Tội Ác- CHương 02
Chương hai
Họ đi ra từ nhà nguyện, qua chỗ chăng dây của cảnh sát, bây giờ đã tuột khỏi lối đi và nằm dính vào băng. Gió thổi bay tà áo của họ, quất vào mặt. Mắt họ nheo lại vì những loạt tuyết bay. Khi họ bước vào đại sảnh, Maura không hề cảm thấy chút hơi ấm nào trên khuôn mặt đã tê cóng của mình. Cô ngửi thấy mùi trứng, mùi sơn cũ và mùi ẩm mốc của hệ thống sưởi ấm, mùi của bụi.
Tiếng đồ sứ va vào nhau dẫn họ xuống một hành lang, vào căn phòng sáng lóa mắt vì ánh đèn huỳnh quang, một chi tiết hiện đại gây bối rối. Ánh đèn như con mắt vô hồn nhìn chăm chăm, lạnh lùng, không khoan nhượng lên những khuôn mặt in hằn những nếp nhăn của các bà sơ đang ngồi quanh một chiếc bàn mòn vẹt của vị linh mục. Mười ba người tất cả - một con số không may mắn. Sự chú ý của họ đều tập trung vào những hình vuông trên tấm vải hoa sáng màu, những dải ruy băng bằng lụa, những khay chứa hoa oải hương và cánh hồng khô. Họ đang làm công việc thủ công, Maura nghĩ. Cô nhìn những bàn tay run rẩy xục vào đám hoa khô và quấn ruy băng quanh những túi thơm. Một trong các bà sơ ngồi thụt sâu trong xe lăn. Bà ta nghiêng hẳn sang một bên, tay trái bà ta vòng vào một cái móc chỗ để tay, khuôn mặt bà ta xệ xuống như một cái mặt nạ đã bị tan chảy một phần - hậu quả tai hại của một cơn đột quỵ. Nhưng bà ta là người đầu tiên thấy hai người lạ và bà ta rên lên. Những bà sơ khác ngước mắt, hướng về phía Maura và Rizzoli.
Nhìn những bộ mặt nhăn nheo, Maura ngạc nhiên vì sự nhu nhược cô thấy ở đó. Không hề có hình ảnh nghiêm khắc của quyền lực mà cô còn nhớ từ thời thơ ấu, thay vào đó là những ánh mắt hoang mang đang nhìn cô để tìm câu trả lời cho bi kịch này. Cô thấy không thoải mái trong vai trò mới của mình, việc đó giống như một đứa trẻ đã trưởng thành cảm thấy không thoải mái khi nó lần đầu tiên nhận ra rằng nó và bố mẹ hoán đổi vai trò cho nhau.
- Ai có thể cho tôi biết thám tử Frost ở đâu không ? – Rizzoli hỏi.
Câu hỏi được đáp lại bởi một phụ nữ trông có vẻ khác biệt vừa đi ra từ gian bếp ngay cạnh đó, mang theo một khay đựng cốc cà phê và đĩa sạch. Bà ta vận một chiếc áo len màu xanh bợt bạt bị dính dầu mỡ và một viên kim cương nhỏ lấp lánh qua những bọt xà phòng của nước rửa bát bên tay trái bà ta. Không phải tu sĩ, Maura nghĩ, là người làm thuê cho linh mục, bà ta đang chăm sóc cộng đồng ốm yếu này.
- Ông ấy vẫn đang nói chuyện với bà trưởng tu viện - người phụ nữ nói. Bà ta hất đầu về phía lối vào và một mớ tóc nâu buông xuống, cuộn quanh cái trán nhăn nheo - Văn phòng của bà ấy ở cuối hành lang.
- Tôi biết đường rồi - Rizzoli gật đầu.
Họ thoát khỏi ánh đèn khó chịu của căn phòng đó và tiếp tục đi dọc hành lang. Maura cảm thấy ở đây có một cơn gió, tiếng thì thầm của luồng khí lạnh như thể hồn ma vừa lướt qua. Cô không tin vào kiếp sau những lúc bước trên bước chân của những người vừa chết, đôi khi cô băn khoăn liệu khi đi qua họ có để lại dấu vết gì không, một nguồn năng lượng mờ ảo khó chịu mà ai đó đi sau có thể cảm nhận được.
Rizzoli gõ cửa phòng bà trưởng tu viện, một giọng run rẩy cất lên:
- Mời vào !
Khi bước vào phòng, Maura cảm thấy mùi thơm của cà phê thơm như nước hoa. Cô thấy một cây thánh giá đơn giản bằng gỗ được treo trên tường phía trên cái bàn làm bằng gỗ sồi. Sau chiếc bàn là bà sơ ngồi lom khom. Mắt bà ta như lồi ra sau cặp kính rất lớn. Bà ta có vẻ cũng già nua như những bà sơ yếu đuối ngồi quanh chiếc bàn của linh mục, cặp kính của bà ta trông nặng đến mức chúng có thể kéo mặt bà ta sát xuống bàn.
Nhưng hai con mắt đang nhìn chằm chằm qua cặp kính thì vẫn tinh anh và sáng lên một cách thông thái.
Đồng nghiệp của Rizzoli, Barry Frost ngay lập tức bỏ tách cà phê xuống và đứng lên theo phép lịch sự. Frost như một người anh thân thiện của tất cả mọi người, một cảnh sát trong đội chống tội phạm mà có thể bước vào phòng thẩm tra và khiến kẻ tình nghi tin rằng Frost là người bạn chí cốt của hắn.
Anh cũng là cảnh sát thuộc đội dường như không ngại làm việc với một người nhanh trí như Rizzoli. Cô đang quắc mắt nhìn ly cà phê của anh và chắc chắn đang so sánh về việc trong khi cô run lập cập ở nhà nguyện thì người đồng nghiệp của mình lại ngồi một cách thoải mái trong căn phòng ấm cúng này.
- Thưa trưởng tu viện - Frost nói - đây là bác sĩ Isles đến từ phòng khám nghiệm tử thi. Bác H đây là sơ Mary Clement..
Maura đưa tay về phía bà trưởng tu viện. Cô rùng mình.
Da bà ta giống như giấy khô bọc lấy những chiếc xương. Khi bắt tay, Maura để ý thấy cổ tay áo bằng vải len mộc thò ra dưới ống tay áo màu đen. Thì ra đây là cách các bà sơ chịu đựng một tòa nhà lạnh lẽo như vậy. Dưới bộ lễ phục màu đen, bà ta mặc một chiếc váy lót dài.
Cặp mắt màu lục méo mó nhìn cô qua cặp kính dày.
- Phòng khám nghiệm tử thi à ? Điều đó có nghĩa cô là một nhà vật lý ?
- Vâng, một nhà nghiên cứu bệnh học.
- Cô nghiên cứu nguyên nhân cái chết ?
- Đúng vậy.
Bà trưởng tu viện dừng một lát như thể bà ta đang thu hết can đảm để hỏi câu tiếp theo.
- Cô đã vào nhà nguyện chưa ? Cô đã thấy... ? - Maura gật đầu. Cô muốn ngắt câu hỏi mà cô biết bà ta sắp nói, nhưng cô không thể thô lỗ với một bà sơ. Ngay cả ở tuổi bốn mươi, cô vẫn bị xúc động khi nhìn thấy màu áo đen.
- Cô ấy...- Giọng của Mary Clement biến thành tiếng thì thào - Cô Camille bị thương nặng không ?
- Tôi e là tôi vẫn chưa có câu trả lời. Chờ khi tôi hoàn thành xong việc khám nghiệm... - Tử thi là từ cô muốn nói nhưng từ đó có vẻ quá lạnh lùng, quá ý khoa đối với đôi tai được chở che của sơ Mary clement. Hơn nữa, cô không muốn nói sự thật khủng khiếp đó, thực ra cô đã hiểu rõ điều gì đã xảy ra đối với Camille. Kẻ nào đó đã đe dọa cô ấy ở nhà nguyện. Kẻ đó đã đuổi theo khi cô ấy chạy trốn trong hoảng loạn ở lối đi và làm rơi cả khăn choàng màu trắng của tu sĩ mới vào tu viện. Khi những cú đánh của hắn liên tiếp giáng xuống đầu cô, máu cô văng lên cả hai thành ghế nhưng cô vẫn lết về phía trước cho tới khi cô ngã gục xuống và quỳ dưới chân hắn. Thậm chí sau đó kẻ tấn công vẫn không dừng lại. Hắn tiếp tục đánh và đập hộp sọ cô như một quả trứng. Để tránh ánh mắt của sơ Mary clement, Maura liếc nhanh sang cây thập bằng gỗ treo trên tường sau chiếc bàn nhưng biểu tượng đó cũng không thể làm cô thoải mái được.
Rizzoli cắt ngang.
- Chúng tôi chưa xem phòng ngủ của họ - Như mọi lần cô luôn nói về công việc và chỉ tập trung vào việc cần làm tiếp theo.
Đôi mắt sơ Mary Clement ươn ướt.
- Vâng, tôi đã định đưa thám tử Post lên phòng ngủ của họ ở tầng trên.
Rizzoli gật đầu:
- Chúng tôi đã sẵn sàng.
Bà trưởng tu viện dẫn đường lên cầu thang chỉ được thắp sáng bằng ánh sáng ban ngày xuyên qua một ô cửa kính màu. Khi trời nắng, mặt trời sẽ tô bức tường bằng một bảng màu sặc sỡ nhưng vào buổi sáng đầy gió thế này những bức tường rất lạnh lẽo với nhiều góc tối sẫm màu.
- Những căn phòng trên gác bây giờ hầu như đều trống. Nhiều năm rồi chúng tôi đã chuyển các sơ xuống dưới, từng người một - Mary Clement nói, đi một cách chậm chạp và bám vào tay vịn như thể bà đang kéo mình lên từng bậc một, Maura có cảm giác bà ta sắp ngã về phía sau, cô đang đi ngay sau bà ta nên cô thấy căng thẳng và lo lắng mỗi khi bà dừng lại thở hổn hển.
- Sơ Jaunta khổ sở vì đầu gối của sơ ấy mấy hôm nay nên sơ ấy sẽ ở căn phòng phía dưới. Giờ thì sơ Helen sẽ khó thở đây. Chúng tôi còn ít người quá... - Đây quả là một tòa nhà lớn khi phải giữ gìn như vậy - Maura nói.
- Và cũ nát - Tu viện trưởng dừng lại để thở. Bà ta nói thêm với một nụ cười ảm đạm - Già nua như chúng tôi vậy... Và việc tu sửa nó quá đắt đỏ. Chúng tôi đã nghĩ là chắc chắn phải bán nó đi nhưng Chúa đã tìm cách để chúng tôi giữ nó lại.
- Cách nào ?
- Năm ngoái có một nguồn tài trợ. Giờ chúng tôi đã bắt đầu sửa sang. Những tấm lợp mới thay và hiện chúng tôi có hệ thống thông hơi ở gác mái. Sau đó chúng tôi sẽ thay lò sưởi – Bà quay lại nhìn Maura - Dù cô có tin hay không thì tòa nhà này còn ấm áp hơn so với một năm trước.
Bà tu viện trưởng hít một hơi dài và tiếp tục leo lên những bậc thang. Chuỗi tràng hạt của bà ta kêu lách cách.
- Trước đây chúng tôi có bốn mươi lăm người. Khi tới Grayston lần đầu, chúng tôi ở kín hết các phòng này, cả hai bên dãy nhà nhưng giờ chúng tôi là một nhóm người đã quá già cỗi.
- Bà tới đây từ bao giờ, thưa sơ ? - Maura hỏi.
- Tôi là một chúng sinh khi mười tám tuổi. Có một người đàn ông lịch thiệp xin cầu hôn tôi. Tôi nghĩ sự kiêu hãnh của anh ấy đã bị tổn thương khi tôi từ chối anh ấy để đến với Chúa - Bà ta dừng lại ở bậc thang và quay lại. Lúc đó Maura mới chú ý thấy dây của máy trợ thính sau vành tai bà ta - Có lẽ cô không thể tưởng tượng được điều đó phải không, cô Isles ? Rằng tôi đã có thời trẻ như vậy ?
Thật sự là Maura không thể. Cô không thể nghĩ về bà Mary Clement là một người nào khác ngoài một di vật ốm yếu như bây giờ. Chắc chắn bà ta không thể từng là một phụ nữ ham muốn và được đàn ông theo đuổi.
Họ đi hết cầu thang, một cảnh đường dài mở ra trước mắt họ. Ở đây đã ấm hơn và khá dễ chịu do hơi nóng bị trần nhà thấp và tối chặn lại. Những thanh xà nhô ra ít nhất đã được trăm năm tuổi. Bà trưởng tu viện mở cánh cửa thứ hai và lưỡng lự, tay bà đặt lên tay xoay. Cuối cùng bà ta vặn nó và cánh cửa mở tung, ánh sáng nhợt nhạt từ bên trong tràn lên mặt bà ta.
- Đây là phòng sơ Ursula - Bà ta nói khẽ.
Căn phòng không đủ lớn để tất cả bọn họ vào cùng một lúc. Frost và Rizzoli bước vào còn Maura vẫn đứng ở cửa, cô lướt qua những giá sách xếp đầy sách, những bình hoa cũ đầy hoa Violet châu Phi còn tươi, ở cửa có chấn song, trần nhà thấp khiến căn phòng có dáng vẻ của thời trung đại. Một căn phòng gọn gàng của một học giả, cùng với một chiếc giường đơn giản, một chiếc tủ có ngăn, một chiếc bàn và một chiếc ghế.
- Giường của bà ấy đã được dọn - Rizzoli nói và nhìn xuống những tấm vải được gấp gọn gàng.
- Sáng nay chúng tôi đã thấy như vậy rồi - Mary Clement nói.
- Tối qua bà ấy không đi ngủ ư ?
- Có khả năng sơ ấy dậy sớm, sơ ấy thường như vậy.
- Sớm là mấy giờ.
- Sơ ấy thường dậy trước những người đọc kinh vài tiếng.
- Những người đọc kinh à ? - Frost hỏi.
- Những người cầu nguyện của chúng tôi dậy lúc bảy giờ. Hè vừa rồi sơ ấy luôn ra ngoài từ sớm, ở trong vườn. Sơ ấy thích làm việc trong vườn.
- Vào mùa đông ư ? - Rizzoli hỏi - Sơ ấy làm gì vào sáng sớm như vậy ?
- Mùa nào cũng thế, luôn có việc để làm đối với người có thể làm việc như chúng tôi. Nhưng giờ quá nhiều sơ đã yếu. Năm nay, chúng tôi phải thuê cô Otis để giúp chúng tôi nấu ăn. Ngay cả khi có cô ấy giúp, chúng tôi vẫn không thể làm hết những việc vặt.
Rizzoli mở cửa tủ. Bên trong treo một bộ sưu tập những quần áo màu đen và nâu. Không có màu sắc hay sự trang điểm nào khác. Đó là một tủ quần áo của một phụ nữ mà công việc của Chúa là tất cả và các màu quần áo chỉ là để phục vụ Chúa.
- Bà ấy chỉ có quần áo thôi sao ? Chỉ những gì tôi thấy trong tủ ấy ? - Rizzoli hỏi.
- Chúng tôi đã thề về những tài sản chúng tôi có khi bước chân vào đây.
- Điều đó nghĩa là các vị từ bỏ mọi thứ ư ? - Frost hỏi.
Mary Clement đáp lại bằng một nụ cười nhẫn nại, theo kiểu người ta cười với một đứa bé vừa hỏi một câu ngớ ngẩn.
- Đó không phải là sự khổ hạnh, ngài thám tử ạ. Chúng tôi có sách và một vài kỷ vật cá nhân. Như ngài thấy sơ Ursula thích những bông hoa Violet châu Phi. Nhưng rất đúng, chúng tôi đã từ bỏ gần như mọi thứ ở phía sau khi chúng tôi đến đây.
Đây là một phái thiền định và tôi không muốn thế giới bên ngoài xen vào.
- Xin lỗi bà viện trưởng - Frost nói - tôi không phải người theo đạo Thiên chúa nên tôi không hiểu từ đó nghĩa là gì. Phái thiền định ?
Câu hỏi của anh thật đáng chân trọng và Mary Clement ủng hộ anh bằng một nụ cười thân thiện hơn khi bà ta cười với Rizzoli.
- Phái thiền định dẫn đến một cuộc sống tĩnh lặng. Cuộc sống của những con chiên, của sự cống hiến cá nhân và sự tâm niệm. Đó là lý do tại sao chúng tôi thu mình sau những bức tường này và tại sao chúng tôi từ chối những vị khách. Sự tách biệt đã khiến chúng tôi thoải mái.
- Nếu ai đó phá luật thì sao ? - Rizzoli hỏi - các vị có đuổi người đó không ?
Maura thấy Frost cau mày bởi cách hỏi thẳng tuột của người bạn đồng nghiệp.
- Các quy định của chúng tôi mang tính tự nguyện - Mary Clement giảng giải - chúng tôi theo đuổi chúng vì chúng tôi muốn vậy.
- Nhưng đôi lúc chắc chắn sẽ có một bà sơ nào đó thức dậy vào buổi sáng và nói "Tôi muốn ra bãi biển" chứ ?
- Điều đó không xảy ra.
- Chắc chắn nó xảy ra. Dầu sao họ cũng chỉ là con người.
- Điều đó không bao giờ xảy ra - Sơ Marry Clement khẳng định.
- Không ai phá luật sao ? Không ai nhảy qua những bức tường sao ?
- Chúng tôi không có nhu cầu rời tu viện. Cô Ortis mua rau quả cho chúng tôi. Cha Brophi đáp ứng những nhu cầu tinh thần của chúng tôi.
- Còn thư từ thì sao ? Hay điện thoại ? Thậm chí ở nhà tù canh phòng nghiêm ngặt thì cũng phải gọi điện thoại thường xuyên.
Frost lắc đầu, câu nói của anh thật gây nhức nhối.
- Chúng tôi có điện thoại ở đây trong trường hợp khẩn cấp - Mary Clement kiên nhẫn giải thích.
- Và bất kỳ ai cũng có thể dùng nó ? Tại sao họ lại muốn làm việc đó ?
- Thư từ thì sao ? Các vị có thư không ?
- Một vài người chúng tôi đã quyết định không nhận thư từ gì.
- Còn nếu các vị muốn gửi thư ?
- Cho ai cơ chứ ?
- Việc đó không quan trọng sao ?
Khuôn mặt bà Mary Clement lạnh lùng, một nụ cười nghiêm nghị theo kiểu Chúa ban cho tôi sự nhẫn nại nở trên môi.
- Tôi chỉ có thể là chính tôi, thưa ngài thám tử. Chúng tôi không phải là những tù nhân. Chúng tôi lựa chọn lối sống này. Những ai không đồng ý với các quy định này có thể rời đi.
- Vậy họ sẽ làm gì ở thế giới bên ngoài ?
- Có vẻ như ai cũng cho là chúng tôi không hiểu biết về thế giới đó. Nhưng vài sơ đã phục vụ ở các trường học và bệnh viện.
- Tôi nghĩ đã trở thành tu sĩ nghĩa là các vị không thể rời tu viện.
- Đôi khi Chúa cần đến chúng tôi dể làm những nhiệm vụ bên ngoài những bức tường. Cách đây vài năm sơ Ursula đã cảm nhận được lời kêu gọi của Chúa để phục vụ ở nước ngoài, sơ ấy đã được nhận một đặc ân - được phép sống bên ngoài trong khi vẫn giữ lời thề.
- Nhưng bà ấy đã quay lại.
- Năm ngoái.
- Bà ấy không thích cuộc sống bên ngoài ?
- Sứ mệnh sơ ấy ở Ấn Độ không hề dễ dàng. Đã có bạo lực - một kẻ khủng bố tấn công làng của sơ ấy. Đó là khi sơ ấy trở về với chúng tôi. Ở đây sơ ấy lại tìm thấy sự an toàn.
- Bà ấy không có nhà để về sao ?
- Họ hàng thân thiết nhất của sơ ấy là một người anh trai đã mất cách đây hai năm. Bây giờ chúng tôi đã là gia đình của sơ ấy và Tu viện Đá Xám là nhà của sơ ấy. Khi anh chán nản thế giới bên ngoài và cần được xoa dịu, ngài thám tử - bà tu viện trưởng nhẹ nhàng hỏi - anh có về nhà không ?
Câu trả lời có vẻ khiến Rizzoli khó chịu. Cô nhìn về phía những bức tường chỗ treo cây thánh giá. Nó bị nhòe đi cũng rất nhanh chóng.
- Thưa tu viện trưởng !
Một người đàn bà mặc áo len màu xanh dính mỡ đang đứng ở sảnh đường, nhìn họ bằng con mắt thờ ơ, không chút tò mò. Vài sợi tóc hung tuột ra từ mớ tóc buộc của chị, phất phơ quanh khuôn mặt xương xẩu.
- Cha Brophy nói ông ấy đang tiếp mấy vị phóng viên. Nhưng họ gọi nhiều đến nỗi sơ Isabel đã bỏ điện thoại khỏi giá treo. Sơ ấy không biết phải nói gì với họ.
- Tôi sẽ đến đó ngay, cô Ortis. - Bà viện trưởng quay sang phía Rizzoli - Cô thấy đấy, chúng tôi cứ rối tung lên. Cô hãy ở đây càng lâu càng tốt. Tôi phải xuống dưới.
- Trước khi đi... - Rizzoli hỏi - phòng cô Camille ở đâu ?
- Ở cánh cửa thứ tư.
- Nó không khóa chứ ?
- Không hề có khóa trên những cánh cửa này - Sơ Mary Clement khẳng định - chưa bao giờ có cả.
Mùi thuốc tẩy và mùi xà phòng hiệu Murphy là thứ đầu tiên mà Maura nhận ra khi cô bước vào phòng sơ Camille. Giống như phòng sơ Urula, căn phòng này có một cửa sổ nhìn ra sân, trần nhà cũng thấp và được làm bằng các thanh gỗ như vậy. Nhưng phòng của sơ Urula còn cảm nhận được là có người ở, còn phòng của Camille hoàn toàn lạnh lẽo và u ám. Những bức tường trắng tinh và trống không, ngoại trừ một cây thánh giá gỗ treo đối diện với giường. Đó sẽ là vật đầu tiên mà Camille sẽ nhìn thấy khi cô thức dậy mỗi buổi sáng, một thứ tượng trưng cho sự tồn tại nhỏ bé của cô. Đây là một căn phòng cho một người sám hối.
Maura nhìn xuống sàn nhà và thấy các mảng bị cào xước mạnh. Liệu đó có phải là các vết bẩn đã có từ một thế kỷ nay ? Đó có phải là toàn bộ dấu vết của những người phụ nữ đã sống ở đây trước cô ấy ?
- Chà - Rizzoli thốt lên - Nếu sau Chúa là sự sạch sẽ thì người phụ nữ này là một vị thánh đấy.
Maura lại gần chiếc bàn cạnh cửa sổ, nơi đặt một cuốn sách để mở. Câu chuyện về thánh Brigit của Ai-len. Cô hình dung ra Camille đang ngồi đọc ở chiếc bàn này, ánh sáng từ ô cửa đùa trên những đường nét thanh tú của cô. Maura băn khoăn những hôm trời ấm áp, Camille có bỏ tấm choàng màu trắng của mình và ngồi tựa lưng về phía sau để cho cơn gió nhẹ từ cửa sổ thổi qua mái tóc vàng óng của mình không.
- Ở đây có vết máu - Frost kêu lên.
Maura quay lại, thấy anh đang đứng cạnh chiếc giường và nhìn đống giường chiếu bị lộn tung.
Rizzoli kéo tấm lót giường lên, để lộ ra các vét máu đỏ tươi trên mảnh vải cuối cùng.
- Máu kinh nguyệt — Maura khẳng định và thấy Frost đỏ mặt quay đi. Ngay cả người đàn ông đã có vợ cũng ngượng ngùng khi nói tới những điều nhỏ nhặt về các chức năng cơ thể người phụ nữ.
Tiếng chuông kêu khiến Maura quay về phía cửa sổ. Cô thấy một tu sĩ đi từ tòa nhà ra để mở cổng. Bốn vị khách mặc áo mưa màu vàng bước vào sân.
- Đội khám nghiêm hiện trường đã đến - Maura thông báo.
- Tôi sẽ xuống gặp họ - Frost nói và ra khỏi phòng.
Tuyết vẫn rơi, đập nhẹ vào cửa sổ, một lớp nước che mất tầm nhìn của cô xuống khoảng sân bên dưới. Maura thấy hình ảnh nhạt nhòa của Frost bước ra ngoài chào các chuyên gia khám nghiệm hiện trường. Những kẻ xâm nhập mới làm mất đi sự thiêng liêng của tu viện. Ở bên kia bức tường, những kẻ khác cũng đang đợi để được vào đây. Cô thấy một chiếc xe của đài truyền hình đỗ đối diện cánh cổng và chắc chắc máy quay đang hoạt động. Làm cách nào họ tìm đường đến đây nhanh như vậy ? Mùi của sự chết chóc mạnh mẽ vậy sao ?
Cô quay lại nhìn Rizzoli.
- Cô theo đạo Thiên Chúa phải không Jane ?
Rizzoli hắt hơi khi chui qua tủ quần áo của Camille.
- Tôi hả ? Tôi là một con chiên bị ruồng bỏ.
- Cô không còn tin vào nó từ bao giờ ?
- Gần như cùng lúc tôi không còn tin vào ông già Nô-en nữa. Tôi không dám khẳng định điều đó, một điều mà cho tới nay vẫn khiến cha tôi băn khoăn. Lạy Chúa, một cái tủ chán ngắt. Xem nào, hôm nay tôi sẽ mặc bộ màu đen hay màu nâu đây ? Tại sao bán cầu não phải của cô gái này có thể muốn trở thành một tu sĩ nhỉ ?
- Không phải tu sĩ nào cũng mặc bộ đó. Từ thời thánh Vatican thứ hai.
- Đúng thế, nhưng đó là điều từ thiện thôi, nó không thay đổi. Thử tưởng tượng xem sẽ không có chuyện nam nữ trong suốt phần đời còn lại.
- Tôi không biết - Maura nói - Có thể sẽ nhẹ nhõm khi không còn bận tâm về đàn ông nữa. Tôi không chắc về điều đó - Cô đóng cửa tủ và quan sát căn phòng một cách chậm chạp để tìm... thứ gì đây ? Maura băn khoăn. Chìa khóa cho biết tính cách của Camille chăng ? Một lời giải thích cho cái chết quá sớm và quá tàn nhẫn của cô chăng ? Nhưng Maura chẳng thể tìm thấy chi tiết gì ở đây. Một căn phòng đã bị xóa hết các dấu vết chủ nhân của nó. Có lẽ đó là chi tiết cho thấy nhiều nhất về con người của Camille: một phụ nữ trẻ lúc nào cũng quét sạch bụi bẩn và tội lỗi.
Rizzoli đi về phía giường, chống tay và quỳ xuống để nhìn xuống dưới.
- Chà, ở đây sạch đến nỗi cô có thể liếm láp sàn nhà quái quỷ này.
Gió đập vào cửa sổ, còn tuyết đập vào ô kính. Maura quay lại thấy Frost cùng đội khám nghiệm hiện trường đi ngang qua nhà nguyện. Một trong các chuyên gia đột nhiên bị trượt trên tuyết, hai cánh tay vung lên như một tay trượt ván khi anh ta cố gắng đứng thẳng. Tất cả chúng ta đều đang cố đứng vững, Maura nghĩ. Để chống lại lực vạn vật hấp dẫn, chúng ta cần chống lại trọng lực. Rốt cuộc, khi chúng ta bị ngã, đó luôn là một bất ngờ.
Đội khám nghiệm hiện trường bước vào nhà nguyện, cô tưởng tượng họ đang đứng thành vòng tròn, im lặng nhìn vết máu của sơ Urula, hơi thở của họ được thấy rõ qua làn hơi nước.
Phía sau cô có tiếng kêu nhẹ.
Cô quay lại và giật mình khi thấy Rizzoli đang ngồi trên sàn cạnh một chiếc ghế. Đầu cô gục xuống gối.
- Jane... - Maura quỳ xuống cạnh cô ấy - Sao thế ?
Rizzoli xua tay.
- Tôi ổn mà, tôi không sao...
- Có chuyện gì vậy ?
- Chỉ là... Tôi nghĩ tôi đứng lên nhanh quá. Tôi hơi chóng mặt... - Rizzoli cố thẳng người lên nhưng lại gục đầu xuống.
- Cô nên nằm nghỉ.
- Không cần đâu. Chỉ cần để đầu óc tôi yên một chút thôi.
- Maura nhớ là Rizzoli đã có vẻ không khỏe ở nhà nguyện, mặt cô tái đi, môi xám ngắt. Khi đó cô nghĩ đó là vì vị thám tử bị lạnh. Giờ họ đang ở trong phòng ấm nhưng trông Rizzoli có vẻ kiệt sức.
- Cô ăn sáng chưa ? - Maura hỏi.
- À..
- Cô không nhớ sao ?
- Có, tôi nghĩ là tôi ăn rồi. Gần như vậy.
- Thế là sao ?
- Một mẩu bánh mỳ, được chưa ? - Rizzoli gạt tay Maura, một sự phản đối nóng nảy trước bất cứ sự giúp đỡ nào. Đó là sự kiêu hãnh đáng sợ đôi khi khiến cô khó cộng tác - Tôi nghĩ tôi bị cảm cúm.
- Cô chắc chứ ?
Rizzoli vuốt tóc khỏi mặt và từ từ đứng thẳng lên.
- Đúng vậy. Lẽ ra sáng nay tôi không nên uống cà phê.
- Nhiều không ?
- Ba hay bốn cốc gì đó.
- Như thế không phải là lạm dụng quá sao ?
- Tôi cần chất kích thích. Nhưng giờ nó ngốn hết dạ dày của tôi. Tôi thấy cồn cào quá.
- Tôi sẽ đưa cô đến phòng tắm.
- Không - Rizzoli khoát tay - Tôi tự làm, được chứ ?
Cô từ từ đứng dậy và chỉ đứng được một lúc, như thể không còn tự tin vào đôi chân của mình. Rồi cô ôm lấy vai và theo điệu bộ của bà Rizzoli đầy lịch lãm, cô bước ra khỏi phòng.
Tiếng chuông cổng khiến Maura nhìn về phía cửa sổ. Cô lại thấy một bà sơ già đi ra từ tòa nhà, lê bước qua những viên đá lạo xạo để mở cổng.
Vị khách mới này không cần van nài, bà sơ mở cổng ngay lập tức. Một người đàn ông mặc áo khoác đen dài bước vào sân, đặt tay lên vai bà sơ. Đó là một cử chỉ an ủi và thân thiện. Họ cùng nhau tiến về phía tòa nhà, người đàn ông đi chầm chậm để hợp với dáng đi lòng khòng của bà ta, đầu ông cúi xuống bà sơ như thể ông không muốn bỏ lỡ bất cứ từ nào bà ta nói.
Đi được nửa sân, ông đột nhiên dừng lại và nhìn lên như thể ông cảm nhận được Maura đang nhìn mình.
Trong một khoảnh khắc, cái nhìn của họ gặp nhau qua ô cửa. Cô thấy một gương mặt gầy gò và nổi bật, một mớ tóc đen bị gió làm rối tung. Và cô kịp nhìn thấy cổ áo dựng đứng màu trắng bên dưới áo khoác đen của ông.
Một vị linh mục.
Khi chị Ortis thông báo rằng cha Brophy đang trên đường đến tu viện, Maura đã tưởng tượng ông đã già, tóc hoa râm. Nhưng người đàn ông đang nhìn lên cửa sổ lúc này còn trẻ - không quá bốn mươi.
Ông và bà sơ tiếp tục đi về phía tòa nhà và Maura không nhìn thấy họ nữa. Sân lại trống không nhưng đám tuyết in lại dấu ấn của tất cả những ai đã đi qua sáng nay. Đội khám nghiệm tử thi đã đến từ sớm, mang theo cáng và vẫn còn lại vài dấu chân của họ trên tuyết.
Cô thở sâu, thấy sợ khi nghĩ đến việc trở lại nhà nguyện, trở về với công việc vẫn chình ình trước mắt. Cô rời căn phòng và đi xuống cầu thang để đợi đội của mình.