Tôi Là Thầy Tướng Số - Quyển 2 - Chương 4
Chương 4. MẸO LẠ ĐIỀU KHIỂN ĐỘNG VẬT:THUẬT QUỶ TƯƠNG
BẦY NHÍM KỲ LẠ
Tổ Gia hiếm khi mắc sai lầm, nhưng lần này ông đã phán đoán nhầm, Thiên Thánh Đạo vẫn im ắng lạ thường.
Đại đồ đệ Tả Vịnh Thiền của Trương Kế Nghiêu đã ngồi lên bảo tọa ngay sau đó vài hôm, trở thành chưởng môn thứ bảy của Thiên Thánh Đạo, vẫn tung tin hù dọa về ngày tận thế như trước, có điều khẩu hiệu lần này hơi khác. Trước đây chúng rêu rao: “Càn khôn hữu đại nan, mạt thế kỷ đương đầu, Thiên Thánh độ chúng sinh, các đắc bất tử thân”. Giờ chúng lại hô: “Càn khôn hữu đại nan, mạt thế kỷ đương đầu, phúc tòng Đông phương lai, mãn tâm cứu chúng sinh”.
Tổ Gia đăm chiêu. Một nhân vật tầm cỡ như thế, nói chết là chết ngay được, lại chết một cách khó hiểu, kẻ nào mà lại bản lĩnh đầy mình như vậy, có thể bưng bít cái chết của một đại sư êm ru như thế?
Mai Huyền Tử biến thành tiên, Trương Kế Nghiêu chết đột ngột, quan tài đầy tóc đen, Giả Tứ gia không mời mà đến, dường như tất cả những điều này đều có thể xâu chuỗi lại. Nghĩ đến đây, Tổ Gia không khỏi rùng mình.
Vụ dàn cục với thi thể con gái ông chủ Hà vẫn phải tiếp tục làm. Tổ Gia biết, giờ mình không còn đường thoái lui, chỉ có tiếp tục bước lên phía trước, chân tướng mới được phơi bày. Nhưng cần phải suy xét thật cẩn trọng.
Cứ theo các bước thì đầu tiên phải làm lễ chiêu hồn để an ủi vong linh, rồi nói oan khí trong người cô gái đã tiêu tan, thuyết phục nhà trai cứ làm lễ hợp hôn như đã bàn định. Nếu nhà trai không đồng ý cũng không đáng ngại, chỉ cần Nhị Bá đầu Trát phi, đêm đến bày trò hồn ma bóng quỷ, bảo đấy là cô gái tìm về, nếu không đồng ý, cả nhà sẽ chết sạch, kiểu gì chẳng êm xuôi.
Điều quan trọng là Tổ Gia luôn cảm thấy đằng sau tất cả những việc này luôn có hai con mắt hằn lên những tia máu đầy hận thù đang nhìn chòng chọc vào mình, không biết lúc nào sẽ chồm tới, cắn ông một miếng.
Cả đêm Tổ Gia trằn trọc suy nghĩ. Trời sáng, ông bảo Nhị Bá đầu dẫn đến nhà ông chủ Hà. Tổ Gia muốn đích thân làm phép chiêu hồn.
Tổ Gia bảo ông chủ Hà xé rất nhiều những miếng vải trắng, treo trên xà nhà, phòng khách, phòng phía nam, phòng phía đông, phòng phía tây, treo khắp quanh sân; giữa sân đặt một án kỷ, bày đủ cả lư hương, bệ đèn, tam tiên (ba món ăn), vàng mã.
Tổ Gia lấy một nắm hạt kê, một cái hũ miệng nhỏ, thả nắm hạt kê đó vào đó, lấy giấy đỏ bịt kín miệng hũ lại, dùng kiếm khua khua về phía chỗ vàng mã, đốt bùa niệm chú, trên vái Tam Thanh (ba vị thần tiên trong Đạo giáo), dưới tế sâm la (vạn thứ hiển hiện xung quanh), sau đó chọc thủng một lỗ trên tờ giấy đỏ, rồi gọi to để hồn ma chui vào trong hũ.
Tiếp theo, Tổ Gia lại sai Nhị Bá đầu bốc nắm hạt kê trong hũ ra, bỏ vào miệng người chết giờ đã không còn da thịt nữa. Nhị Bá đầu cứ thế đổ thẳng hạt kê vào qua hốc miệng.
Tổ Gia lại dán một lá bùa cầu siêu lên đầu thi thể, yểm cho linh hồn cô gái được yên.
Rồi cứ theo kế hoạch, thuyết phục nhà trai, đem hai người hợp táng.
Tất cả mọi việc đều rất suôn sẻ, suôn sẻ đến nỗi khiến Tổ Gia cảm thấy đáng sợ. Từ trong sâu thẳm, ông luôn thấy bất an, nhưng lại không rõ là do đâu.
Chính Hoàng Pháp Dung đã chọn ngày hợp táng. Kẻ đi lừa đảo cũng phải chọn ngày hoàng đạo, Hoàng Pháp Dung dùng thuật Kỳ môn độn giáp khởi cục, tìm được một ngày đẹp.
Ngày hôm đó, Tổ Gia đích thân đến hiện trường, chỉ bảo đám người nâng cái quan tài màu đỏ to tướng đặt xuống huyệt.
Đột nhiên, trong bụi cây phát ra những tiếng loạt soạt, nghe như tiếng mưa rơi lên lá sen. Những âm thanh đó từ xa vọng lại, rồi nhanh chóng tiến lại gần, khiến mọi người sững lại, dỏng tai nghe ngóng. Bất thình lình, một đàn con gì trăng trắng lao ra khỏi bụi cây, cũng không rõ chúng “xuất kích” tự lúc nào, chỉ nghe thấy chúng “hò la” cùng nhảy chồm tới cả bầy. Định thần lại, mọi người mới nhận ra là lũ nhím. Khắp người chúng mọc tua tủa những chiếc gai trắng, bụng phập phùng, cứ thế phi thẳng về phía quan tài, như thể trong đó có thứ gì đang hút lấy chúng. Mấy trăm con nhâu nhâu quanh quan tài, kêu chi chi như tiếng âm hồn.
Đám cu li hồn vía lên mây. Mấy người bạo gan lấy gậy và cuốc chim đuổi, nhưng lũ nhím như bị trúng tà, chẳng biết sợ người, giương cặp mắt đỏ lừ, nhảy lên nhảy xuống, những cái mõm bé như sẵn sàng chồm tới tấn công. Mấy người sợ quá, vứt hết cả cuốc xẻng, bỏ chạy.
Ngay sau đó, lũ nhím bắt đầu tấn công chiếc quan tài. Lúc nhúc mấy trăm con, răng con nào con nấy cạ cạ gặm tấm gỗ quan, khiến lớp sơn màu đỏ chẳng mấy chốc đã bị cạo sạch. Với tình hình này, dù vừa rồi quan tài có được lấp kín trước khi chúng lao đến thì chúng vẫn có thể đào lỗ chui vào cắn tan tành.
BẠCH TIÊN NHẬP ĐỒNG
Tổ Gia vã mồ hôi, mày cau lại, lời căn dặn của lão tổ tông hiện ra trước mắt ông: Ô phát già quan bất khả trát, oán khí lệ khí loạn như ma…
Ông chủ Hà run cầm cập hỏi: “Tổ Gia, xảy ra chuyện gì vậy?”
Tổ Gia cố tỏ ra bình tĩnh nói: “… Khả năng là do âm khí quá nặng, khiến Bạch tiên đến, đợi ta làm phép…”
Lúc này, Hoàng Pháp Dung đóng giả làm đạo cô đang đứng sau lưng lẳng lặng đi tới gần Tổ Gia nói nhỏ: “Tổ Gia, đây là Tiểu Quỷ tương! Nơi này không nên nán lại lâu, chúng ta nên đi trước!”
Tổ Gia trừng mắt: ”Đi thế nào được?”
Hiểu thấu tâm tư Tổ Gia, Hoàng Pháp Dung cũng chỉ biết cúi đầu lo lắng nghĩ cách ứng phó.
Chính vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, một trận gió lướt nhẹ qua, khiến cành cây run rẩy, liền ngay sau đó là tiếng sấm ầm trời. Tam phục thiên là những ngày nóng bức nhất mùa hè, trời nổi gió hay có sấm là chuyện vốn rất bình thường, nhưng dường như có thứ gì đó khiến Hoàng Pháp Dung sốc nặng, mắt bà trắng dã, đầu lao xuống đất.
Tổ Gia sững người, tất cả mọi người có mặt đều kinh hãi.
Trương Tự Triêm đứng sau vội vàng dìu Hoàng Pháp Dung dậy.
Hoàng Pháp Dung mắt nhắm nghiền, toàn thân co giật, miệng rên hừ hừ. Rồi đôi mắt đang nhắm chặt đột nhiên trợn trừng, lóe lên ánh nhìn hung ác, miệng quát to: “Bạch tiên giá đáo, lũ các ngươi còn không mau quỳ xuống?”
Trương Tự Triêm không hiểu đã xảy ra chuyện gì, vội vàng kêu tên: “Pháp Dung! Pháp Dung!”
Hoàng Pháp Dung đẩy mạnh Trương Tự Triêm ra, miệng vẫn quát tháo: “Ta là Bạch tiên! Ta là Bạch tiên!”
Giọng nói run bần bật như từ cõi âm vọng về khiến những người đứng xung quanh phải dựng tóc gáy. Lúc này, một đám mây đen chầm chậm ùn tới, sắc trời u ám dần, gió thổi càng mạnh thêm, như muốn giật đổ cả cây đại thụ. Hoàng Pháp Dung đứng trơ trong gió, miệng run run liên tục phát ra những âm thanh khó hiểu.
Tổ Gia hiểu rõ ý đồ, liền đế vào: “Bạch tiên nhập đồng đấy!”
Ngày xưa, người dân rất tin vào chuyện thần tiên, ma quỷ và cả người chết có thể nhập vào một người nào đó. Thấy Hoàng Pháp Dung làm náo loạn lên như vậy, lại thêm Tổ Gia vun vào, mọi người đều tin hết thảy.
Tổ Gia vén tà áo, quỳ xuống nói: “Bạch tiên tại thượng, hôm nay đệ tử làm lễ hợp táng cho đôi tân lang tân nương ở đây, không biết có Bạch tiên đại giá quang lâm, thất lễ, thất lễ!”
Hoàng Pháp Dung nói: “Ta là Nhất Bạch Linh dưới chân núi Hoàng Sơn, 500 năm trước suýt chút nữa bị kẻ ác nấu chín, may nhờ cô gái này cứu giúp mới có được đạo thân này. Nay ta đã tu thành chánh quả, đến là để báo ơn cứu mạng năm xưa, nào ngờ cô gái lại đã lìa trần. Ta đây nếu không đến kịp thì lũ các ngươi đã chôn cô gái mất rồi, may mà còn được nhìn thấy cô gái lần cuối…” Nói xong, bà ta liếc nhìn những người đứng xung quanh. “Bọn các ngươi còn không quỳ xuống, dám coi khinh Bạch tiên ta?”
Những người đứng xung quanh lúc này mới hoàn hồn, lật đật quỳ hết cả xuống.
Ông chủ Hà thành tâm nhất, cúi rạp nói: “Không biết Bạch tiên giá đáo, thất lễ, thất lễ!”
Tổ Gia cười thầm: Con ranh Pháp Dung này giải nguy trong tích tắc, tạm thời cứ nghe xem nó nói thế nào đã.
Hoàng Pháp Dung nói với mọi người: “Các người nghe đây, mau đem ngải cứu tới, ta phải làm phép xua đuổi tà ma cho cô gái, để vợ chồng họ không bị bọn quỷ đói quấy nhiễu trên đường đi xuống hoàng tuyền.”
Tổ Gia đưa mắt nhìn ông chủ Hà, tỏ ý bảo ông ta mau đi lấy.
Ông chủ Hà vội sai người hầu chạy xe đến cửa hàng thuốc ở gần đấy, mua mấy bao ngải cứu đem về.
Hoàng Pháp Dung rải ngải cứu quanh quan tài, sau đó thắp hương đốt. Ngải cứu cháy, tỏa ra thứ mùi nồng nặc, nhân đó Hoàng Pháp Dung nói thật to: “Thiên bát nhã, vạn bát nhã, sáu cõi luân hồi khổ ải nhất; sống hà tất bi ai, chết có gì khiếp sợ. Nay đưa tiễn hài nhi, kiếp sau lại được ở bên cô gái; hợp rồi tan, tan rồi lại hợp, năm trăm năm tu luyện mới được như bây giờ; ta nay báo ân …”
Lũ nhím bám quanh quan tài ngửi thấy mùi ngải cứu liền bỏ chạy tán loạn, có con chạy thục mạng vào bụi rậm, có con chạy về phía hồ nước xa tít.
Hoàng Pháp Dung thấy lũ nhím đã chạy mất, hai hàng nước mắt tuôn xuống: “Ân nhân của ta đã lên đường xuống suối vàng, ta cũng phải quay về rồi. Ta đi đây! Ta đi đây!” Nói đoạn, bà ta dướn người lên, rồi cứ thế đổ ụp xuống đất.
Khi được mọi người dìu dậy, bà hốt hoảng nhìn mọi người: “Sao vậy? Vừa xảy ra chuyện gì thế?”
“Vừa rồi, Bạch tiên nhập vào ngươi đấy.” Tổ Gia nói.
Hoàng Pháp Dung lau mồ hồi rịn ở trán, làm điệu bộ yếu ớt vô cùng. Một cơn gió ùa đến, bà suýt ngã khuỵu, may có Trương Tự Triêm đứng sau lưng đỡ lấy.
Tổ Gia ra lệnh: “Viên phần!”
Tiếng kèn được gióng lên, mọi người nâng quan tài đặt vào hố rồi lấp đất lên mộ.
THUẬT “QUỶ TƯƠNG”
Buổi tối, mọi người trở về Đường khẩu, Tổ Gia triệu tập cuộc họp khẩn cấp để phân tích, đánh giá sự việc ngày hôm nay.
Ông nói: “Vụ dàn cục lần này gặp kinh động nhưng không đến nỗi nguy hiểm, tất cả nhờ Pháp Dung biết tùy cơ ứng biến, các huynh đệ trong Đường khẩu nên học hỏi, noi gương.”
Hoàng Pháp Dung rất khôn ngoan, liền đứng dậy nói: “Đều nhờ ơn Tổ Gia dạy bảo.”
Trương Tự Triêm ở bên cạnh cũng cười rạng rỡ.
Tổ Gia cũng từng nghe nói đến thuật Quỷ tương nhưng chưa bao giờ được biết tường tận về nó. Hôm nay, Hoàng Pháp Dung đột nhiên nhắc đến khiến Tổ Gia cũng phải sởn gai ốc.
Thuật Quỷ tương là một loại ma thuật của một vài nước Đông Nam Á, được chia thành hai dạng: Tiểu Quỷ tương và Đại Quỷ tương. Tiểu Quỷ tương vật, Đại Quỷ tương nhân. Tức Tiểu Quỷ tương khống chế động vật, còn Đại Quỷ tương khống chế con người.
Theo ghi chép trong Miêu tương Cổ thuật, Quỷ tương là một kiểu Cổ thuật do Cổ thần (thần độc dược) A Luy – một cô gái tộc người Miêu – chế ra vào cuối thời Minh.
Những năm Sùng Trinh cuối thời nhà Minh, Lý Sấm Vương lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa, người tộc Miêu hưởng ứng mạnh mẽ, quan lại người Miêu ở Hồ Nam tất thảy đều quy tụ dưới trướng của Lý Sấm Vương. Để giúp ông ta đối phó với đội quân của triều đình, A Luy đã dùng loài địa long – một loại giun đất – trên đỉnh Thiên Sơn Tuyết làm vật chủ, rồi cấy loài mòng trâu sống rất dai lên mình loài địa long đó. Sau vài tháng, đem chúng luyện thành Quỷ tương u minh cổ. Loài cổ trùng này có thể ẩn náu trong cơ thể người và động vật, hút linh hồn, khống chế tâm trí.
Năm Sùng Trinh thứ 7, Lý Tự Thành đánh trận quyết chiến ở ải Ninh Vũ. A Luy đã thả loài sâu cực độc này xuống dòng nước mà quân đội triều đình sẽ uống. Sau khi bọn họ uống vào, đầu óc trở nên mơ màng, không còn một chút sức lực để chiến đấu, Lý Sấm Vương chỉ cần giáng một đòn đã công hạ được đất Thái Nguyên, tiếp tục đi chinh phạt phía Đông.
Ngày 19 tháng 3, Lý Tự Thành tiến vào Chính Dương Môn (Bắc Kinh), Sùng Trinh thắt cổ tự vẫn, Đại Minh diệt vong. Lý Tự Thành luận công ban thưởng, A Luy ỷ mình công lớn, rất vênh váo đắc ý. Không ngờ, Lý Tự Thành lại ra lệnh giết A Luy, đây gọi là chiêu qua cầu rút ván, khi ta cần anh, anh cứ lập thành tích cho ta, còn khi đã dẹp yên thiên hạ, ai dám giữ một kẻ chuyên hạ độc nguy hiểm như vậy bên mình?
Hoàng Pháp Dung nói: “Hút linh hồn, khống chế tâm trí, đều là trò bịp.” Thuật Quỷ tương thực chất áp dụng nguyên lý kết hợp âm dương mà thảy vạn vật đều có, loài cổ trùng cũng vậy. Đầu tiên, thả cổ trùng đực (tính dương) vào thức ăn hoặc nước uống, chúng cực nhỏ, mắt thường không thể nhìn thấy được. Sau khi vào cơ thể người hoặc động vật, chúng sẽ ẩn náu trong đó, sinh sôi phát triển rất nhanh, rồi theo máu lên não. Dương chủ về động, âm chủ tĩnh, một khi cơ thể vật chủ đã bị cổ trùng đực ký sinh thì sẽ cảm thấy buồn bực không yên. Lúc này, chỉ cần cho cổ trùng cái (mang tính âm) vào cơ thể một vật chủ khác (vật đích), cổ trùng đực sẽ ngửi thấy mùi của đối phương, càng cảm thấy bồn chồn hơn, liền lao thẳng tới vật đích kia, như vậy là đạt được mục đích âm dương giao hòa. Một khi đã bị thi triển thuật Quỷ tương, người hay động vật đều không thể làm chủ được cơ thể mình nữa và răm rắp nghe theo sự điều khiển của người khác. Sau này, nhiều người phụ nữ Miêu Tương đã dùng cách này để hành hạ những người đàn ông phụ tình, họ cho chồng mình uống loài cổ trùng này vì cho rằng đã không giữ được trái tim thì nhất quyết giữ chặt thể xác, đây chính là truyền thuyết về yêu nữ Miêu Tương xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc.
“Khi nhìn thấy cả đàn nhím xông ra, lại thấy chúng chẳng có vẻ gì sợ người, con biết ngay chúng đã trúng thuật Quỷ tương. Năm nọ, khi cùng bà (Kiều Ngũ Nương) đi thăm một vị Cổ sư ở Hồ Nam, con từng được tận mắt chứng kiến thuật Quỷ tương này. Có người dùng nhím, có người dùng châu chấu, có người lại dùng chuột… Sau khi đã bị khống chế, những loài vật này sẽ trở nên hung hăng khác thường, một thầy cổ trùng cao tay có thể sai khiến chúng làm bất cứ việc gì.”
Những lời Hoàng Pháp Dung nói đều là sự thật. Nhật Bản sau khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược Trung Hoa, bọn đồng cốt cũng bám theo đám quân đội vào thu thập bí kíp thuật Quỷ tương ở khắp Đông Nam Á. Vào thời kỳ xây dựng tuyến đường huyết mạch Điền – Miến (tức tuyến đường nối liền Vân Nam với Miến Điện) trong cuộc kháng chiến chống Nhật năm 1938, bộ binh Nhật không thể tiến sâu vào hậu phương Vân Nam để thực hiện hoạt động phá hoại, chúng liền dùng máy bay ném bom, ngoài bom thông thường còn ném rất nhiều bom sinh hóa (một loại vũ khí sinh học), loại bom này chứa rất nhiều vi khuẩn, nhất là loài cổ trùng đã nói ở trên. Sau khi bom phát nổ, cổ trùng sẽ tản ra khắp các khu rừng trong vùng, lũ tê tê ăn phải sẽ bị bọn thầy cúng người Nhật điều khiển, cứ thế lao ra phá hoại tuyến đường đang được thi công, tạo thành những hố sâu trên đường. Quốc dân Đảng đã phải điều động đám thầy cúng trong vùng đốt một khối lượng lớn ngải cứu mới có thể đuổi được đám này đi, đảm bảo hoàn thành tuyến đường Điền – Miến thuận lợi.
Về ngải cứu, từ xưa, người ta đã biết đến tác dụng khử tà rất hay của nó, mùi ngải cứu cũng là thứ mùi khiến lũ cổ trùng sợ nhất. Khi khói ngải cứu đi vào cơ thể vật chủ, dược tính sẽ phát tán khắp nơi và ngấm sâu vào khiến loài cổ trùng ký sinh bị hóa kiếp ngay. Đương nhiên, khói ngải cứu cũng chỉ có tác dụng đối với loài cổ trùng không nguy hiểm, nếu gặp phải Cổ sư cao tay, dùng thuật Đại Quỷ tương thì cần nhờ đến vài câu thần chú nào đó của nhà Phật mới giũ sạch tâm trí của người đã bị dính bùa.
Sau khi nghe Hoàng Pháp Dung nói về nguồn gốc của thuật Quỷ tương, mọi người mới hiểu rõ điều thần kỳ trong Cổ thuật, bấy giờ mới bắt đầu nhốn nháo bình phẩm.
Tổ Gia trầm ngâm nghĩ, không biết kẻ nào dám chui trong quan tài giở trò, tạo ra cảnh tượng giả mạo quan tài đầy tóc đen, rồi lại thi triển Tiểu Quỷ tương hòng phá hỏng việc hợp hôn?
Ông đang mải nghĩ ngợi thì một tên tay chân vào báo rằng có một người bạn làm trong tòa soạn báo Thượng Hải đến thăm. Tổ Gia cầm đồng hồ quả quýt ra xem, lúc đó đã giờ Tý nửa đêm, chắc chắn có chuyện rồi, liền nói: “Mau mời vào thư phòng đợi ta!”
Người khách đó chính là vị Phó tổng biên tập tòa soạn, họ Ngô, tên Quân Nhiên, là nội ứng trong tòa soạn mà Tổ Gia phải bỏ ra cả đống tiền để mua chuộc, những bài viết ca ngợi Tổ Gia trên báo đều do Ngô Quân Nhiên làm.
Ngô Quân Nhiên chẳng tỏ ra khách sáo, đưa ngay cho ông một tờ giấy nói: “Tổ Gia, ông đọc đi!”
Tổ Gia thót tim khi cầm lên đọc. Đó là một mẩu tin, có tiêu đề Chân tướng trò hợp âm hôn, truyền nhân Thiết Bốc Tử hết đường. Nội dung đại thể nói rằng, bọn Tổ Gia chuyên lừa đảo ở Giang Hoài bao năm nay, gần đây giả thần giả quỷ làm lễ hợp hôn cho người cõi âm, kết quả khiến trời nổi cơn thịnh nộ, người oán hận thấu xương, nên vào ngày chôn cất, Bạch tiên kéo đến quấy phá, cắn nát quan tài, xương cốt vung vãi khắp mặt đất.
“Tin này có từ lúc nào?” Tổ Gia hỏi Ngô Quân Nhiên.
“Tin này vốn sẽ được phát vào ngày mai, nhưng trước lúc đem đi in đã bị hủy. Việc này đều do Tổng biên tập đích thân dàn xếp, ngay cả tôi cũng không biết gì. Tòa soạn quy định rõ, những tin được phát hành vào ngày hôm sau thì phải chuẩn bị sẵn sàng từ hôm trước, sau đó đem đi in suốt đêm, để buổi sáng giao đi khắp phố. Mỗi biên tập viên sẽ phụ trách một mảng, thu thập và cung cấp bản thảo, tin bài của mảng mình phụ trách, những bản thảo bị thu hồi ngay khi sắp được phát hành đều bị tiêu hủy hết, may mà chỗ thu hồi có người của tôi, anh ta đã đưa bản này cho tôi. Tôi thấy chắc hẳn đã xảy ra chuyện, nên vội vàng đến báo cho Tổ Gia một tiếng.” Ngô Quân Nhiên nói.
Tổ Gia nghe xong, thở dài: “Xem ra chúng đã ủ mưu từ lâu rồi.”
Ngô Quân Nhiên hỏi: “Ủ mưu từ lâu?”
Tổ Gia nói: “Hôm nay ta làm lễ hợp âm hôn, quả đúng là có cả đàn nhím kéo đến phá, nhưng đã bị ta hóa giải rồi. Cho nên, bài viết này mới bị hủy đi. Kẻ nào đã đưa bài này đến tòa soạn? Có thể điều tra ra hắn không?”
Ngô Quân Nhiên nói: “Tôi hỏi rồi, nghe nói do đích thân Tổng biên tập đưa!”
“Đích thân hắn?” Tổ Gia cảm thấy sự việc càng ngày càng nghiêm trọng.
Sau khi đưa cho Ngô Quân Nhiên mấy chục đồng bạc trắng, Tổ Gia thì thầm vài câu với anh ta, Ngô Quân Nhiên lẳng lặng quay về tòa soạn.
DỊCH SỐ TAM THỨC
Sau khi tĩnh tâm lại, Tổ Gia quay lại Đường hội, nói: “Từ giờ mọi người phải đề cao cảnh giác, có kẻ ngầm giở trò sau lưng chúng ta.”
Nhị Bá đầu sừng sộ: “Mẹ kiếp! Có giỏi thì đường đường chính chính làm một trận!”
Tổ Gia không nói gì, đưa mắt nhìn các Bá đầu còn lại đang ngồi nguyên tại chỗ, đề phòng kẻ khác không bằng cảnh giác giặc trong nhà, vụ quan tài đầy tóc đen rõ ràng là có người đã tiết lộ chuyện cơ mật của Đường khẩu, nên đối phương mới có thể bố trí phối trong hợp ngoài như thế. Nhìn các Bá đầu vẫn cái vẻ đạo mạo hiên ngang ngồi đây, trông ai cũng giống người, mà lại chẳng phải người.
Phái Giang Tướng có rất nhiều điều cấm kỵ, tất cả đều được ghi rõ trong Trát phi mật bản, đây đều là chuyện vô cùng cơ mật của Đường khẩu. Đại kỵ hữu tam, tiểu kỵ hữu ngũ. Đại kỵ chính là ba việc sẽ phải mất đầu mà không một ai dám làm, tiểu kỵ là trừ khi Đường khẩu nghèo đến nỗi không có gì ăn, nếu không tuyệt đối không được phép làm, còn khi làm cũng phải hết sức thận trọng, sau khi xong phải tích cực làm việc thiện, để mong hóa giải được nạn tai.
Ba việc đại kỵ đó là: Ô phát già quan bất khả trát, thiên niên cổ thụ bất khả động, miếu vũ đạo đài bất khả hủy.
Ô phát già quan bất khả trát. Chính là tình huống tóc mọc trong quan tài mà Tổ Gia vừa gặp phải.
Thiên niên cổ thụ bất khả động. Những cây cổ thụ nghìn năm tuổi rất linh thiêng, đa phần đều có quỷ thần canh giữ, tuyệt đối không được phép động vào. Quan lại khi cho sửa đường, nếu gặp phải cây cổ thụ thì thà đi vòng qua chứ tuyệt không dám chặt. Năm xưa, Tào Mạnh Đức (tức Tào Tháo) uy phong lẫm liệt không ai bì nổi đã không tin chuyện tà ma, liền vung kiếm chặt đổ cây lê trăm tuổi, kết quả bị trúng phong, xuất huyết não mà chết.
Miếu vũ đạo đài bất khả hủy. Chùa miếu, đạo quán đều là chốn thanh tu, người xuất gia thờ Tam Bảo, cúng Tam Thanh, là những bậc đại thiện, là cha mẹ chúng sinh trong thiên hạ. Nếu ngay cả những nơi này cũng dám giày xéo thì thật đúng là tội đáng chết. Cho nên phái Giang Tướng chưa từng dám phá hủy một kiến trúc tôn giáo nào, càng không dám phá tượng Phật, dỡ ban thờ thần linh.
Năm điều tiểu kỵ đó là:
Nhất kỵ ô vân già nguyệt hợp âm hôn. Khi mây đen che kín mặt trăng, nếu có mèo, chó đến quấy phá, sẽ gây ra hiện tượng xác chết vùng dậy, cho nên các A Bảo phải đặc biệt chú ý tình huống này.
Nhị kỵ lôi vũ giao gia điểm long mạch. Khi xem phong thủy cho người ta, các A Bảo sẽ cầm la bàn đi quanh núi, đây gọi là tầm long điểm huyệt, nếu lúc này đột nhiên trời âm u thì phải nhanh chóng thu dọn, tạm thời không tìm nữa, vì người xưa cho rằng trời mưa có liên quan đến Long Vương. Khi trời mưa, tức Long Vương đã tới, anh còn dám điểm huyệt ông ta, chẳng phải muốn chết hay sao?
Tam kỵ Thái Tuế đầu thượng lai động thổ. Người xưa nói, Lưu niên là năm có sao Thái Tuế chiếu, Lưu niên do thiên can và địa chi kết hợp với nhau mà thành. Thiên can và địa chi lại kết hợp với ngũ hành, bát quái và phương vị, cho nên trong mỗi năm khác nhau sao Thái Tuế sẽ ở phương vị khác nhau, khi các A Bảo điều chỉnh phong thủy cần phải hết sức ghi nhớ không được phép động thổ ở phương vị có sao Thái Tuế, nếu không sẽ xung khắc Thái Tuế, dẫn đến tai họa ngập đầu.
Tứ kỵ nhất cục tàn sát chúng sinh linh: Các A Bảo dàn cục, có lúc phải sát sinh, giết vài con gà con chó thì không phải bàn đến làm gì, nhưng có lúc vì dàn cục lớn sẽ phải sát sinh hàng loạt, như khi dàn cục huyết tế. Đây là việc rất kỵ, vì sẽ khiến kẻ sát sinh đoản mệnh, việc Kiều Ngũ Muội dàn đại cục dụ cá đã phạm vào điều cấm kỵ này.
Ngũ kỵ đăng hoa tự diệt thứ nhật hành. Thời xưa chưa có đèn điện, người ta phải dùng đèn dầu hoặc nến để có ánh sáng. Khi các A Bảo lập mưu, lên kế hoạch dàn cục, vào buổi tối trước ngày hành động, nếu ngọn đèn trên bàn đột nhiên bị tắt phụt, hoặc đèn lồng treo trước cửa bị tắt vô cớ, đều bị coi là những điềm không tốt lành. Người xưa thường nói, “đèn tự vụt tắt báo hiệu có tang”, lúc này, bất kể vụ dàn cục quan trọng thế nào, có thể kiếm được bao nhiêu tiền, đều phải dừng tay.
Cuốn Trát phi mật bản là bảo vật trấn trạch của Đường khẩu, các A Bảo đẳng cấp khác nhau sẽ được truyền thụ nội dung khác nhau, bọn tay chân chỉ được biết phần râu ria bên ngoài, các Bá đầu có thể được tiếp cận đến những thứ ở tầng cấm kỵ và một vài phương pháp Trát phi cao siêu, những người đọc thông cuốn sách này chỉ có Tổ Gia và Trương Tự Triêm; Hoàng Pháp Dung là một trường hợp ngoại lệ, vì khi còn ở Việt Hải Đường, bà đã là “Linh muội” của Đường khẩu, chuyên phụ trách những việc liên quan đến quỷ thần, bởi vậy sau khi đến làm dâu Mộc Tử Liên, những việc này cũng chẳng thể giấu được bà. Tổ Gia vì vậy mới để cho bà và Trương Tự Triêm cùng phụ trách công việc chỉnh lý Trát phi mật bản.
Nhìn các vị Bá đầu, Tổ Gia lại liên tưởng đến cái chết của Trương Kế Nghiêu. Bất giác ông rùng mình, ông không thể không nghĩ đến sự an nguy của chính mình.
Tổ Gia lườm Nhị Bá đầu một cái, rồi quay người nói với Tề Xuân Phúc: “Lão tứ, ý kiến thế nào?”
Tề Xuân Phúc nói: “Tổ Gia, theo tin tức mà chúng ta nắm được, chuyện Mai Huyền Tử biến thành tiên là giả, Trương Kế Nghiêu chết là thật, vùng Giang Hoài thiên hạ chia ba, Trương Kế Nghiêu chết rồi, Mai Huyền Tử là kẻ đáng ngờ nhất.”
Hoàng Pháp Dung ngẩng đầu lên định nói. Nhưng bà chỉ là hạng chân tay, không được Tổ Gia cho phép, không được tùy tiện phát biểu. Đương nhiên, chi tiết nhỏ này không lọt qua được mắt Tổ Gia, nhưng ông không cho bà nói.
Tam Bá đầu lên tiếng: “Nếu Mai Huyền Tử muốn nhất thống thiên hạ thì tại sao khi Đường chủ Thiên Thánh Đạo Trương Kế Nghiêu chết, ông ta lại không thừa cơ sấn đến mà vẫn để cho đại đồ đệ của Trương Kế Nghiêu là Tả Vịnh Thiền thế chỗ rất hợp lẽ, không hề gây ra đại loạn trong Thiên Thánh Đạo. Hình như hai tên này ngấm ngầm giao kèo với nhau.”
Tổ Gia cười: “Ta chưa thấy ông hồ đồ bao giờ.”
Đại Bá đầu xen vào: “Nghĩa là, cái chết của Trương Kế Nghiêu quá mập mờ, chỉ Tả Vịnh Thiền mới là người rõ nhất.”
Hoàng Pháp Dung lại định nói, nhưng Tổ Gia vẫn chưa cho bà cơ hội.
Tổ Gia đưa mắt nhìn Ngũ Bá đầu: “Ý lão ngũ thế nào?”
Lão ngũ Lương Văn Khâu lắc đầu: “Tổ Gia, thứ lỗi cho lão không rõ đầu đuôi, mắt lão kèm nhèm, không nhìn ra được.”
Đúng lúc còn chưa rõ thực hư thế nào, Mai Hoa Hội lại tung thêm động thái mới, Mai Huyền Tử tuyên bố mình đã luyện thành công Dịch số tam thức.
Dịch số tam thức là kỹ pháp đặc biệt, có thể cách không thủ vật, xuyên tường độn thổ, tịch cốc. Đây là ba phép thuật cao siêu nhất trong huyền học mà một kẻ tu theo Đạo gia đều muốn lĩnh hội được. Vô số những người mộ đạo muốn tu luyện thành tiên trong lịch sử đều theo đuổi ba loại phép thuật này, nhưng thật sự đắc đạo chỉ lác đác đôi ba người.
Theo tài liệu lịch sử ghi chép, Dịch số tam thức đã phát triển đạt đến mức hoàn chỉnh nhất vào thời Tam Quốc.
Cuối thời Đông Hán, vùng Lư Giang có một đạo nhân (người tu tập Đạo gia) tên là Tả Từ. Tào Tháo nghe nói người này vô cùng lợi hại nhưng không tin. Một hôm, ông ta cho mở tiệc chiêu đãi văn võ bá quan, cũng phái người mời Tả Từ đến.
Tại bữa tiệc, Tào Tháo cố ý muốn thử phép thuật của Tả Từ, liền nói: “Hôm nay ta mở tiệc lớn, các món sơn hào hải vị trong thiên hạ đều đủ cả, chỉ thiếu mỗi loài cá sạo trên sông Ngô Tùng (sông Tô Châu ngày nay). Tiên sinh có cách nào mang nó về không?”
Tả Từ cười lớn: “Thừa tướng, việc này có khó gì? Để tôi làm phép cách không thủ vật, chỉ cần duỗi tay ra là có thể lấy được cá trên sông cách xa nghìn dặm.”
Tào Tháo sững người.
Tả Từ lấy một cái thau đồng, giơ lên cao, miệng đọc thần chú, rồi lật ngửa ra, một con cá sạo dài chừng một tấc nhảy ra, còn tươi roi rói.
Tào Tháo vỗ tay cười lớn, rồi lại nói: “Cá sạo thì tươi roi rói, mà lại thiếu gừng đất Thục!”
Tào Tháo nghĩ: Vừa rồi chắc Tả Từ đã dùng chiêu trò để qua mắt ông ta, chắc chắn đã giấu cá trong tay áo từ trước, ta muốn miếng gừng tươi của nước Thục cho phải vị, xem ngươi sẽ biến phép thế nào!
Tả Từ giơ tay vuốt chòm râu dài, nói: “Thừa tướng đợi một chút, tôi đến đất Thục, thoáng chốc quay về ngay.”
Dứt lời, bụi đất ùn lên, vù một cái Tả Từ chui xuống đất, đi xuyên qua núi, băng qua huyệt đạo, thay hình đổi dạng, thoắt cái đã từ đất Thục trở về, tay cầm một nắm gừng dâng lên Tào Tháo: “Thừa tướng, xin mời!”
Tào Tháo ngây người ra. Đám khách khứa đều kinh ngạc.
Tào Tháo lập tức sai người bắt trói Tả Từ, tống vào đại lao, đến lúc ấy vẫn cho rằng Tả Từ đã dùng tà thuật để đùa giỡn mình. Sau đó, mỗi ngày chỉ cho Tả Từ hai bát nước, Tào Tháo nói với thủ hạ: “Ta nghe nói người này có thể chẳng cần ăn gì cũng vẫn sống được đôi ba năm.” Ông ta muốn xem trên đời này đúng là có trò tịch cốc hay không.
Kết quả, hai năm sau, Tào Tháo cho người thả Tả Từ ra, sắc mặt ông vẫn hồng hào, dáng dấp chẳng khác trước đây, không hề có biểu hiện đau ốm gì.
Lúc này, Tào Tháo mới tâm phục khẩu phục nói với Tả Từ: “Tiên sinh à, A man muốn học được những bản lĩnh này.” Tào Tháo tự xưng là “A man”, thể hiện rõ bản chất xảo quyệt khiến người ta líu lưỡi vì sợ.
Tả Từ cười lớn: “Thừa tướng là người phú quý, lại bị trói buộc trong vòng danh lợi, há có thể học đạo?”
Tào Tháo nhận ra rằng, không thể dùng được con người này mà phải giết ngay, liền ra lệnh giết hại Tả Từ.
Tả Từ sớm đã biết Tào Tháo lòng dạ hiểm ác, liền độn thổ trốn, về sau ẩn cư ở Giang Nam, rồi thu nhận Cát Huyền làm đồ đệ, Cát Huyền chính là Thái Cực Tiên Ông tiếng tăm lừng lẫy trong Đạo giáo. Tả Từ thọ đến 134 tuổi, rồi hóa tiên.
Đây chính là những ghi chép hoàn chỉnh nhất liên quan đến Dịch số tam thức trong lịch sử. Nay, Mai Huyền Tử lại vin vào Dịch số tam thức hòng giở trò bịp bợm, ngang nhiên lôi kéo quần chúng tin theo, không biết trong cái hồ lô của lão bán thứ thuốc gì.
Điều quan trọng hơn cả là Mai Hoa Hội năm lần bảy lượt gây rối khiến Mộc Tử Liên càng ngày càng khó kiếm được miếng ăn. Quần chúng nhân dân đều tin Mai Huyền Tử, không còn ai đi tìm Tổ Gia xem tướng số nữa. Nếu cứ như thế, e rằng phái Giang Tướng chẳng còn mảnh đất cắm dùi ở đất Giang Hoài này nữa.
Tổ Gia biết rõ, Mai Huyền Tử là người thận trọng, nhưng gần đây lại đổi khác hoàn toàn. Vậy nên, cần phải bình tĩnh, xâu chuỗi lại tất cả để suy nghĩ cho thật thông suốt, thấu đáo.
Sau khi Đường hội giải tán, Tổ Gia cho tất cả mọi người lui xuống. Còn mình đi vào thư phòng, quản gia pha cho ông một ấm trà Long Tỉnh, ông ngồi một mình vừa uống vừa ngẫm.
Lúc canh hai, quản gia báo có Hoàng Pháp Dung xin gặp. Tổ Gia đoán thế nào bà cũng sẽ tới, chỉ bất ngờ là Trương Tự Triêm không đi cùng.
Sau khi hành lễ trước Tổ Gia, Hoàng Pháp Dung liền ngồi xuống, nói: “Tổ Gia, con có vài thiển kiến, khi họp đường hội không dám mở miệng.”
Tổ Gia nói: “Không phải không dám, mà là ta không cho ngươi nói.”
Hoàng Pháp Dung cười: “Tổ Gia, con thấy việc quan trọng nhất trước mắt là làm rõ tình hình bên chỗ Mai Huyền Tử, không biết người chúng ta cài cắm bên đó thế nào?”
Tổ Gia nói: “Không thấy tin gì! Chúng ta cài tai mắt trong hàng ngũ của người ta, người ta cũng cài tai mắt trong hàng ngũ của mình, bao nhiêu năm nay vẫn giơ mặt tranh giành nhưng ngấm ngầm đấu đá, đây đã chẳng còn là bí mật nữa. Quan trọng là, kẻ nào phát hiện ra giặc trong nhà mình trước, khử hoặc ép được hắn làm phản thì kẻ đó sẽ đi trước. Mấy năm nay, vì việc này mà chúng ta đã mất ba người rồi, ta thấy sắp đến lượt người thứ tư.”
Hoàng Pháp Dung nói: “Ý Tổ Gia là người mà ta cài vào bên đó đã bị ép làm phản ư? Hắn chơi hai mang?”
Tổ Gia nhìn bà ta hỏi: “Ngươi nghĩ sao?”
Hoàng Pháp Dung nhìn Tổ Gia, nói: “Có hai khả năng, một là người của ta đã bị ép làm phản, hai là có giặc trong nhà. Nếu không, không thể có chuyện trùng khớp như vậy được. Quan tài tóc đen là điều đại kỵ của phái Giang Tướng, rõ ràng đối phương biết tỏng chúng ta kỵ dàn cục này, thế mà vẫn đâm thẳng vào chỗ hiểm đó, ép chúng ta phải xuất chiêu; sau đó dùng Tiểu Quỷ tương vào ngày chúng ta làm lễ hợp âm hôn, quấy phá hiện trường; lại còn chuẩn bị sẵn tin cho đăng báo, hòng bôi nhọ thanh danh của chúng ta! Làm như vậy, không chỉ khiến người dân vùng Giang Hoài nghi ngờ bản lĩnh thật sự của Tổ Gia, từ đó đủ để hạ thấp uy tín của Mộc Tử Liên, mà còn khiến các Bá đầu trong nội bộ phái Giang Tướng nghĩ rằng, tại Tổ Gia phạm vào điều cấm kỵ của tổ tông, làm cho quỷ thần nổi giận, đẩy Đường khẩu vào cảnh khốn khó như bây giờ. Xem ra, chiêu này đúng là một mũi tên trúng hai đích. Nhưng chúng lại không lường được rằng, chúng ta đã phát hiện ra trò mèo đó, lại còn phá giải được thuật Quỷ tương. Cho nên, tới bước này thì chúng thua rồi.”
Chỉ trong khoảnh khắc, Tổ Gia chợt nhận ra, con nhóc đang đứng trước mặt mình đây trưởng thành rồi, đã biết nhìn nhận vấn đề đâu ra đấy. Tổ Gia bất giác thầm nghĩ: Mình làm mối đám này, xem như có thể tạ lỗi với vong linh của cha mẹ Trương Tự Triêm ở trên trời rồi. Có Hoàng Pháp Dung chăm sóc, đời này Trương Tự Triêm nhất định sẽ được hạnh phúc. Nghĩ đến đây, Tổ Gia mỉm cười, lòng nhẹ nhõm hẳn.
“Ngươi thấy bước tiếp theo chúng ta phải làm gì?” Tổ Gia hỏi.
Hoàng Pháp Dung đáp: Thiên Thánh Đạo và Mai Hoa Hội đều đang mở rộng cửa chiêu dụ tín đồ, chúng ta có thể nhân cơ hội này sắp xếp mấy người mới trà trộn vào nội bộ của chúng. Đồng thời, những cuộc họp quan trọng của Đường khẩu cần phải tinh giản thành viên tham dự, vì hiện giờ chúng ta chưa rõ rốt cuộc trong nhà có kẻ làm phản hay không.”
Tổ Gia lại cười. Ông bắt đầu nhìn con nhóc đến từ Việt Hải Đường này bằng con mắt khác. Hơn một năm nay, Hoàng Pháp Dung và Trương Tự Triêm đã gợi cho ông rất nhiều ý hay. Ý định cất nhắc hai vợ chồng họ cũng là việc ông đang xem xét.
Hoàng Pháp Dung thấy Tổ Gia cười, biết mình đã nói trúng tâm ý ông nên cũng cười rất tươi.
Tổ Gia liền chuyển chủ đề: “Tự Triêm đang bận việc gì?”
Hoàng Pháp Dung cười nói: “Đang xông ngải cứu.”
“Nó ốm à?”
Hoàng Pháp Dung nói: “Dạ không phải. Chỉ là bệnh lo xa thôi. Chẳng là mấy ngày trước, anh ấy và Nhị Gia đến xem tử thi của cô gái mọc đầy tóc trong quan tài, lúc đó anh ấy đã lấy trộm về hai sợi tóc, bây giờ biết được đối phương dùng Tiểu Quỷ tương, anh ấy sợ bọn họ thả cổ trùng vào quan tài, còn mình đã sờ vào đầu cô ta có thể sẽ bị lây.”
Tổ Gia nói: “Chẳng phải ngươi đã nói rồi sao, thuật Quỷ tương dùng nguyên lý âm dương thu hút nhau, trên người lũ nhím đều là cổ trùng động giống đực, còn trong quan tài chắc chắn là toàn cổ trùng tĩnh giống cái. Chỉ cần không cho âm dương giao hòa thì cổ trùng không thể phát huy tác dụng còn gì.”
Hoàng Pháp Dung nhếch môi cười: “Anh ấy nhát chết, con đã nói rồi không nghe, đang ở nhà châm cứu huyệt Túc tam lý đó.” Nói xong, Hoàng Pháp Dung thở dài. “Giá mà anh ấy gan dạ được như Tổ Gia thì tốt.”
Tổ Gia cười sảng khoái, nói: “Không dạy được chồng, bởi vợ biếng nhác, cần phải xem lại ngươi.”
Hoàng Pháp Dung đang định tiếp lời, không ngờ Tổ Gia lại chuyển chủ đề: “Ngươi tinh thông Kỳ môn từ nhỏ, ta hỏi ngươi, trên đời này liệu có đạo thuật huyền môn thật không? Ví như thuật: cách không thủ vật, xuyên tường độn thổ, tịch cốc…”
Cặp mắt to của Hoàng Pháp Dung chợt lóe lên, đang định trả lời, đột nhiên quản gia chạy vào bẩm: “Bên ngoài có người xin gặp, ông ta nói là người của Cửu gia!”
Tổ Gia giật mình, vội nói: “Mau mời vào!” Rồi ông đưa mắt ra hiệu cho Hoàng Pháp Dung. Hoàng Pháp Dung liền quay người đi vào thư phòng.
TẢ VỊNH THIỀN TỚI THĂM
Khi quản gia dẫn người kia vào, Tổ Gia thoạt nhìn nghĩ ngay, nào phải người của Cửu gia gì, rõ ràng là ông Giáo đầu của Tinh Võ Môn. Người này họ Tăng, tên Kính Võ, từng nhiều lần tỏ ra ngưỡng mộ danh tiếng và đến bàn luận về tiêu pháp (cách dùng phi tiêu) với Tổ Gia.
Tăng Kính Võ chắp tay nói với Tổ Gia: “Tổ Gia, đêm hôm tới thăm, quấy quả ông rồi.“
Tổ Gia cười nói: “Tăng Giáo đầu trước giờ ‘vô sự bất đăng Tam Bảo điện, lần này tới đây có gì chỉ giáo?”
Tăng Kính Võ nghiêm mặt nói với Tổ Gia: “Tổ Gia, sự thể hơi căng, tôi không vòng vo nữa. Tôi chính là người chỗ Cửu gia, thân phận võ sư trong Hội quán Tinh Võ chỉ là vỏ bọc, tôi ẩn náu trong hội nhằm mục đích phát triển thêm nhiều hội viên cho Hội quán Tinh Võ để gia nhập vào đội quân kháng Nhật, đương nhiên chúng tôi cũng đã chọn ra một vài thân sĩ ái quốc có tâm huyết vào làm môn hạ của Cửu gia. Nay Quốc dân Đảng và người Nhật đều đang lùng sục tìm Cửu gia, tình cảnh Cửu gia rất nguy khốn, phải rời khỏi Giang Hoài một thời gian, sau này Tổ Gia có việc gì cứ đến thẳng Hội quán Tinh Võ tìm tôi.”
Nói xong, Tăng Kính Võ lấy từ trong người ra một lá thư: “Cửu gia căn dặn tôi phải tận tay đưa cho ông.”
Tổ Gia sững người, thì ra vị Tăng Giáo đầu thường xuyên cùng ông bàn luận về võ nghệ này lại chính là học trò của Cửu gia. Xem ra, Cửu gia một mặt giúp đỡ mình, mặt khác cũng muốn quan sát biểu hiện của mình, nghĩ đến đây, Tổ Gia thấy dựng tóc gáy.
Tổ Gia mở thư ra xem, vừa đọc đã toát mồ hôi! Đây là chuyện vô cùng hệ trọng, nếu thành công sẽ làm kinh động đến cả thế giới!
Vương Á Tiều tự tay viết:
Quan Sinh đệ,
Ngu huynh xuất thân nghèo hèn, thường dân áo vải, nhưng chưa lúc nào dám nguôi nỗi lo cho đất nước. Từ khi ngọn cờ cách mạng Tân Hợi được kéo lên tới nay, dòng Giang Tây chìm trong sương khói than khóc như mưa, giang sơn đất Bắc chẳng còn, đường đường là nước Trung Hoa mà không thể kẹp chết bầy giặc Nhật lang sói. Giương mắt nhìn đất Hoa Hạ chìm trong đau thương mà rơi lệ, ta thề đem thân này giúp nước, đem sức của kẻ nho sinh yếu nhược mà gánh vác công lý đang gặp buổi thăng trầm. Ta từng Bắc trạm thích Tống, Lư Sơn thích Tưởng, tham gia kháng chiến Tùng Hộ, ném bom bắn nát thi thể Yoshinori, xả thân quên mình, thấm thoắt đã 20 năm, chẳng oán thán chẳng run sợ. Kẻ ngu tối sao hiểu được chí nam nhi cứng rắn kiên cường, miếu đường trên cao chẳng soi tỏ cảnh nước nhà đã mất. Người ta đều bảo, thế nhân sợ ma quỷ, ma quỷ sợ Á Tiều, ngu huynh cả đời chỉ muốn thức tỉnh lòng nhiệt huyết của trai gái Hoa Hạ, cuối cùng mang cái tiếng ngang hàng quỷ dữ. Đau đớn thay! Bi ai thay!
Năm Dân quốc thứ 6, lần đầu quen biết đệ, đệ lạc vào Giang Tướng âu cũng là ý trời đã định. Hiền đệ luôn biết làm theo luân thường, thay trời hành đạo, là đấng nam nhi! Số ta và đệ đều phải “vào rừng làm cướp”, tuy cách biệt phương trời mà rất hợp ý tâm đầu.
Nay, giặc Nhật tràn tới, đất nước lâm nguy, cục diện trước mắt nội chiến liên miên không dứt, những việc trái đạo trời tất sẽ bị cả nước căm hận, huynh không biết tự lượng sức mình, lại muốn mưu việc lớn tại Nam Kinh, chặt đầu ba tên Hán gian thề rửa nhục cho đất nước, lấy thân mình mang chính nghĩa chiếu khắp Hoa Hạ. Việc này không thành công cũng thành nhân, nếu ngu huynh gặp điều bất trắc, đệ hãy nén đau thương, tiếp bước chí lớn của ta, dưới suối vàng ta xin cảm tạ!
Kính Võ là đàn em của ta, can đảm, nhân nghĩa, tin tức ở tuyến bắc đều do đệ ấy lo, hãy giữ liên lạc thường xuyên.
Cầm bút lên, đau lòng rơi lệ, tình huynh đệ, nhắm mắt chẳng quên. Đệ hãy bảo trọng!
Ngu huynh Á Tiều
Giờ Hợi ngày Canh Tý
Tổ Gia đọc xong, lòng nặng trĩu. Ông vô cùng kính trọng Vương Á Tiều, giờ đây ông ấy bị dồn ép đến nỗi không có chốn ẩn thân, còn mình lại không thể giúp được gì, nghĩ đến đây, Tổ Gia tự trách bản thân mình. Đáng sợ hơn nữa, Vương Á Tiều lại muốn ám sát Tưởng Giới Thạch lần nữa, ngộ nhỡ sẩy tay, hậu quả khó mà tưởng tượng nổi, rất có thể sau này không còn được gặp vị Cửu gia này nữa.
Bao nhiêu năm nay, Vương Á Tiều đã chăm lo cho Tổ Gia rất nhiều, mỗi khi Tổ Gia gặp chuyện, ông ấy liền giang tay trợ giúp, ân tình lớn này, không biết dùng lời nào kể hết.
Tổ Gia liền sai quản gia mài mực, chấp bút hồi đáp. Tổ Gia kể rõ hoàn cảnh khốn cùng của mình, đồng thời dường như là giọng điệu khẩn khoản thỉnh cầu, mong Vương Á Tiều hành sự cẩn trọng. Cuối cùng, trước khi dừng bút, Tổ Gia nhấn mạnh: “Thế gian vô số bậc anh hùng, Quan Sinh chỉ quen biết Vương Á Tiều, Cửu gia xin hãy bảo trọng, Trung Hoa may mắn thay!”
Sau khi viết xong, nước mắt cũng chảy tràn trên khuôn mặt, ông liền đưa lá thư cho Tăng Kính Võ. Tăng Kính Võ thi lễ cáo lui.
Tổ Gia lặng thinh ngồi trên ghế, tâm trí rối bời. Họ đúng là những người anh em cùng chung số mệnh, Cửu gia bị người Nhật bức ép tới mức không còn đường nào đi được, còn bản thân ông cũng đang bị các hội đạo môn ở Giang Hoài dồn vào chân tường…
Hoàng Pháp Dung bưng một chén trà đi tới, Tổ Gia thấy có người vào thì vội vàng lau những giọt nước mắt còn đọng nơi khóe mắt. Hoàng Pháp Dung đưa cho ông một chiếc khăn tay, Tổ Gia chẳng nghĩ ngợi, cầm lấy lau nước mắt rồi mới chợt nhận ra một mùi hương khác lạ nơi chiếc khăn tay, Tổ Gia sững người nhận ra Hoàng Pháp Dung, liền xua tay nói: “Ngươi lui đi!”
Hoàng Pháp Dung thưa: “Vâng”, rồi quay người đi ra, ra đến cửa liền ngoảnh lại nói: “Tổ Gia như vậy, Pháp Dung nhìn thấy thì không sao, nhưng đừng để cho các huynh đệ trông thấy.” Nói rồi bước ra ngoài.
Tổ Gia nhìn theo bóng bà ta, sắc mặt nặng trĩu.
Hoàng Pháp Dung vừa đi khỏi được một lúc, tiếng gõ cửa lại vang lên. Quản gia vào bẩm báo rằng, chưởng môn mới nhậm chức của Thiên Thánh Đạo là Tả Vịnh Thiền đến thăm. Tổ Gia ruột gan bồn chồn, sao hắn lại đến?
Tả Vịnh Thiền ít hơn Tổ Gia vài tuổi, người nhỏ thó, mặt hoẵng mắt chuột, râu dài hình chữ bát, nhìn từ xa, chẳng khác gì một con chuột chù. Nhưng thằng cha đó lại tinh khôn lạ thường, giỏi ăn nói, cầm đầu cả nghìn đệ tử ở Giang Hoài. Tả Vịnh Thiền là đại đệ tử của Trương Kế Nghiêu, đứng đầu mười trượng, nên được gọi là thủ trượng, đi cùng còn có hai tên thanh y.
Tổ Gia sai người rót trà, sau thoáng rùng mình, ông hỏi: “Tả chưởng môn đêm khuya tới thăm, có gì chỉ bảo?”
Tả Vịnh Thiền cười nói: “Thầy tôi hóa thành tiên, Vịnh Thiện bất tài, được các huynh đệ tôn lên kế thừa y bát của thầy. Khi thầy tôi còn sống vẫn thường qua lại thân thiết với Tổ Gia, nay tôi theo lệnh thầy, giữ gìn mối giao hảo giữa hai nhà. Hôm nay tới đây, cốt là giúp gỡ bỏ mối nguy lo canh cánh trong lòng Tổ Gia!”
Tổ Gia chột dạ, nhưng vẫn tỏ vẻ bình thản, cười khà khà: “Đâu dám, đâu dám, Trương Gia đắc đạo thành tiên là việc rất đỗi vui mừng, mong Trương Gia không bỏ mặc chúng sinh, về trời vẫn một lòng từ bi hạnh nguyện, phù hộ cho hương hỏa hai nhà chúng ta được phát vượng! Tả chưởng môn là cao đồ của Trương Gia, có thể cai quản Thiên Thánh một phương, càng là phúc của dân chúng Giang Hoài.”
Tổ Gia đang chơi thái cực quyền, cố lánh nặng nương nhẹ, tránh đi thẳng vào vấn đề.
Tả Vịnh Thiền cười ha hả: “Người ta đều nói Tổ Gia rất mực điềm đạm, ung dung, đứng trước nguy nan chẳng hề run sợ, nay được chứng kiến, quả danh bất hư truyền! Tổ Gia có biết vụ quan tài tóc đen là do ai làm không?”
Thấy Tả Vịnh Thiền đã nói toạc ra vậy, Tổ Gia cũng chẳng vòng vo nữa, nụ cười trên mặt liền biến mất, ông nói: “Các đạo môn ở vùng Giang Hoài nhiều vô kể, bỉ nhân không biết đã đắc tội với vị Bồ tát nào, để họ phải làm ra chuyện xấc xược thế!?”
Tả Vịnh Thiền liếc nhìn Tổ Gia một cái, nói: “Chính là Mai Huyền Tử đấy!”
Tổ Gia cúi đầu nói: “Xin Tả chưởng môn minh thị!” Câu này ý rằng, ông nói vậy thì tôi biết vậy, nhưng làm sao ông biết, đầu đuôi sự việc như thế nào?
Tả Vịnh Thiền đưa mắt nhìn đám người đứng xung quanh, Tổ Gia xua tay một cái, người quản gia và hai tên thanh y đứng bên cạnh Tả Vịnh Thiền đều lui hết xuống. Tả Vịnh Thiền nói rất nhỏ, Tổ Gia chăm chú lắng nghe.
ĐÈN LỒNG TRÊN TƯỜNG
Canh ba, Tả Vịnh Thiền ra về. Tổ Gia nằm trên giường ngẫm nghĩ, những lời Tả Vịnh Thiền nói khiến ông trằn trọc suốt đêm không sao chợp mắt được.
Ngày hôm sau, tờ Hộ Báo (báo Thượng Hải) cho đăng dòng tin: Lễ cúng cô hồn ngày Rằm tháng 7 sắp đến, đại sư Mai Huyền Tử muốn thắp đèn quỷ bên bờ sông Hoàng Phố vào đêm trăng tròn siêu độ cho các vong hồn ở vùng Giang Hoài. Đồng thời còn nói: Tự cổ chí kim, ngoài đại sư Trương Đạo Lăng thời Đông Tấn ra, chỉ Mai Huyền Tử có được bản lĩnh này.
“Tự cổ chí kim”, thật quá vọng ngôn! Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa đến năm Dân quốc thứ 23, có biết bao nhiêu chuyện ân ân oán oán, phải trái trắng đen, những cuộc chiến tranh, những cuộc chém giết, ám sát, tự sát, chết vì tình… Những hồn ma bóng quế này mà tập trung cả về sông Hoàng Phố, lại chẳng chen lấn xô đẩy người ta rơi hết xuống sông hay sao?
Mai Huyền Tử à Mai Huyền Tử, cứ cho là sau lưng ông có người chống lưng, ông cũng không nên ngông cuồng đến vậy chứ! Tổ Gia giận điên người, nghiến răng nghiến lợi nghĩ.
“Điên! Đúng là điên rồ!” Tam Bá đầu chửi đổng.
Mặt Tổ Gia nặng trình trịch, sau đó nói với Tam Bá đầu vài câu, ông ta vâng lệnh đi ra.
Mấy hôm sau, vào tối rằm tháng 7, sau khi cải trang, Tổ Gia dẫn theo bốn người là Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu, Trương Tự Triêm và Hoàng Pháp Dung đến chỗ Mai Huyền Tử sẽ làm phép bên bờ sông Hoàng Phố. Hàng trăm người chen nhau tụ tập trên bờ, người của Bộ tư lệnh Cảnh vệ và người của Phòng Tuần bổ cũng tới, còn có một vài thành viên quan trọng trong chính phủ nữa, trông trận thế khá hoành tráng.
Giờ Tuất, mặt trời lặn hẳn, mặt trăng ló ra đằng Đông, nước sông phản chiếu ánh trăng lấp lánh, đúng là một đêm trăng tuyệt đẹp!
Vài tiếng trống gióng lên, đại đồ đệ của Mai Huyền Tử dõng dạc hô: “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai, Quý Dậu Thái Tuế u minh xá, Mai Hoa tiêu nghiệp độ khổ hải. Khai đàn!”
Đám đông đột nhiên im lặng. Trên bầu trời, một áng mây lững lờ quệt ngang qua ánh trăng sáng tỏ, mọi tiếng động đều im bặt, chỉ còn lại tiếng nước chảy của con sông Hoàng Phố một mình xao động dưới ánh trăng.
Mai Huyền Tử từ từ bước ra khỏi chiếc rèm, tay cầm cây phất trần, mình khoác đạo bào, tóc tai bù xù, miệng rì rầm, chân bước lên đài làm phép, thắp nhang rồi vái trời lạy đất.
Trên đài làm phép xây một bức tường dài chừng ba trượng, rộng tới một thước, cao đến hai trượng, mặt tường màu trắng xám, trên tường trống trơn. Mai Huyền Tử hành lễ chừng cháy hết một que nhang, sau đó lão ta lấy từ trên hương án xuống một cây nến đỏ, bưng nó trên tay, đi về phía bức tường trắng xám kia, quỳ xuống, giơ ngọn nến lên, huơ khắp mặt tường một vòng, rồi hô lên một tiếng, mặt tường hiện ra mười mấy chiếc đèn lồng đỏ rực, sáng lấp lánh, như đang cháy.
Đám đông kinh ngạc trầm trồ.
Tiếp đó, Mai Huyền Tử quỳ xuống tụng bài siêu độ vong hồn:
Thái Thượng sắc lệnh, siêu nhữ cô hồn;
Quỷ mị nhất thiết, tứ sinh triêm ân.
Hữu đầu giả siêu, vô đầu giả sinh;
Thương chu đao sát, khiêu thủy huyền thằng.
Minh tử ám tử, oan khúc khuất vong;
Oan gia trái chủ, thảo mệnh nhi lang.
Quỵ ngô đài tiền, bát quái phóng quang;
Trạm khảm nhi xuất, siêu sinh tha phương.
Vi nam vi nữ, tự thân thừa đương;
Phú quý bần tiện, do nhữ tự chiêu.
Sắc lệnh đẳng chúng, cấp cấp siêu sinh!
Sắc lệnh đẳng chúng, cấp cấp siêu sinh!
Tụng xong, lão ta liền đứng dậy, cầm phất trần, phất phất mấy cái về phía những ngọn đèn lồng trên tường, ánh sáng trên đó tắt dần. Sau đó, lão lại phất cây phất trần về phía con sông Hoàng Phố, hô to: “Dậy!”
Trong nháy mắt, vô số ngọn đèn lồng vọt lên trên mặt sông, từng chiếc từng chiếc một hệt như những vong linh, ánh lửa nhấp nháy, bay lên không trung. Đám đông nhốn nháo cả lên, không kìm nén nổi, chẳng ai bảo ai thi nhau quỳ xuống, kẻ thấy mình bị oan ức, người mang nỗi rầu rĩ, hay người đang phải chịu đựng một nỗi khổ tâm nào đó, lúc này thi nhau bật khóc nức nở, dập đầu lia lịa, quỳ sụp khấn vái, người thân chết oan cuối cùng cũng được siêu độ.
Tổ Gia đứng lẫn trong đám đông nhìn, một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, Trương Tự Triêm mày cau chặt lại.
“Hỏng rồi!” Tổ Gia thầm kêu lên. Cục này xuất ra, dưới mắt chúng dân vùng Giang Hoài xem như chẳng có vị đại sư thứ hai như vậy nữa. Cơ nghiệp 300 năm của Mộc Tử Liên sắp tiêu rồi! Trát phi – vốn là thế mạnh của Mộc Tử Liên – nay cũng không cứu vãn nổi tình thế, cả Đường khẩu bị người ta dồn đến nỗi không còn mảnh đất cắm dùi. Tổ Gia luôn tự cho mình thông minh, giờ đấu không lại một kẻ sinh sau đẻ muộn. Thấy rõ cục diện như vậy, nán lại Giang Hoài phỏng còn ích gì nữa! Nghĩ đến đây, Tổ Gia lên cơn đau tim, “bục” một tiếng, máu phun khỏi miệng.
“Tổ Gia!” Hoàng Pháp Dung đứng ngay sau liền đỡ lấy ông.
“Tổ Gia!” Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu và Trương Tự Triêm cũng chen về phía ông.
Tổ Gia lần lượt nhìn các huynh đệ, những người này đã cùng ông mưu sinh, ngày nào cũng một điều gọi “Tổ Gia”, hai điều thưa “Tổ Gia”, luôn đi theo không oán thán hối hận. Ông thân làm Đường chủ lại dẫn mọi người vào bước thảm cảnh thế này, thực lấy làm hổ thẹn vô cùng. Nay chỉ còn thấy đất trời chao đảo, mọi thứ tối sầm lại.
Trong giai đoạn khốn khó ấy, lần đầu tiên Tổ Gia đánh mất niềm tin. Trương Tự Triêm càng cau mày lại, chỉ có Hoàng Pháp Dung vẫn bình thản như không.
Đêm đến, mọi người về đến Đường khẩu, Tổ Gia kiệt sức nằm trên ghế, các Bá đầu im lặng không nói. Mãi lâu sau, Hoàng Pháp Dung khẽ lên tiếng: “Tổ Gia, thầy uống một ít thuốc bổ nhé.”
“Ta không sao.” Tổ Gia nói đầy vẻ mệt nhọc “Các người mau về nghỉ ngơi đi.”
Mọi người định nói đôi lời an ủi nhưng Tổ Gia xua tay, họ đưa mắt nhìn nhau rồi lẳng lặng lui xuống.
Tổ Gia buông thõng người, nằm thẳng ra, ông đã quá mệt mỏi. Trong giấc ngủ chập chờn, ông mơ thấy cha mẹ, thấy em trai, em gái, mơ thấy bức tường quen thuộc của nhà mình, mơ thấy chậu hoa dành dành nơi chân tường.
Đột nhiên, tiếng gõ cửa vang lên, tuy rất nhỏ nhưng cũng làm Tổ Gia giật mình tỉnh dậy. Đó là quản gia, ông ta thật không muốn đánh thức Tổ Gia, nhưng sự việc cấp bách, buộc phải gõ cửa. Tam Bá đầu có việc quan trọng cần bẩm báo.
Tổ Gia hỏi: “Sự việc sao rồi?”
Tam Bá đầu nhìn Tổ Gia, nói nhỏ: “Đã gài được hai người mới vào Mai Hoa Hội… Ngũ Tử chết rồi.”
Tổ Gia sững người, tim đau nhói như bị một nhát dao đâm vào, Ngũ Tử là tay chân của Đường khẩu được cài cắm vào Mai Hoa Hội năm ngoái. Mấy ngày trước, Tổ Gia đã bảo Tam Bá đầu mật lệnh cho Ngũ Tử phải sớm làm rõ tình hình việc Mai Hoa Hội làm phép bên bờ sông. Không biết là do Ngũ Tử nôn nóng để bại lộ hay đối phương đã phát hiện ra anh ta từ lâu? Tóm lại, Ngũ Tử đã bị trừ khử trước khi đối phương dàn cục nên không đưa được bất cứ tin tức gì về.
Hai người mới được gài vào Mai Hoa Hội đều là người mới của Đường khẩu, Tam Bá đầu đã dùng thuật dịch dung cho họ, nên trong thời gian ngắn đối phương sẽ không thể phát hiện ra.
Thuật dịch dung là một bí thuật cổ xưa, có nhiều phương pháp và trường phái khác nhau, nhưng về cơ bản, có ba thủ pháp chính.
Thủ pháp thứ nhất là mặt nạ da người. Cách này do Trương Giác thời Đông Hán tạo ra, lột lấy da mặt người khác, lấy nước thuốc rửa sạch, rồi đeo lên mặt, có thể tạo ra “thân thế bất tử”. Nhưng phương pháp này thời gian sử dụng rất ngắn, vì da người thế nào rồi cũng sẽ thối rữa.
Cách thứ hai là châm cứu. Trên mặt có nhiều huyệt đạo, dùng kim châm cứu theo kinh lạc: dưới một tấc, khí huyết vận chuyển, dưới ba tấc kinh mạch đảo ngược. Thủ thuật chính xác, châm một mũi, có thể làm cho miệng mắt méo xệch đi. Sau khi ngũ quan bị biến đổi, sẽ khó mà nhận ra được khuôn mặt ban đầu. Xong việc rồi lại tìm huyệt giải, an dưỡng một tuần sẽ hồi phục.
Cách thứ ba là chiêu tàn độc nhất mà ai ai cũng biết, đó chính là phá tướng. Tự lấy dao rạch mặt, tạo ra một vết sẹo to, người bình thường sẽ không thể nhận ra được. Năm 1932, trong một lần bị đặc vụ bao vây, không còn cách nào khác, Vương Á Tiều đành phải dùng cách này mới tạm thời thoát được kiếp nạn.
Phương pháp mà Tam Bá đầu đã dùng đối với hai ”gián điệp” lần này chính là châm cứu học được từ cuốn Trát phi mật bản. Sau khi Tam Bá đầu vào nghề, Tổ Gia thấy hắn thông minh, giảo quyệt, giỏi vạch định kế hoạch, liền truyền lại cách này cho hắn, rồi để hắn phụ trách việc sắp xếp và liên hệ với người chỉ điểm.
NỘI GIÁN
Mai Hoa Hội xuất chiêu lần này, tiếng tăm nổi như cồn, ngay cả quan chức trong chính phủ cũng bắt đầu tin tưởng lão. Tình hình càng ngày gay go, phái Giang Tướng đang phải đối mặt với nguy cơ sống còn chưa từng có ở vùng Giang Hoài.
Tổ Gia và Tam Bá đầu bàn cách dùng ám hiệu để giữ liên lạc với người chỉ điểm xong, ông bảo hắn quay về nghỉ ngơi.
Tổ Gia pha một ấm trà, vừa nhâm nhi vừa suy ngẫm. Mấy tháng nay, có quá nhiều chuyện xảy ra, đặc biệt những lời Tả Vịnh Thiền đã nói đêm hôm đó, nghĩ lại vẫn thấy sợ. Những chuyện bí hiểm nối tiếp nhau xảy đến, bao ngày tháng không lúc nào được thảnh thơi đầu óc, Tổ Gia cảm thấy rất mệt mỏi.
Sáng hôm sau, quản gia vào báo có Hoàng Pháp Dung cầu kiến. Tổ Gia gật đầu đồng ý, Hoàng Pháp Dung bước vào.
“Tổ Gia đã khỏe chưa?”
“Ta khỏe, ta khỏe.” Tổ Gia ngẩng đầu lên, thấy Hoàng Pháp Dung nước mắt vẫn còn vương trên mặt, không biết nguyên cớ vì sao, liền hỏi: “Có chuyện gì vậy?”
Hoàng Pháp Dung khẽ đáp: “Chúng con cãi nhau.”
Tổ Gia cười: “Khà khà, vợ chồng cãi vã rồi lại làm lành ngay thôi. Nhưng sao lại cãi nhau?”
Hoàng Pháp Dung nói khẽ: “Hôm qua, khi từ bờ sông trở về, anh ấy mặt cứ lầm lầm lỳ lỳ, nói không phá được cục lần này của đối phương sẽ không ăn cơm, con nấu cho bát mỳ, còn hất đổ xuống đất…”
Tổ Gia thở dài: “Tự Triêm là thằng nhóc hiếu thắng. Ngươi xem, ta biết cái tính này của nó, nên ta cũng không dám làm căng với nó. Sau lưng Mai Huyền Tử có cao nhân chỉ bảo, vụ này lớn đến nỗi làm kinh động đến cả quan phủ, nếu phá được ngay thì còn nói chuyện gì nữa? Ngươi về làm lành với Tự Triêm, bảo rằng Tổ Gia không trách nó.”
Hoàng Pháp Dung lau nước mắt, nói tiếp: “Đố không phải là vấn đề. Vấn đề ở chỗ, con nói con biết cách phá giải, cũng đã nói cho anh ấy nghe, còn bảo anh ấy đi cùng con tới thưa với Tổ Gia, nào ngờ nghe xong không những không vui mừng, ngược lại còn đấm ngực giậm chân, tự trách mình bất tài, đường đường là đấng nam nhi thân dài vai rộng lại không bằng đàn bà con gái, càng không có mặt mũi nào đến gặp Tổ Gia!”
“Đợi đã…” Nghe đến đây, Tổ Gia vội vàng ngắt lời Hoàng Pháp Dung. “Ngươi nói ngươi biết cách phá giải sao?”
“Vâng!” Hoàng Pháp Dung ngước nhìn Tổ Gia, gạt nước mắt nhoẻn miệng cười ngay được.
Tổ Gia nhìn bà ta chằm chằm, tỏ ý bảo bà ta mau mau nói xem.
Hoàng Pháp Dung mím môi, rồi bật ra hai tiếng: “Xú cầu.”
Tổ Gia sững người: “Xú cầu là gì?”
Hoàng Pháp Dung nói tiếp: “Trên bức tường đó chắc chắn có bôi xú cầu!”
“Ngươi nói rõ ta nghe.” Tổ Gia không hiểu liền hỏi lại.
Hoàng Pháp Dung ngớ người, chợt nghĩ ra là Tổ Gia không hiểu tiếng địa phương của bà ta. “Xú cầu” là tiếng Sơn Đông, bà ta vội vàng giải thích: “Đó chính là băng phiến. Khi còn nhỏ, lúc chán chẳng biết làm gì, con thường lấy băng phiến chọc lũ sâu, con vẽ một cái vòng tròn, thả con sâu vào trong, con sâu cuống lên cứ bò vòng quanh…”
Tổ Gia nóng ruột vô cùng mà con nhóc này vẫn cứ nói vòng vo đâu đâu, song ông vẫn nhẫn nại nghe.
Cuối cùng, Hoàng Pháp Dung cũng đi vào vấn đề chính: “Một lần, thầy mẹ đi làm đồng, con phải ở nhà trông em gái mới hai tuổi. Vì em gái cứ khóc ngằn ngặt, con liền lấy băng phiến vẽ hình một ngọn đèn trên bức tường đất nhà con, sau khi vẽ xong, con lấy diêm châm, vốn chỉ định chọc cho em gái cười, ai ngờ ngọn đèn đó sáng thật! Khi xây bức tường đó, Mai Huyền Tử chắc chắn đã sử dụng cả bột long não. Trước tiên vẽ phác thảo hình chiếc đèn lồng trên tường, tiếp đến cạo lớp vôi trắng đi, trét bột long não vào, cuối cùng cho người đánh bóng bề mặt tường như cũ. Còn về chuyện đèn lồng lúc cháy lúc tắt chính là do tỷ lệ trộn nguyên liệu. Ban đầu, Tự Triêm nghĩ thứ mà đối phương dùng là lưu huỳnh, nhưng lại gạt bỏ ý nghĩ đó ngay, vì một khi lưu huỳnh cháy thì không thể kéo dài thời gian cháy được lâu như vậy. Còn về những chiếc đèn Khổng Minh (đèn trời) nhô lên trên mặt sông thì chắc chắn là dưới sông có người, khi đó người ta mải chú ý nhìn lên pháp đài, trời lại tối đen, mặt sông rộng lớn, ai mà để tâm đến động tĩnh dưới sông…” Hoàng Pháp Dung nói.
Tổ Gia thở phào nhẹ nhõm, ngả người lên ghế, ông thấy như vừa trút bỏ đi được một gánh nặng, ngay sau đó ông nói: “Chuyện này phải giữ bí mật tuyệt đối. Ngươi quay về bảo với Tự Triêm, sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng, thành thục, chép phương pháp này vào cuốn Trát phi mật bản.”
Hoàng Pháp Dung đi vòng ra sau lưng Tổ Gia, bê ấm trà lên, rót cho Tổ Gia một chén đầy, nói: “Mấy ngày nay Tổ Gia đã phải vất vả cực nhọc, người không được khỏe. Ngày trước khi bà (Kiều Ngũ Muội) còn sống, đã truyền dạy cho con thuật xoa bóp Đông y. Con biết rõ mười hai kinh lạc nằm ở đâu, rất rành các thủ pháp điểm, ấn, miết, xoa, gõ (cò mổ), thường ngày mỗi khi bà mệt mỏi, con đều xoa bóp cho bà. Để con làm giúp thầy nhé?”
Tổ Gia sững người, quay đầu lại nói: “Không cần. Ngươi lui xuống đi.”
Hoàng Pháp Dung mỉm cười, nói: “Vâng. Tổ Gia nghỉ ngơi sớm vậy, việc có nhiều hơn cũng phải giải quyết từng chuyện một, nếu Tổ Gia ngã bệnh, Pháp Dung sẽ rất đau lòng.”
Nói xong, chầm chậm đứng dậy, từ từ lui xuống.
Tổ Gia nhìn theo bóng bà ta, ông lại rơi vào trạng thái trầm ngâm. Đúng lúc Hoàng Pháp Dung sắp đi ra đến sân, Tổ Gia đột nhiên gọi: “Pháp Dung, quay lại đây!”
Hoàng Pháp Dung sững người, mím môi cười thầm, rồi bước nhanh lại.
Tổ Gia chỉ chiếc ghế đối diện: “Ngươi ngồi xuống nói chuyện.”
Hoàng Pháp Dung nhẹ nhàng ngồi xuống, chớp cặp mắt to nhìn Tổ Gia.
Tổ Gia im lặng một lúc rồi nói: “Ta muốn ngươi giúp ta trừ giặc trong nhà.”
Nghe thấy vậy, Hoàng Pháp Dung chợt rùng mình: “Tổ Gia, tại sao lại chỉ tin mình Pháp Dung?”
Tổ Gia nói: “Ngươi là giặc à?”
Hoàng Pháp Dung liền chối: “Đương nhiên không phải con!”
Tổ Gia nói: “Vậy ngươi thấy trong Đường khẩu ai có thể tin tưởng được?”
Hoàng Pháp Dung nói: “Tự Triêm, còn, ừm… còn có…”
Tổ Gia nghĩ rất sáng suốt, ông cho rằng Hoàng Pháp Dung đến từ Nam Việt, chẳng có gốc rễ gì ở vùng Giang Hoài, chỉ trong thời gian ngắn sẽ không thể bị đối phương biến thành kẻ đưa tin cho chúng được. Ngoài bà ta ra, không thể tin tưởng bất kỳ ai. Phường Hắc đạo gian ngay khó phân, càng là người thân cận, càng dễ đâm sau lưng mình, Trương Đan Thành chính là tấm gương. Trong tay Tổ Gia có vô số huynh đệ, trong lúc nguy nan lại chỉ có thể tin tưởng vào một đứa con gái, qua một điều nhỏ nhặt này thôi cũng đủ thấm thía được nỗi bi ai của một ông trùm.
Tổ Gia nói: “Ngộ nhỡ Tự Triêm là kẻ gian thì sao?”
Mặt Hoàng Pháp Dung đỏ phừng lên: “Việc này… không có chuyện đó…”
Tổ Gia cười, nói: “Ta cũng biết không có chuyện đó. Có điều, vụ này ngươi hãy phối hợp với ta làm thật tốt. Kẻ gian thường ra sức tìm cách che đậy cho mình, việc gì cũng thận trọng từng tí. Ngày mai ta sẽ bất ngờ mời thực lộc, lấy lý do ngươi có công phá Tiểu Quỷ tương, bảo tất cả các Bá đầu đến ăn mừng. Trong bữa tiệc ngươi cứ việc mời rượu, mời càng nhiều càng tốt, kẻ nào từ chối uống, hoặc uống mà không say, tất kẻ đó đáng ngờ!”
Hoàng Pháp Dung ngây người ra: “Sao Tổ Gia biết kẻ gian nằm trong số các Bá đầu chứ không phải đám tay chân của ta? Những việc như ô phát già quan bất khả trát, tuy nói là chỉ các Bá đầu mới có tư cách được biết, nhưng ai có thể đảm bảo các Bá đầu không nói cho tâm phúc dưới trướng của mình nghe.”
Tổ Gia nói: “Trước đây không lâu, Tả Vịnh Thiền của Thiên Thánh Đạo đến, hắn tiết lộ hết việc quan tài tóc đen, đồng thời ngầm ám chỉ kẻ gian chính là trong đám Bá đầu.”
Hoàng Pháp Dung nói: “Làm sao Tổ Gia biết tên Tả Vịnh Thiền này sẽ không mượn đao giết người?”
Tổ Gia càng ngày càng thấy con nhóc này không phải vừa, điều ông nghĩ, nó cũng nghĩ tới. Tổ Gia cười, nói: “Ngươi cứ làm theo những gì ta dặn là được.”
Hoàng Pháp Dung lại hỏi: “Từ đâu Tả Vịnh Thiền biết được những việc này chứ? Hơn nữa tại sao lại tốt bụng báo cho Tổ Gia biết?”
Tổ Gia chỉ cười không đáp.
Hoàng Pháp Dung phụng phịu: “Tổ Gia vẫn không tin con. Nhưng tửu lượng của con kém, ngộ nhỡ người khác chưa say, mà con lại say trước thì làm thế nào?”
Tổ Gia cười ha hả, quay người lại, kéo ngăn kéo, lấy ra một gói thuốc bột: “Ngày mai, trước bữa ăn 15 phút, ngươi hãy uống thứ thuốc này, uống nghìn chén cũng không say!”
Hoàng Pháp Dung nhận gói thuốc, mở ra thì thấy thứ bột màu vàng, liền nhíu mày hỏi: “Cái này không hại sức khỏe chứ ạ, Pháp Dung còn phải sinh con nối dõi cho Mộc Tử Liên.”
Tổ Gia lắc đầu: “Đương nhiên không sao, Tổ Gia ta mỗi lần phải uống rượu nhiều đều dùng loại thuốc này, nếu không làm sao có thể đối phó lại những nhân vật lớn của Quốc dân Đảng và bọn Hắc đạo chứ? Thứ thuốc này do sư phụ Trương Đan Thành lấy được từ chỗ vị Bối lặc gia trong cung nhà Thanh, là mật pháp cung đình, có tác dụng bảo vệ gan, giải rượu!”
Hoàng Pháp Dung chớp mắt nói: “Lẽ nào chính là ‘thiên bôi bất túy tán’ mà giang hồ vẫn đồn đại ư?”
Tổ Gia gật đầu.
Hoàng Pháp Dung cũng cười, đột nhiên nói với Tổ Gia: “Tổ Gia cao minh, nhưng vụ này vẫn còn có chỗ chưa ổn lắm, con có một kế, thỏa đáng hơn!”
Tổ Gia ngớ người ra. Hoàng Pháp Dung lại gần giải thích rất nhỏ, Tổ Gia cứ gật gật đầu.
BIẾT NGƯỜI BIẾT MẶT BIẾT CẢ TÂM
Sáng sớm hôm sau, Tổ Gia đột nhiên mời thực lộc, các Bá đầu đều đến.
Tổ Gia nói: “Vụ quan tài tóc đen, may có Pháp Dung, Tự Triêm thông minh uyên bác, tùy cơ ứng biến mới có thể giữ được danh tiếng cho Mộc Tử Liên ta. Buổi thực lộc hôm nay chính là để mừng công hai người bọn họ.”
Hoàng Pháp Dung, Trương Tự Triêm vội vàng đứng dậy thi lễ: “Đều nhờ Tổ Gia chỉ dạy và chư gia nâng đỡ.”
Nhị Bá đầu cười hỉ hả: “Tự Triêm, làm cho tốt, Tổ Gia sẽ không bạc đãi các ngươi đâu.”
Đại Bá đầu cũng nói: “Lúc đầu phải liều mạng cứu Tự Triêm ra, còn hại mất một huynh đệ, ta rất căm hận. Nay thấy hai vợ chồng này rất có bản lĩnh, ta cũng nguôi giận nhiều rồi!”
Trương Tự Triêm vội nói: “Ơn cứu mạng của Đại gia, Tự Triêm suốt đời không quên.”
Tam Bá đầu cười nói: “Tự Triêm thông minh tuyệt đỉnh, sau này cũng sẽ là Bảng nhãn!”
Tứ Bá đầu Tề Xuân Phúc và Ngũ Bá đầu Lương Văn Khâu nhìn nhau cười: “Hậu sinh khả úy, Mộc Tử Liên có được hai nhân tài thế này, bọn lão hủ đây không phải lo nữa rồi.”
Hoàng Pháp Dung chớp ngay cơ hội, giơ chén lên, nói: “Trước tiên xin kính Đại gia, Đại gia đã xả thân cứu phu quân muội, nếu không Pháp Dung đâu thể tìm được hiền phu như anh ấy!”
Đại Bá đầu cười sảng khoái: “Nhớ lại đêm hôm đó, ta tức chết đi được. Cạn!” Dứt lời, ông uống cạn một hơi.
Hoàng Pháp Dung lại nâng chén, nói với Nhị Bá đầu: “Nhị gia, Tự Triêm là môn hạ của huynh, được huynh chăm lo, Tự Triêm tiến bộ nhiều mặt, muội xin thay phu quân kính Nhị gia một chén.”
Nhị Bá đầu là người thô lỗ, ông ta ngoác miệng nói: “Lúc đầu, ta muốn dẫn Tự Triêm đến kỹ viện chơi, nhưng Tổ Gia không cho, là giữ cho muội đấy, em dâu còn xinh đẹp hơn cả bọn gái lầu xanh…”
Tổ Gia giận quát: “Nhị gia!”
Nhị Bá đầu cười hềnh hệch, ngửa cổ uống cạn chén rượu.
Hoàng Pháp Dung lại nói với Tam Bá đầu: “Tam Bá đầu giàu tri thức, hiểu lễ nghĩa, tỏ tường kinh luân, thông hiểu cả ba nhà Nho, Phật, Đạo, muội và phu quân vô cùng ngưỡng mộ, mong Tam Gia chỉ bảo nhiều thêm. Từ lâu đã nghe Tam Gia tửu lượng rất khá, muội phải mời Tam Gia vài chén mới được.”
Tam Bá đầu cười nói: “Tự Triêm tài trí hơn người, mỗi tội tửu lượng hơi kém, không ngờ em dâu lại đáng nể vậy.” Nói xong uống liền ba chén.
Hoàng Pháp Dung lại giơ chén lên, nói với Tứ Bá đầu và Ngũ Bá đầu: “Tứ gia, Ngũ gia là tiền bối Giang Tướng, nguyên lão hai triều, Pháp Dung kém cỏi, khi còn ở Việt Hải Đường đã nghe đến đại danh hai vị từ lâu, sau khi được gả về Mộc Tử Liên càng thấy hai vị tiền bối kỹ pháp cao thâm, đúng là gừng càng già càng cay, khiến Pháp Dung rất khâm phục! Xin kính hai vị tiền bối chén đầy!”
Lúc này Tổ Gia cũng lên tiếng: “Ta cũng uống một chén! Lão tứ, lão ngũ đều là mãnh tướng của Trương sư gia, rất mực khiêm tốn, nhún nhường. Sau khi ta lên trông coi Mộc Tử Liên, hai vị hết lòng phò trợ, không câu nệ tư cách lẫn kinh nghiệm từng trải, khiến người ta khâm phục!”
Tề Xuân Phúc và Lương Văn Khâu lật đật đứng dậy: “Tổ Gia, không dám, không dám! Được Tổ Gia yêu mến, không chê gỗ mục, lão thề chết cống hiến sức lực!”
Tề Xuân Phúc và Lương Văn Khâu đều lớn tuổi hơn Tổ Gia, Tề Xuân Phúc 35 tuổi, Lương Văn Khâu đã ngoài tứ tuần. Nhưng việc này không có gì đáng nói, phái Giang Tướng không luận tuổi tác xếp chỗ ngồi, chỉ căn cứ vào bản lĩnh của mỗi người.
Tuyệt kỹ của Tề Xuân Phúc là bện hình nộm. Tay nghề của ông ta khá hơn cả ông chủ cửa hàng hàng mã. Ông ta có thể bện hình bé trai bé gái, hình đầu trâu mặt ngựa, rồi dán giấy xanh đỏ lên, tô mày vẽ mắt, đặt trước quan tài, trông sinh động y như thật.
Lương Văn Khâu là thợ mộc rất có tay nghề, được người ta gọi là “Mặc Đẩu Vương”. Mặc đẩu (ống mực) là công cụ dùng để kẻ vẽ đường thẳng theo dây dọi trong nghề mộc ngày xưa. Tổ tiên của Lương Văn Khâu ba đời đều là thợ mộc, rất am hiểu “Lỗ Ban Môn”. Năm Quang Tự 30, phụ thân Lương Văn Khâu bị người ta hãm hại đẩy vào vòng xoáy đấu đá trong cung đình chỉ vì chuyện ông ta dựng Bách Bảo Các cho Từ Hy, khiến cả nhà bị tịch biên tài sản và chết sạch. Sau khi nghe tin, Trương Đan Thành đã bỏ ra rất nhiều tiền móc nối với một vị Bối lặc gia mới giữ được mạng sống của Lương Văn Khâu, từ đó ông ta đi theo Trương Đan Thành.
Trương Đan Thành khi còn trẻ đã bản lĩnh hơn người, trong Tứ đại Đường khẩu chỉ có mình ông ta vẫy vùng, thường xuyên dùng thuật Trát phi dàn cục lớn về phong thủy, thuật phong thủy Lỗ Ban Môn của Lương Văn Khâu được dùng vào những việc lớn ấy.
Hoàng Pháp Dung mời rượu hết một vòng, mặt đỏ bừng lên. Mặc dù thiên bôi bất túy tán phát huy tác dụng, nhưng do uống liên tục nên người cũng lâng lâng, hơi mất kiểm soát.
Theo lễ, các Bá đầu đều thi nhau kính rượu Tổ Gia, sau đó họ quay ra mời nhau. Cứ như vậy hết mấy vòng, ngoài Trương Tự Triêm ra, tất cả mọi người trên bàn tiệc đều uống mười mấy chén. Chén rượu thời đó rất to, mỗi chén ít nhất cũng phải bằng hai chén rượu thông thường, uống mười mấy chén như vậy tương đương đã uống cả cân rượu vào người.
Nhân lúc mọi người đang vui vẻ say sưa, Tổ Gia lại nói: “Hôm nay còn có một tin vui!”
Ánh mắt các vị Bá đầu đổ dồn về phía Tổ Gia.
Tổ Gia nói: “Đã phá được cục đèn quỷ bên bờ sông do Mai Huyền Tử dựng lên!”
Tất cả mọi người cùng giật mình, vừa tối qua Tổ Gia vì chuyện này mà tức hộc máu, hôm nay lại nói đã phá được rồi ư?
Hoàng Pháp Dung giả vờ hỏi: “Thầy phá thế nào vậy?”
Trương Tự Triêm liếc mắt về phía Hoàng Pháp Dung, thầm nghĩ: “Cô lại còn phải diễn kịch nữa.”
Tổ Gia cười lớn, nói: “Mai Huyền Tử à Mai Huyền Tử, ngươi biết siêu độ cho quỷ đói bên sông mà không biết có quỷ bên cạnh mình.” Nói xong ông lại cười sang sảng. “Hành động tiếp theo của lão Mai đã nằm trong đầu ta rồi. Ta phải đánh cho Mai Huyền Tử hiện nguyên hình!”
Nhị Bá đầu vội vàng hỏi: “Xin Tổ Gia minh thị!”
Tổ Gia thu lại nụ cười tức khắc: “Các ngươi cứ làm theo lời ta dặn là được, Mộc Tử Liên phải giáng một đòn thu dọn bến Thượng Hải, đứng vững trên đất Giang Hoài!”
Các Bá đầu trơ mắt nhìn nhau.
Tổ Gia nâng chén: “Uống! Mộc Tử Liên tất thắng!”
Mọi người cùng nâng chén đồng thanh: “Tổ Gia tài trí! Chúng con thề chết dốc lòng dốc sức!”
Tổ Gia uống cạn chén rượu, chuyển ngay đề tài, hỏi Trương Tự Triêm: “Tự Triêm, tam đại kỵ trong giang hồ là gì?”
Trương Tự Triêm ngớ người, không biết Tổ Gia có ý gì. Hôm qua Hoàng Pháp Dung về nói rằng hôm nay Tổ Gia sẽ dàn cục bức ép kẻ làm phản phải lộ mặt, khiến hắn phải á khẩu tại trận, nên rõ ràng Trương Tự Triêm biết chính Hoàng Pháp Dung đã phá được cục đốt đèn quỷ nhưng lại không làm rõ ngay, không ngờ lúc này Tổ Gia lại đột nhiên hỏi vấn đề này.
Trương Tự Triêm khẽ trả lời: “Dan díu với chị dâu, câu kết giặc bên ngoài, bán đứng huynh đệ.”
Tổ Gia lại hỏi: “Theo luật của phái Giang Tướng, nếu phạm ba tội này sẽ phải thế nào?”
Trương Tự Triêm cúi đầu nói: “Róc thịt lóc xương, giết không tha.”
Tổ Gia cười lạnh tanh: “Ừm, róc thịt lóc xương, mấy ngày nữa ta sẽ băm vằm kẻ gian đó. Trong các huynh đệ ngồi đây, hãy chuẩn bị tinh thần, kẻo đến lúc đó không đỡ kịp đao.”
Các Bá đầu nghe thấy thế đều sợ xanh mặt, không biết Tổ Gia định nắn xương ai đây? Vốn dĩ mọi người đều say bí tỉ, nhưng bây giờ ai nấy đều tỉnh như sáo.
Tổ Gia nhìn mọi người, nói: ”Giải tán!“
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, rồi lẳng lặng rời đi.
Con mắt Tổ Gia rất tinh tường, bao nhiêu năm nay ông luôn tự tin về mắt nhìn người của mình. Thực lộc chỉ là cái cớ, mục đích là chuốc rượu cho các Bá đầu, đợi đến khi họ uống tới tầm, đột nhiên dùng thủ pháp Anh diệu, giương đông kích tây, thăm dò ý tứ của người ta qua lời nói và sắc mặt, vậy là tìm ra được chút manh mối.
Kỹ thuật nắm bắt tâm lý trong Anh diệu thiên đều là chiến thuật tâm lý học đỉnh cao, đương nhiên bao gồm cả kiến thức nhân tướng học chân chính, bên ngoài có thể tóm được con mồi, trong nhà có thể túm được cổ kẻ tạo phản. Phương pháp này do sư tổ Việt Hải Đường – hiệp nữ Đường Vịnh Hà – sáng tạo ra. Về sau, bốn Đường khẩu dần dần hòa thuận với nhau hơn nên rất nhiều kỹ xảo đã được chia sẻ cho các Đường khẩu dùng chung, trở thành tài liệu giảng dạy thông dụng cho các A Bảo. Nhưng, tuyệt kỹ thì vẫn nằm trong tay chưởng môn Việt Hải Đường. Vì có mối quan hệ mật thiết với Kiều Ngũ Muội, Trương Đan Thành đã được chia sẻ riêng phương pháp này. Trước khi chết, Trương Đan Thành đem hết những tuyệt kỹ này truyền lại cho người kế vị, Tổ Gia nhờ vậy cũng nắm bắt được hết tuyệt học Anh diệu.
Chương Hà tri tong cuốn Anh diệu ghi chép lại thuật quan sát nhân tâm như sau:
Hà tri kỳ nhân thiện?
Thần thanh nhãn bất loạn.
Hà tri kỳ nhân gian?
Tà thị hốt nhi chuyển.
Hà tri kỳ nhân ngu?
Tử ngư tinh bất chuyển.
Hà tri kỳ nhân trung?
Mặc mặc bất tranh công.
Đối tọa thủ vô an,
khẩu thị phi tâm điền.
Đối thị bất dung cửu,
tra tra giai ngụy ngôn.
Sơn căn đới lưỡng mục,
trung gian tàng lý diện.
Nhất hát chấn Ly Khảm,
tái hát triển mi nhan,
tam hát pháp lệnh đản,
lưỡng di hồng thành phiến.
Tố tướng tức tố liễm,
tố cục nghi tố hiểm,
hiểm trung lai cầu thắng,
kim ngân đôi thượng sơn.
Chương này xoay quanh cách quan sát vẻ mặt con người, tập trung rất nhiều tinh hoa tướng thuật. Tướng thuật thời xưa đặc biệt coi trọng việc quan sát khuôn mặt, đặc biệt là ánh mắt.
Câu đầu tiên Hà tri kỳ nhân thiện, thần thanh nhãn bất loạn cho biết làm thế nào để phán đoán một người có lương thiện hay không. Dựa vào thần thái và ánh mắt, thần thái luôn khiến người ta có thiện cảm, gương mặt không lộ vẻ hỗn tạp khó đoán, ánh mắt bình thản, tròng đen và tròng trắng rõ ràng, ánh nhìn không lờ đờ, phóng túng, đê tiện, chính là người lương thiện. Điều này đồng nhất quan điểm với thuật xem tướng mặt.
Câu thứ hai Hà tri kỳ nhân gian? Tà thị hốt nhi chuyển nói rằng, một người có gian xảo hay không, cũng chỉ cần nhìn vào đôi mắt. Mắt la mày lém, con ngươi đảo điên, ánh nhìn liên láo là biểu hiện của kẻ gian trá.
Câu thứ 3 Hà thị kỳ nhân ngu?Tử ngư tinh bất chuyển, nhìn vào ánh mắt để biết một kẻ có ngu dốt, đần độn hay không. Nếu cặp mắt lờ đờ như mắt cá chết, cái nhìn vô hồn, đờ đẫn, con ngươi nửa ngày chẳng buồn nhúc nhích thì chắc chắn đầu óc có vấn đề. Không chỉ vậy, mắt như mắt cá chết là kiểu mắt đại hung của tướng mặt, trong Tướng thuật tập khảo đã nói: “Mắt cá đoản mệnh, mắt dê chết yểu.”
Câu thứ tư Hà tri kỳ nhân trung?Mặc mặc bất tranh công, để biết một người rất mực trung thành hay không, chỉ cần nhìn vào biểu hiện thường ngày của anh ta. Có công không tranh giành, không màng danh ưa tiếng, cứ âm thầm làm, chân chất thật thà, ắt người trung nghĩa.
Câu thứ năm, câu thứ sáu Đối tọa thủ vô an, khẩu thị phi tâm điền. Đối thị bất dung cửu,Tra tra giai ngụy ngôn, chỉ cho ta cách làm thế nào để đoán biết đối phương có đang nói dối hay không qua việc trò chuyện giao tiếp thường ngày. Nếu hai người ngồi đối diện với nhau nói chuyện, tay đối phương cứ xoắn vặn, nắm thả mất tự nhiên, không biết để đâu, không dám nhìn thẳng vào người đối diện, hoặc khi ánh mắt hai người chạm nhau liền đưa mắt nhìn đi chỗ khác, rõ hắn là kẻ nghĩ một đằng nói một nẻo, dối trá là bản sắc.
Hai câu bảy, tám Sơn căn đới lưỡng mục, trung gian tàng lý diện. Nhất hát chấn Ly Khảm, tái hát triển mi nhan, tam hát pháp lệnh đản, lưỡng di hồng thành phiến, là tuyệt kỹ đọc vị kẻ khác, hiểu từng chân tơ kẽ tóc, gian ngay nhìn là biết. Chúng đã vượt quá phạm vi quan sát tướng mặt đơn thuần, liên quan đến những quy tắc tất yếu từ bên ngoài đến bên trong trong cơ thể người như: âm dương, ngũ hành, Đông y… Chỉ cần là con người tất đều phải tuân theo quy tắc này.
Vị trí bắt đầu của mũi là Sơn căn, hai bên Sơn căn là mắt, mắt trái là dương, mắt phải là âm; trong ngũ hành mắt thuộc Hỏa, thông can với gan; gan thuộc Mộc, thông can với thận; thận thuộc Thủy, trong bát quái là Khảm; thất tình và lục dục có liên quan mật thiết với lục phủ ngũ tạng trong cơ thể. Bởi vậy, người ta mới đúc kết được ra rằng: “Sợ hãi hại thận, tức giận hại gan, buồn đau hại tỳ, thích chí hại tim.”
Cho nên, nếu một người làm điều gì trái với lương tâm, lục phủ ngũ tạng sẽ bồn chồn; nếu là kẻ gian, chắc chắn sẽ sợ hãi, ngày ngày thấp thỏm lo sợ, thận Thủy phập phồng bất an, lúc này nếu người ta đột nhiên quát lớn: “Ngươi là giặc trong nhà!” tất thận Thủy trong người hắn bị khuấy động trào lên, Thủy trào lên dập tắt Hỏa, Hỏa chủ về tim, khiến tim đập thình thịch, cho nên mới nói Nhất hát chấn Ly Khảm là vậy; lúc này nếu lại quát to một tiếng, kẻ đó dù giỏi giấu giếm cỡ nào cũng sẽ tuân theo quy luật truyền dẫn sinh khắc của ngũ hành mà để lộ ra tâm tư trong lòng, dù mắt không lộ vẻ sợ hãi thì đầu lông mày cũng nhíu co một cái; lại quát thêm tiếng nữa sẽ khiến đường pháp lệnh (đường vân chạy quanh hai bên cánh mũi) trên mặt hắn nhúc nhích, khí huyết bốc lên khiến hai má ửng đỏ. Tới nước này, những việc che giấu trong lòng sẽ bị lộ hết.
Mấy câu cuối cùng là lời tổng kết, Tố tướng tức tố liễm, tố cục nghi tố hiểm, Hiểm trung lai cầu thắng, kim ngân đôi thượng sơn. Nghĩa là, khi các A Bảo “tác nghiệp”, nói cho cùng chỉ là dựa vào việc đoán ý qua lời nói và sắc mặt. Bất kể đối với con mồi hay với bản thân mình, tố cục nghi tố hiểm, càng là cục nguy hiểm, độ khó cao thì lợi ích thu về càng lớn, cho nên mới nói phú quý hiểm trung cầu, một khi cục diện đã định thì vàng bạc tiền của bám theo sau, chất đống như núi.
Tổ Gia vốn định mượn cớ uống rượu, nhân lúc các Bá đầu ngà ngà say rồi bất thình lình tung ra chiêu này để thăm dò. Nhưng Hoàng Pháp Dung nói: “Cách làm này chưa ổn lắm, trực tiếp bắt kẻ gian không bằng ép cho kẻ gian tự xuất cung. Tổ Gia cứ thả một cái thòng lọng, rồi nói đã phá được cục siêu độ vong hồn của Mai Huyền Tử dàn, ngầm ám chỉ rằng người bên cạnh Mai Huyền Tử đã bắn tin cho mình, đồng thời ám chỉ trong nội bộ Mộc Tử Liên có kẻ phản bội và Tổ Gia cũng thừa biết kẻ đó là ai. Như vậy, nếu kẻ gian nằm trong số các Bá đầu thì sẽ hoảng hốt, lo lắng không yên, chắc chắn nội trong vài ngày sẽ bắn tin ra ngoài để tìm kế thoát thân, càng hấp tấp càng dễ để lộ sơ hở. Tổ Gia chỉ việc sai người tăng cường theo dõi, rồi bắt sống.
Tổ Gia nghe xong, một tấm lưới to đang được đan dần trong đầu ông.
MAI CHẶT ĐẦU KẺ GIAN
Để đề phòng nội gián, mấy năm nay Tổ Gia cũng đã phải hao tâm tổn trí không ít. Đầu tiên, ông phải giữ khư khư cuốn sách quý Trát phi mật bản bên mình; ngoài ra, không cho phép các Bá đầu được phép nuôi chó và chim bồ câu, vì chúng đều biết đưa tin; khi các Bá đầu vào kỹ viện, Tổ Gia đều cho bọn họ đi có đôi, để đề phòng Bá đầu nào đó bay một mình hoặc để lộ tin. Bên cạnh các Bá đầu đều có tai mắt của Tổ Gia, cho nên, kẻ có thể làm tên chỉ điểm ngay dưới mắt Tổ Gia hẳn không phải kẻ tầm thường.
Kẻ nội gián bình thường tỏ ra tuyệt đối trung thành, mặt mũi tỉnh queo, nhưng vào thời khắc quan trọng sẽ buộc phải bắn tin đi, bởi việc móc nối với đối phương là điều không thể tránh khỏi, chỉ có điều mỗi người có phương thức riêng mà thôi.
Sau khi xảy ra vụ quan tài tóc đen, Tổ Gia càng phải thận trọng vạn lần. Nhưng tai mắt mà ông gài bên cạnh các Bá đầu đều chẳng có tin tức gì giá trị, xem ra kẻ phản bội này ẩn hình rất kỹ.
Tổ Gia mượn cớ uống rượu, rung cây dọa khỉ, kẻ phản bội thấy Tổ Gia đã tính toán trước mọi việc như vậy rồi, chắc chắn sẽ run sợ trong lòng.
Sau khi tan tiệc rượu, các Bá đầu đều trở về nhà mình, họ đều biết bước tiếp theo mình phải làm gì. Càng vào những lúc như thế này, càng phải giữ y nguyên lối sinh hoạt thường ngày của mình, ngày thường anh làm gì thì bây giờ anh hãy cứ làm việc đó, nếu không sẽ bị xem là biểu hiện bất thường, càng dễ khiến cho Tổ Gia sinh nghi.
Đại Bá đầu thích rượu chè, thường mua vài cân thịt quay, vài vò rượu, nằm ở nhà nốc rượu một mình; Nhị Bá đầu thích đến kỹ viện, thường ra vào chốn yên hoa; Tam Bá đầu sẽ đánh bạn cùng đi với Nhị Bá đầu; Tứ Bá đầu và Ngũ Bá đầu thích nghiên cứu dị thuật siêu hình, làm xe trâu gỗ, bện người giấy biết bay, đúng là người già có thú vui riêng của người già.
Ngoài ra, Tam Bá đầu vẫn còn một sở thích nữa, hắn rất thích câu cá. Cách Đường khẩu hai dặm về phía Nam có một ao cá, do người ta đắp đập dẫn nước về từ sông Hoàng Phố. Tam Bá đầu trước giờ vẫn tự cho mình sánh ngang với Khương Tử Nha, Trương Lương, tự đặt cho mình biệt danh “Yên Ba Tẩu”. Khi Đường khẩu không bận, hắn thường mang cần câu tới đây, khi đi thường đem theo một tên tay chân giúp mình móc mồi câu cá, thu dọn đồ khi câu xong. Tên tay chân đó thực ra chính là tai mắt mà Tổ Gia cài bên hắn.
Các vị Bá đầu bụng đều rõ mười mươi những người đi theo mình đều do đích thân Tổ Gia cắt cử, nhưng vẫn làm như không hề hay biết. Cho nên, mỗi khi làm việc gì, họ đều cố ý mang theo người này đi cùng để tránh bị nghi ngờ.
Buổi tối, cải trang xong xuôi, Tổ Gia dẫn theo hai tên tay chân thân cận đến Hội quán Tinh Võ Anh Hùng.
Hội quán Tinh Võ Anh Hùng rất có danh tiếng trong giới giang hồ, do đại hiệp Hoắc Nguyên Giáp sáng lập. Vương Á Tiều từng dặn dò Tổ Gia qua thư: Có việc gì cứ đến tìm Tăng Kính Võ.
Tăng Kính Võ – huynh đệ của Vương Á Tiều – không những võ nghệ cao cường, mà còn là một cao thủ ẩn danh, mấy năm nay thường che giấu bằng thân phận Giáo đầu, bí mật phát triển tổ chức kháng Nhật, luôn giấu kín những kỹ thuật cao siêu và thủ đoạn cao minh tung hoành trên giang hồ, người thường khó có thể theo kịp.
Dựa vào những lời đã nói trong buổi tiệc rượu, cộng với ánh mắt sắc lẹm quét lên tất cả những người có mặt hôm đó, Tổ Gia cũng đã nắm chắc vài phần trước biểu hiện của các vị Bá đầu, lần này bí mật đến gặp chính là để nhờ Tăng Kính Võ giúp mình một tay đập chết kẻ nội gián. Bởi mãi không thấy tai mắt của mình ở chỗ các Bá đầu báo tin tức gì, ông lo lắng mấy tên này đã bị Bá đầu nào đó ép làm phản, chỉ dựa vào một mình mình sẽ không thể điều tra ra kẻ nội gián.
Lại ba ngày nữa trôi đi, bến Thượng Hải mờ mịt trong làn mưa phùn.
Tam Bá đầu khoác áo tơi, đội nón lá đi tới ao cá, hắn thích câu cá khi trời mưa. Hắn chẳng thiếu gì cá ăn, nhưng khoái cái cảm giác cá cắn câu, mỗi lần câu được đều gỡ cá ra, rồi lại vứt trả xuống ao.
Mồi câu cá là loài địa long, hay còn được gọi là giun đất. Giun đất thường được đào sẵn từ đêm hôm trước, trộn với bột nhộng, rồi đem thả vào giỏ. Tên tay chân đi theo sau khi giúp Tam Bá đầu móc mồi câu thì ngồi trên tảng đá xanh bên cạnh vừa hút thuốc, vừa xem câu cá. Mỗi khi mồi câu bị cá ăn hết, hoặc nhạt đi vì ngâm lâu dưới nước, anh ta lại có nhiệm vụ đổi mồi câu khác.
Hôm đó, tâm trạng Tam Bá đầu rất vui vẻ, lúc lúc lại câu được cá to, hắn sung sướng cười không khép miệng lại được.
Lại một ngày nữa trôi qua, hai tên tay chân vừa được cài cắm vào Mai Hoa Hội đưa tin về. Bọn họ nói rằng, Mai Huyền Tử đã vội vàng họp Đường khẩu, mấy tên Đại đồ đệ dưới trướng lão tên nào tên nấy mặt mũi xám như tro nguội. Tổ Gia hay tin liền mỉm cười. Kẻ nội gián trong Mộc Tử Liên đã truyền đi những lời mà Tổ Gia nói trong bữa thực lộc hôm đó cho chúng biết.
Thực ra, Hoàng Pháp Dung mới là người “phá án” trong vụ đốt đèn quỷ bên sông, Tổ Gia không hề hay biết về kế hoạch của Mai Huyền Tử, nhưng hôm đó ông cố ý nhả ra mấy câu, làm như tất cả mọi việc ông đều đã có đối sách đâu vào đấy, mục đích là ép kẻ nội gián kia đưa tin tức ra ngoài và để lộ ra sơ hở của mình.
Đây chính là hiến kế của Hoàng Pháp Dung. Bà giúp Tổ Gia dàn cục cũng có tính toán của riêng mình, mau chóng bắt được tên phản bội thì Trương Tự Triêm chồng bà mới có cơ hội trổ tài.
Qua mấy ngày khua chiêng gõ trống dựng cục theo dõi, trong lòng Tổ Gia đã biết rõ, nhưng ông không hề ngăn cản kẻ phản bội truyền tin tức đi, cũng không vội vàng bắt hắn, còn nhân đây tương kế tựu kế, dùng thuật ly gián. Tổ Gia không hổ danh là Tổ Gia, cao tay và sáng suốt.
Kế ly gián này quả thật rất hay. Mai Huyền Tử cứ tưởng rằng, trừ khử được Ngũ Tử – người mà Tổ Gia cài vào trước đó – thì Mai Hoa Hội sẽ thái bình, không ngờ Tổ Gia lại cố ý ám chỉ bên cạnh lão có giặc. Mai Huyền Tử bắt đầu nghi ngờ đám đệ tử của mình, việc này đã làm đảo lộn trật tự bình thường trong Mai Hoa Hội và những kế hoạch đã sắp đặt sẵn của lão, cũng nhờ vậy hai tay chân Tổ Gia mới gài vào Mai Hoa Hội mới được an toàn. Chiêu này của Tổ Gia gọi là một đòn chết ba.
Là người luôn suy nghĩ thấu đáo mọi nhẽ, khi Hoàng Pháp Dung hiến kế này, ông liền nghĩ ra nhiều mưu chước. Ngay cả Hoàng Pháp Dung mới đầu còn hiểu, về sau cũng thấy mơ hồ, không biết tại sao đã mấy ngày rồi mà Tổ Gia vẫn chần chừ chưa động thủ, cuối cùng sốt ruột liền đến hỏi Tổ Gia.
“Tổ Gia, đã biết kẻ gian, sao thầy còn chưa ra tay?”
“Sao ngươi biết?”
Hoàng Pháp Dung cười nói: “Tổ Gia càng lặng thinh càng chứng tỏ đã nắm rõ mọi chuyện, huống hồ nét mặt thầy không còn nặng nề như mấy ngày trước, Pháp Dung nhìn là biết ngay.”
Tổ Gia cười khà nói: “Mai chặt đầu kẻ gian!”
Hoàng Pháp Dung sững sờ: “Hả?”
“Hả cái gì? Ngươi lo lắng người đó là Tự Triêm à?”
Hoàng Pháp Dung cúi đầu cười: “Không thể nào. Mai Tổ Gia chém thật không?”
Tổ Gia hỏi: “Không được à?”
Hoàng Pháp Dung trầm ngâm một lúc, nói: “Nếu Tổ Gia thật sự muốn chém hắn thì đã không làm ầm lên như vậy, Pháp Dung thấy, Tổ Gia chỉ vờ chém…”
Hoàng Pháp Dung rốt cuộc vẫn chính là Hoàng Pháp Dung, thông minh khác thường. Mấy ngày nay, thấy Tổ Gia không có động tĩnh gì, bà ta luôn ngẫm nghĩ xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Hôm nay lại thấy Tổ Gia nói đến việc chém kẻ gian dễ như bỡn vậy, biết ngay Tổ Gia chưa có ý muốn giết kẻ đó.
Tổ Gia lại ngầm đánh giá một lần nữa, con nhóc này thông minh đến nỗi khiến người khác phát sợ. Tổ Gia đang nghĩ, không biết có nên nói cho Hoàng Pháp Dung biết nhiều chuyện hơn nữa không, đặc biệt là những việc mà tên Tả Vịnh Thiền đã nói cho mình nghe đêm hôm đó, cũng chính là những việc đang đè nặng trong lòng, khiến ông cảm thấy ngột ngạt.
GIUN ĐẤT ĐƯA TIN
Hôm sau vừa qua giờ Ngọ, Tổ Gia lại triệu tập họp Đường khẩu.
Lần này là cuộc họp mở, ngoài các vị Bá đầu, còn có cả mấy tên chân tay thân cận.
Tổ Gia nghiêm sắc mặt nói: “Họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm. Tổ Gia ta đối đãi với đệ tử không bạc, tại sao ngươi còn muốn làm kẻ gian?”
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, tim đập thình thịch.
“Tam Bá đầu!” Tổ Gia quát: “Ngươi vẫn còn chưa chịu khai thật?!”
Tam Bá đầu ngớ người: “Tổ Gia, ý thầy là sao?”
Tổ Gia ngửa mặt lên trời, gằn giọng: “Uổng công ta dốc tâm huyết bồi dưỡng ngươi, không ngờ ngươi lại ăn cây táo rào cây sung!”
Tam Bá đầu kêu lên: “Oan cho con, Tổ Gia, oan cho con!”
Tổ Gia cười lạnh tanh, lấy ra một đoạn cây lau nhỏ trong tay áo: “Thủ đoạn cao siêu đấy, khắc kiểu chữ Tống lên giấy dầu, cuộn lại nhét vào thân cây lau, sau cùng cho vào trong bụng giun, rồi cứ thế thả chúng xuống ao, để một tấm lưới dày chắn chỗ nước chảy ra từ trong ao, con giun đó sẽ bị chặn lại; tên đi lấy tin sau khi bắt được con giun, chỉ việc mổ bụng ra lấy tin tức, giấy dầu bị ngâm trong nước không ướt, viết kiểu chữ Tống khó mà tra ra được nét chữ của ai. Ngươi mượn danh nghĩa câu cá, thực chất là làm nội gián. Đúng là áo tiên chẳng lộ vết khâu, hoàn hảo không chê vào đâu được!”
Tam Bá đầu kinh hãi: “Tổ Gia, oan cho con! Con không hề biết những việc này!”
Tổ Gia quát tháo: “Lôi nó ra ngoài, chém!”
Tam Bá đầu khóc rống lên: “Tổ Gia minh xét! Con bị oan, con bị oan!”
Các Bá đầu toát mồ hôi: “Tổ Gia, việc này thầy đã điều tra rõ ràng chưa?”
Ngũ Bá ddầu Lương Văn Khâu đứng dậy nói: “Tổ Gia, từ khi đi theo Tổ Gia cho đến nay, Tam gia luôn một lòng trung thành, chưa từng làm điều gì sai trái, việc này cần phải điều tra thật rõ mới tính chuyện hành hình!”
Tổ Gia nhìn Tam Bá đầu, nói: “Nhốt lại, đợi sau khi ta bắt tên Mai Huyền Tử lộ nguyên hình, rồi giết ngươi tế trời!”
Mấy tên chân tay trói quặt cánh tay Tam Đá đầu ra sau lưng, đẩy hắn đi.
Đêm đó, Tam Bá đầu nằm co quắp trong nhà lao, chỉ biết thở dài, trong lòng không sao hiểu nổi làm thế nào mình lại ra nông nỗi này. Đang mải nghĩ ngợi, một tên tay chân mang cơm đến.
“Tam gia, ăn cơm đi!”
Tam Bá đầu chửi: “Tao nuốt thế chó nào nổi!”
Tên tay chân đẩy thức ăn vào, nói nhỏ: “Tổ Gia dặn, nhất định ông phải ăn!”
Tam Bá đầu ngờ ngợ nhìn hắn, nhận lấy thức ăn, đó là một bát mỳ và mấy miếng cá biển. Tên tay chân đi rồi, Tam Bá đầu ngồi bệt ra đất ăn, vừa cắn vào miếng cá mắm thì thấy có thứ gì mắc răng, hóa ra trong bụng cá có một mẩu giấy dầu. Tam Bá đầu vội vàng mở ra, bên trong Tổ Gia tự tay viết: “Khổ nhục kế, khổ môn sinh, khổ tận cam lai vẫn tình huynh đệ.” Tam Bá đầu xem xong, liền nuốt mẩu giấy vào bụng, rồi cười hỉ hả.
Tất cả những việc này đều do Tổ Gia và Tăng Kính Võ hợp sức sắp đặt.
Hôm đó, Tổ Gia đến tìm Tăng Kính Võ, kể rõ đầu đuôi ngọn ngành lý do thực lộc.
Tổ Gia nói: “Khi thực lộc, tôi đã dùng chiêu Anh diệu, quan sát thấy các Bá đầu…”
Tăng Kính Võ nói: “Bọn mật thám chỉ điểm đưa tin đều rất thận trọng, nhất cử nhất động đều có thể là ám hiệu của chúng, nhưng tất cả những cách liên lạc bằng ám hiệu suy cho cùng cũng đều do con người đặt ra. Sở dĩ, bọn tai mắt mà Tổ Gia cài cắm bên cạnh các Bá đầu không thể phát hiện ra được, bởi vì chúng đã quá quen thuộc với những hành động, việc làm của các Bá đầu nên chỉ cho là chuyện thường. Tổ Gia không phải vội, đã rung cây dọa khỉ như vậy, tên đó chắc chắn sẽ mau chóng bắn tin đi hòng tìm kế thoát thân. Tôi sẽ cho vài người ngầm theo dõi, họ đều là mấy vị huynh đệ được đào tạo bài bản, rất am hiểu thủ đoạn của bọn nội gián, sau khi Hoắc Gia (Hoắc Nguyên Giáp) bị hạ độc chết, việc đi nghiên cứu địa hình để ám sát người Nhật của chúng tôi đều do mấy huynh đệ này làm, nếu tên nội gián gửi tin ra ngoài, chắc chắn sẽ bị phát hiện!”
Thế là mấy tinh binh của Hội quán Tinh Võ bắt đầu được bố trí ở những nơi mà Tam Bá đầu, Tứ Bá đầu, Ngũ Bá đầu thường hay lui tới. Quả nhiên, người đóng giả thành dân đánh cá chống thuyền trong ao theo dõi Tam Bá đầu đã phát hiện ra điều bí mật trong mồi câu cá.
Hôm đó, Tam Bá đầu câu cá cả buổi chiều, khi trời sẩm tốt mới đứng dậy ra về. Tên tay chân phụ trách lo chuẩn bị mồi cho cá kia sau khi đảo mắt nhìn đông ngó tây một hồi, liền hất mạnh chỗ giun còn thừa trong cái giỏ tre xuống ao cá, lũ giun trôi đi theo dòng nước chảy, xuống đến chỗ có tấm lưới thì bị chắn lại, người của Hội quán Tinh Võ vớt được lũ giun lên, nhìn kỹ, phát hiện ra bí mật giấu trong bụng giun.
Theo lời dặn của Tổ Gia và Tăng Kính Võ, họ không ngăn chặn dòng tin tức được chuyển qua bụng giun, mà thả nó về vị trí cũ, đợi đối phương đến lấy. Sau khi trời tối, đối phương cho tay chân giả làm người đánh cá đem tin tức về. Chiều ngày hôm sau, đối phương lại dùng phương thức tương tự, mang tin trả lời của Mai Huyền Tử buộc vào tấm lưới đó; đêm đến, tên tay chân của Tam Bá đầu lặn xuống nước, lấy cành lau đi.
Mới đầu, đinh ninh rằng Tam Bá đầu làm phản, trong lòng Tổ Gia nghĩ, lần này vậy là hỏng rồi, hai tên tai mắt mới vào Mai Hoa Hội đều do Tam Bá đầu sắp xếp, nếu ông ta thật sự là nội gián, hai huynh đệ kia cũng chẳng sống được bao lâu nữa.
Cũng may, Tổ Gia túc trí đa mưu, không vội vàng ra tay mà tiếp tục theo dõi. Tên tay chân của Tam Bá đầu lấy được đoạn cành lau rồi không về thẳng phủ Tam Bá đầu mà lại đến nơi ở của Tứ Bá đầu. Hắn đảo mắt nhìn khắp lượt xung quanh ngôi nhà, xong đem đoạn cành lau kia nhét vào cống ngầm ở chân tường nhà Tứ Bá đầu. Xong đâu đó, hắn mới lẳng lặng lui về.
Lúc này Tổ Gia mới hiểu rõ chân tướng của sự việc, kẻ làm phản chính là lão tứ Tề Xuân Phúc. Lão ta đúng là loại người vô cùng gian trá, nham hiểm, hắn mượn tay Tam Bá đầu bắn tin ra ngoài, một khi bị lộ, Tam Bá đầu sẽ làm ma thay hắn.
Nhưng đáng hận nhất chính là tên tay chân bên cạnh Tam Bá đầu. Hắn vốn là tai mắt mà Tổ Gia cài cắm, nhưng không những không phụng mệnh, ngược lại còn thông đồng với Tứ Bá đầu tạo phản, khiến Tổ Gia vô cùng bi phẫn. Đối với kẻ đó mà nói, ông đối xử chẳng khác gì với con đẻ của mình, có nằm mơ ông cũng không tưởng tượng được hắn lại phản mình.
Tên hắn là Tôn Nghiệp Hưng, Tổ Gia để hắn làm tai mắt của mình, kể ra còn vì một chuyện...
Tôn Nghiệp Hưng là ai, mọi người đều không hay biết, nhưng cha hắn lại là một nhân vật đình đám. Ông ta tên Tôn Khảo, là lão tứ – thủ hạ của Trương Đàn Thành, lòng dạ nham hiểm, thủ đoạn tàn độc. Năm xưa, chính hắn ta cầm đầu đám Bá đầu tạo phản, đồng thời giết chết tiểu đệ và tiểu muội của Tổ Gia rồi dàn cục thi thể tiên đồng trôi ngược dòng.
Tôn Khảo và mấy tên Bá đầu khác cùng liên thủ hưởng hương, Trương Đan Thành và Chu Chấn Long may mắn được Tổ Gia cứu mới thoát khỏi cái chết. Về sau Tổ Gia lại giúp Trương Đan Thành dẫn quân cứu viện của Vương Á Tiều đến, mới dẹp yên được đám phản loạn ấy.
Sau khi thanh trừng bọn tạo phản, Trương Đan Thành muốn diệt sạch tàn dư trong hàng ngũ của mình, con trai mới một tuổi của Tôn Khảo là Tôn Nghiệp Hưng cũng bị liên lụy. Chính vào lúc đó, Tổ Gia đã ra mặt nói đỡ: “Trương sư gia, xin đừng làm hại vợ con hắn, tuy Tôn Khảo tội ác tày trời không thể tha thứ, nhưng con hắn còn nhỏ dại, xin Trương Gia mở cho một con đường sống!”
Sở dĩ, Tổ Gia nói đỡ là vì nhìn thấy đứa trẻ đó, ông lại nhớ đến em trai và em gái của mình, ông không muốn thấy thêm đứa trẻ nào bị giết. Hơn nữa, cha của đứa bé này đã bị mình đốt đèn trời thiêu chết, bây giờ lại giết hại nó, Tổ Gia quả thực không nhẫn tâm.
Vì thế, đứa trẻ này đã lớn lên từng ngày dưới sự che chở của Tổ Gia. Ông truyền dạy cho nó Tứ thư, Ngũ kinh, dạy nó đạo lý làm người, dần dần nó đã trở thành người thân cận của ông. Về sau, khi thu nạp Tam Bá đầu, ông liền sắp xếp để nó làm tai mắt cho mình bên cạnh Tam Bá Đầu.
Tôn Nghiệp Hưng không hề biết Tổ Gia là người đã giết cha mình, tất cả mọi người trong Đường khẩu đều giấu kín như bưng chuyện này. Tổ Gia đã ra lệnh, kẻ nào dám hé răng tiết lộ sẽ giết ngay không cần luận tội.
Sự việc bước ngoặt xảy ra vào năm 1932. Năm đó, Tổ Gia đích thân là “tướng”, ông sắp đặt cho Nhị Bá đầu làm vụ đuổi xác, giúp Giả Tứ gia vận chuyển thuốc phiện nên phải đi khỏi Đường khẩu một tháng.
Chính trong thời gian này, lão tứ Tề Xuân Phúc đã tìm đến Tôn Nghiệp Hưng kể hết sự tình.
Tại sao Tề Xuân Phúc lại nói ra sự việc này? Lão ta và Tôn Nghiệp Hưng có mối quan hệ như thế nào?
Tổ Gia đã điều tra ra Tề Xuân Phúc và Tôn Nghiệp Hưng nhưng vẫn án binh bất động, vì ông không biết liệu Tề Xuân Phúc còn có đồng bọn hay không, đặc biệt là Lương Văn Khâu – Bá đầu còn lại từ thời Trương Đan Thành. Vì thế, ông mới tương kế tựu kế, cho nhốt Tam Bá đầu lại, một mặt để Tề Xuân Phúc lơ là mất cảnh giác, mặt khác để kéo dài thời gian, thăm dò Lương Văn Khâu.
Khi đó, Tề Xuân Phúc đã rất hoang mang. Lão ta không biết Tổ Gia làm thế nào mà lấy được tin tức, mình bị phát hiện khi Tôn Nghiệp Hưng đưa tin đi, hay khi lấy tin về? Hoặc cả hai khả năng đều không phải, mà do kẻ nội gián bên chỗ Mai Huyền Tử đưa tin về. Tổ Gia khi ban thực lộc đã tung hỏa mù khiến Tề Xuân Phúc ù ù cạc cạc không rõ thực hư nữa.
Đầu óc Tề Xuân Phúc bắt cầu căng lên, nếu lấy được tin tức lúc gửi đi thì việc Tổ Gia muốn giết Tam Bá đầu rất hợp logic. Như vậy, Tôn Nghiệp Hưng cũng khó trốn tránh được trách nhiệm. Nhưng tạm thời, Tôn Nghiệp Hưng có thể tự bảo toàn được tính mạng, chỉ việc nói mình ngoài móc mồi câu cho Tam Bá đầu ra thì không biết gì khác, việc đổ chỗ giun còn thừa xuống ao cá sau khi câu xong cũng là lẽ thường tình. Không có chứng cứ, Tổ Gia không thể giết người bừa bãi được, huống hồ Tôn Nghiệp Hưng còn là tai mắt mà Tổ Gia cài cắm bên chỗ Tam Bá Đầu, nhờ vậy cũng dễ bề ăn nói hơn.
Cách làm gián điệp là một gửi một lấy về, gửi tin đi và lấy tin về đều phải đảm bảo an toàn, nếu không thể đảm bảo an toàn được cả hai việc, thì vẫn phải đảm bao an toàn 50%, nếu không sẽ tự đi tìm đường chết. Trong Tế tác thân am đã viết: Quân nhị bảo nhất sự tác ngũ, tá thi hoàn hồn thiêm tác lục. Nghĩa là, làm gián điệp rất nguy hiểm, nhưng không làm không được, cần phải chia đôi mức độ nguy hiểm. Tá thi hoàn hồn tức là lôi kéo kẻ khác vào để làm rối loạn, đánh lừa tai mắt, nếu tìm được kẻ làm ma thay mình, thì việc này có thể nắm chắc sáu phần. Nếu không phải Tổ Gia mà là một vị Đại sư bá nào đó trong Đường khẩu hành sự manh động, rất có khả năng hôm đó đã chặn đứng tin tức mà Tôn Nghiệp Hưng gửi đi, sau đó xử tội hắn và Tam Bá đầu thì sẽ trúng ngay quỷ kế của Tề Xuân Phúc.
Nhưng điều khiến Tề Xuân Phúc băn khoăn là, tại sao Tổ Gia chỉ hạ lệnh chém Tam Bá đầu mà không hề nhắc đến việc hỏi tội Tôn Nghiệp Hưng? Thật muốn rối cả lên! Lão ta đoán, Tổ Gia đã biết rõ mọi việc, nhưng vẫn không dám chắc đường liên lạc với Mai Huyền Tử đã bị chặt đứt hay chưa, tình hình bên đó thế nào cũng không rõ, khiến lão ta đứng ngồi không yên, thức trắng đêm không sao ngủ được.
Đúng lúc này, Tổ Gia lại “dựng chuyện” đưa tin giả. Sáng sớm hôm sau, ông liền cho hai người của Hội quán Tinh Võ đóng giả thành hai con gà béo đi xem tướng số, một người đến cổng nhà Tề Xuân Phúc, một người đến cổng nhà Lương Văn Khâu, nhân lúc người ta không để ý, liền lấy một mẩu giấy từ trong ống tay ra, ấn vào tay Tề Xuân Phúc và Lương Văn Khâu.
Sau khi nhận được mẩu giấy, Tề Xuân Phúc im bặt không hé răng, Lương Văn Khâu cuống cuồng đến chỗ Tổ Gia, nói rằng vừa rồi có một kẻ đến xem tướng số, hắn đã đưa tờ giấy này cho mình, mong Tổ Gia minh xét…
Trên tờ giấy viết: Canh ba đêm nay, có một chiếc thuyền đậu trên bờ sông phía bên trái ao cá, nói ra ám hiệu ba lần sẽ có người tiếp ứng, mau trốn!
Tảng đá to tướng đang đè nặng trong lòng Tổ Gia đã được thả xuống đất, ông vỗ vỗ vào người Lương Văn Khâu còn đang run lên bần bật nói: “Lương Gia trung nghĩa, xin hãy nhận của ta một lạy!” Nói xong, ông khom lưng hành lễ.
Hành động đó khiến Lương Văn Khâu hốt hoảng sợ hãi, vội vàng đỡ Tổ Gia: “Sao Tổ Gia lại làm thế? Tiểu nhân không dám nhận!”
Lương Văn Khâu lớn hơn Tổ Gia 15 tuổi, bao năm nay luôn đi theo hầu hạ, chịu khó chịu khổ, nhẫn nhục chịu đựng. Lúc Tổ Gia đang phải đối mặt với loạn trong giặc ngoài, ông ta vẫn một lòng trung thành, Tổ Gia làm vậy chính là xuất phát từ sự tôn kính tự đáy lòng mình.
Tổ Gia thở phào, nói: “Lương Gia về nghỉ ngơi sớm đi, việc hôm nay chớ kể kẻ khác biết.”
Lương Văn Khâu nhìn Tổ Gia đầy ngờ vực, miệng nói tuân mệnh rồi quay người đi ra.
Vào lúc canh ba, trời mù sương, phủ dày đặc mặt sông.
Tề Xuân Phúc thu dọn tiền bạc châu báu, đưa cả Tôn Nghiệp Hưng đi theo. Mò được ra tới bờ sông, sau khi đảo mắt nhìn quanh, lão ta liền hô: “Hoạch thập tử! Hoạch thập tử! Hoạch thập tử!”
Trên con thuyền nhỏ, một cánh buồm được giương lên, Tề Xuân Phúc và Tôn Nghiệp Hưng chui ra khỏi hố cỏ, nhảy lên con thuyền nhỏ. Vén tấm rèm lên, vừa nhìn vào, chúng kinh hãi hồn vía lên mây.
“Tổ Gia!”
Ngay lập tức, hai người bọn họ bị trói quặt cánh tay ra sau lưng và bị lôi về Đường khẩu.
Đường khẩu thắp đèn sáng trưng, Tề Xuân Phúc và Tôn Nghiệp Hưng quỳ dưới đất, Tổ Gia mặt lạnh băng nhìn bọn chúng.
“Tại sao phản ta?”
Tề Xuân Phúc trào nước mắt, ngửa mặt lên trời mà khóc: “Hết rồi, hết rồi, ông trời không có mắt, bắt cả nhà ta phải làm ma dưới tay ngươi!”
Tề Xuân Phúc kêu lên như vậy, khiến Tổ Gia không hiểu.
Nhận thấy trong lời nói của Tề Xuân Phúc như có ẩn ý gì đó, Tổ Gia liền cho tất cả mọi người lui đi hết.
Trong phòng chỉ còn lại ba người, Tề Xuân Phúc ngậm nước mắt kể về chuyện ân oán tình thù của 15 năm về trước.
Năm xưa, Tôn Khảo – cha của Tôn Hưng Nghiệp – là kẻ háo sắc, buông thả, phóng đãng, thường hay tìm hoa hỏi liễu. Vợ ông ta nhiều lần khuyên ngăn nhưng chẳng còn hy vọng, nên lòng trở nên nguội lạnh. Là một nữ A Bảo mang thân phận của một kẻ lừa đảo, bà khổ mà khó giãi bày, có quan không dám bẩm báo, có lý lẽ không có chỗ gửi thưa, đành ngậm đắng nuốt cay trong lòng. Tề Xuân Phúc khi đó chừng mười bảy mười tám, là một tay Cử nhân tép riu – thủ hạ của Tôn Khảo – đã phát hiện ra nỗi khổ tâm của bà ta. Tề Xuân Phúc thông minh, điển trai, thấy vị sư nương nhan sắc mặn mà của mình ngày nào cũng phải lau nước mắt, liền nảy sinh tình cảm. Vốn rất khéo tay, nhân những lúc Tôn Khảo đi chơi gái, Tề Xuân Phúc làm đèn lồng, chim uyên ương, rồi chạy đến chỗ sư nương pha trò cho bà vui.
Phụ nữ có lạnh lùng đến mấy cũng đều muốn được yêu thương. Cứ qua qua lại lại như vậy, dần dần hai người đã nảy sinh tình ý. Cuối cùng, một hôm không thể kìm nén nổi tình cảm, hai người đã hành lễ Chu Công.
Sau việc đó, sợ bị Tôn Khảo nghi ngờ, người đàn bà kia vội vàng hai ba lần liền đòi hỏi chồng.
Về sau, bụng bà ta to lên, Tôn Khảo vô cùng mừng rỡ. Nhưng trong lòng người đàn bà kia biết rõ, đứa bé là con của Tề Xuân Phúc.
Đứa trẻ chào đời, bà ta sợ sau khi nó lớn lên sẽ bị Tôn Khảo phát hiện, liền ngầm bàn tính cùng bỏ trốn với Tề Xuân Phúc. Đúng vào lúc này, Tôn Khảo làm phản, Đường khẩu đại loạn, Trương Đan Thành nổi giận lôi đình, thà giết lầm cả nghìn người chứ tuyệt đối không bỏ sót một người nào, nên hạ lệnh giết cả vợ con Tôn Khảo. Nếu không nhờ Tổ Gia khổ nhọc cầu xin, Tôn Nghiệp Hưng đã bị chết khi vẫn còn quấn tã.
Tổ Gia bảo vệ được Tôn Nghiệp Hưng, cốt nhục còn ở đây nên Tề Xuân Phúc không chạy nữa, song cũng không dám nhận con. Ông ta hận Trương Đan Thành, càng hận Tổ Gia, hận cái Đường khẩu này, nếu không phải Tổ Gia cứu được Trương Đan Thành, Tôn Khảo sẽ không phải chết, vợ của Tôn Khảo cũng không chết, trong mắt ông ta người đàn bà đó mới là vợ mình. Nay người mình thương yêu bị giết, con của mình lại bị Tổ Gia giữ, lửa hận bừng bừng trong lòng, ông ta trút tất cả lên đầu Tổ Gia. Cho nên sau này, khi Tổ Gia “dùng chén rượu tước bỏ binh quyền”, ông ta biết mình không thể lui về tuyến hai, phải ở lại nắm rõ mọi động thái của Đường khẩu nên đã cực lực đòi được tiếp tục phò trợ Tổ Gia. Ông ta khổ sở giấu giếm chuyện cũ này, chờ đợi thời cơ giết chết Tổ Gia, phá đổ hoàn toàn Mộc Tử Liên, chính là để cha con có ngày được đoàn tụ.
Năm 1932, khi Tổ Gia phải đến Nam Việt, Tề Xuân Phúc đến tìm Tôn Nghiệp Hưng, kể rõ sự tình. Mới đầu, Tôn Nghiệp Hưng không tin, Tề Xuân Phúc liền mang bức huyết thư mà ông ta đã quý trọng giấu kín 15 năm qua cho anh ta đọc, đó chính là lời trăng trối của mẹ anh ta. Sau đó, Tề Xuân Phúc lại chỉ ra được vết bớt hình tam giác – mà mẹ của anh ta đã dùng bàn là đánh dấu để làm chứng sau này cha con nhận nhau – ở trên lưng Tôn Nghiệp Hưng. Tôn Nghiệp Hưng nghe xong, hai cha con ôm nhau khóc rưng rức. Từ đó trở đi, họ bắt đầu bí mật ủ mưu làm phản.
Khi Mai Huyền Tử tạo dựng thế lực, thanh thế đang lên, Tề Xuân Phúc nhận thấy thời cơ đã đến, chắc chắn tìm được cao nhân chống lưng, ông ta liền ngấm ngầm câu kết với Mai Huyền Tử, nói cho đối phương biết điều cấm kỵ của tổ tông phái Giang Tướng. Vì vậy mới dàn cục quan tài tóc đen, hòng bôi nhọ danh tiếng của Tổ Gia.
Tổ Gia nghe xong, lòng sầu thảm vô chừng. Ân oán hai đời, cha con tình thâm, ai đúng ai sai, trong lòng Tổ Gia rất đỗi hoang mang. Ông không muốn giết người, một người là lão thần trung thành đời trước, một lại là đứa bé mình nuôi lớn lên từng ngày, nhưng lại không thể không giết.
Ngày hành hình hai cha con họ, Tổ Gia rơi nước mắt. Khi đầu của Tôn Nghiệp Hưng kề dưới lưỡi đao, ánh mắt căm hận ngước lên nhìn ông, càng khiến Tổ Gia đau lòng đứt ruột.
Sau đó, Tổ Gia đã lệnh làm tang ma chu đáo cho hai cha con họ. Các Bá đầu không hiểu tại sao Tổ Gia lại đối xử tốt với hai kẻ phản bội này như vậy. Tổ Gia nói: “Bọn họ cũng chỉ là bị Mai Huyền Tử làm cho hồ đồ mới bước lầm đường. Mối thù giữa ta và Mai Huyền Tử, quyết không đội trời chung!” Tổ Gia đã khôn khéo chĩa mũi dùi mâu thuẫn về phía Mai Huyền Tử, đổ thêm lòng căm hận vào lòng mọi người, có như vậy cả Đường khẩu mới có thể trở thành một sợi dây thừng chắc chắn, quật lại Mai Huyền Tử.