗi khi Maura giơ tay đặt câu hỏi. Rốt cuộc, Maura đã bị buộc phải im lặng để phản đối.
- Họ không ưa gì tôi - Maura nói - các bà sơ ấy.
- Tôi cứ nghĩ là không gì làm cô sợ được.
- Nhiều thứ khiến tôi sợ đấy.
- Nhưng không phải là những xác chết phải không ? - Rizzoli cười.
Họ để thi thể của Camille nằm trên chiếc giường bằng đá lạnh lẽo của cô và quay về chỗ máy đo nhiệt độ trong phòng, về phía sàn nhà đầy vết máu, nơi người ta đã tìm thấy Ursula vẫn còn sống. Người chụp ảnh đã làm xong công việc của mình và rời đi; chỉ còn lại Maura và Rizzoli trong nhà nguyện, chỉ có hai người phụ nữ, tiếng của họ vang vọng lại vào những bức tường rắn chắc. Maura luôn nghĩ về nhà nguyện như những thánh địa thiêng liêng, nơi mà cả tâm hồn của những kẻ ngoại đạo cũng cảm thấy thanh thản. Nhưng cô không thấy thoải mái tại nơi lạnh lẽo này, nơi mà tử thần đã đi qua, làm vấy bẩn những biểu tượng thiêng liêng.
- Họ đã đi tìm thấy sơ Ursula ở ngay đây - Rizzoli nói - bà ấy nằm chếch đầu về phía bục cầu kinh và chân hướng về cửa chính.
Như thể bà ấy đang quỳ phục trước thánh giá.
- Gã này là đồ súc sinh - Rizzoli tiếp tục những lời giận giữ - Đó là điều chúng ta phải đương đầu. Hắn bị điên, hoặc là một kẻ mất trí đang lục lọi để đánh cắp vật gì.
- Chúng ta không biết đó có phải là đàn ông không ?
- Cô nghĩ một phụ nữ đã làm việc đó sao - Rizzoli chỉ về phía thi thể của sơ Camile.
- Một phụ nữ cũng có thể vung búa lên và đập vỡ sọ người khác.
- Tôi đã thấy một dấu chân. Ở đó, giữa lối đi. Tôi thấy đó là cỡ mười hai của nam.
- Một trong những thành viên đội cứu thương chăng ?
- Không, cô có thể thấy dấu chân của đội cấp cứu ở đây, gần cửa ra vào. Dấu chân dọc hành lang rất khác. Đó chính là của hắn.
Gió thổi làm các cánh cửa kêu cót két và cửa chính cũng phát ra tiếng động như thể những bàn tay vô hình đang bám vào nó nhưng không thể nào vào được. Môi Rizzoli đã tím ngắt, mặt cô có màu như một xác chết nhưng cô không hề có ý định tìm một căn phòng ấm áp hơn, Rizzoli là như vậy, bướng bỉnh nên không chịu là người đầu tiên lui bước hay thú nhận là mình đã hết chịu nổi rồi.
Maura quan sát sàn đá, chỗ sơ Ursula nằm và cô không thể phủ nhận trực giác của Rizzoli rằng vụ tấn công này là một hành động điên rồ. Ở đây cô nhìn thấy sự điên loạn trong các vết máu, từ những cú nện vào hộp sọ sơ Camile. Điên rồ hoặc tội ác.
Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng cô. Cô đứng lên, run rẩy, ánh mắt dán vào cây thánh giá.
- Tôi chết cóng mất - cô nói - Chúng ta tìm nơi ấm áp hơn đi. Uống một tách cà phê nhé ?
- Cô xong rồi à ?
- Tôi đã thấy những gì tôi cần. Việc mổ tử thi sẽ cho ta biết phần còn lại.