Tôi Là Thầy Tướng Số - Quyển 2 - Chương 5
Chương 5. NỘI BỘ RỐI REN CỦA TỨ ĐẠI MÔN PHÁI TƯỚNG SỐ
MẬT ONG THẦN DIỆU
Rằm tháng Tám, mặt trăng tròn vành vạnh chiếu rọi xuống con sông Hoàng Phố mải miết chảy mãi không ngừng.
Một loạt những hành động gần đây của Mai Huyền Tử đã gây ra cảnh tượng hỗn loạn khắp mảnh đất Giang Hoài rộng lớn, khiến việc làm ăn trong Đường khẩu của Tổ Gia ngày càng ảm đạm. Tối hôm đó, Tả Vịnh Thiền của Thiên Thánh Đạo lại đến.
“Thế nào rồi? Đã tra ra kẻ gian chưa?” Tả Vịnh Thiền hỏi.
Tổ Gia khẽ gật đầu.
Tả Vịnh Thiền cười hả hê: “Lần này Tổ Gia tin tiểu đệ rồi chứ!”
Tổ Gia bình thản không biểu thái độ gì.
Tả Vịnh Thiền lại nói: “Chuyện kết nghĩa huynh đệ lần trước, Tổ Gia nghĩ sao rồi? Tiểu đệ vẫn đợi kết bái cùng Tổ Gia, Tổ Gia mãi không nói gì, tiểu đệ không biết ý huynh thế nào?”
Đây chính là vấn đề mà Tổ Gia đang phải cân nhắc. Lần trước, Tả Vịnh Thiền đêm hôm tới thăm, yêu cầu hợp nhất Thiên Thánh Đạo và Mộc Tử Liên làm một, cùng đối phó với Mai Hoa Hội, đồng thời còn nói việc này đã được sự ủng hộ của một nhân vật lớn đứng sau lưng, Tổ Gia hỏi hắn là nhân vật lớn cỡ nào, Tả Vịnh Thiền nói: “Huynh nghĩ lớn bằng nào thì lớn bằng ấy! Không tới ba năm, các hội đạo môn trong cả nước sẽ phải có một cuộc tuyển chọn quy mô lớn đấy!” Nói xong, hắn nhìn Tổ Gia cười ra vẻ bí hiểm.
“Nay, đệ đã giúp Tổ Gia tra ra kẻ nội gián, Tổ Gia sáng suốt một đời, không thể không biết sau lưng Mai Huyền Tử có cao nhân đỡ lưng chứ. Trong lúc sóng to gió lớn thế này, ngay cả chính phủ cũng phải co mình lại, nếu Tổ Gia còn chần chừ mãi, e rằng Mộc Tử Liên sẽ lật thuyền đấy!” Tả Vịnh Thiền nhìn Tổ Gia nói.
Tổ Gia thở dài nói: “Tả chưởng môn mãi không chịu nói nhân vật lớn đứng sau là người nào, tại hạ không dám mạo muội hành sự.”
Tả Vịnh Thiền cuống quýt: “Chính là…” Lời nói đã bật ra đến mép mà hắn vẫn nuốt lại kịp, sau đó lại cười cười, nói: “Thôi, Tổ Gia cứ nằm yên chờ xem diễn biến của thời cuộc đi vậy, chẳng lâu nữa đâu, nếu thấy không còn kế nào khả thi, hãy đến tìm tôi.” Nói dứt lời, hắn phẩy ống tay áo đi khỏi.
Tổ Gia nhìn theo bóng Tả Vịnh Thiền, lòng càng thêm trĩu nặng. Sau khi Mai Huyền Tử khua chiêng gióng trống rùm beng để tạo thanh dựng thế, Tổ Gia lờ mờ nhận ra một dòng nước ngầm giống như một con mãng xà khổng lồ, thanh thế tựa tiếng núi thở biển gầm đang trườn quanh các thế lực khắp Giang Hoài.
Tổ Gia âm thầm nghĩ bước đối sách tiếp theo. Cuộc tuyển chọn quy mô lớn của các hội đạo môn trên toàn quốc mà Tả Vịnh Thiền nói rốt cuộc là thế nào? Sau cách mạng Tân Hợi, trên danh nghĩa, Trung Quốc đã được thống nhất dưới sự lãnh đạo của Quốc dân Đảng, nhưng trên thực tế bọn quân phiệt vẫn cát cứ. Cuộc tuyển chọn lớn hòng thao túng tất cả các hội đạo môn trên cả nước không phải chỉ một hai thế lực có thể làm được. Vậy rốt cuộc là do tầng lớp chóp bu trong Quốc dân Đảng đứng ra tổ chức, hay do các cánh quân phiệt muốn liên thủ với nhau làm việc đại sự đây? Từ sau cách mạng Tân Hợi đến nay, bao biến động bất ngờ, đất nước Trung Quốc đang phải chịu khổ nạn, oằn mình trong cơn nguy biến dữ dội, lẽ nào lại sắp xảy ra đại loạn? Tổ Gia khổ sở nghĩ.
“Thưa Tổ Gia, có Nhị Gia, Trương Tự Triêm, Hoàng Pháp Dung xin gặp!” Tiếng quản gia thông báo. Tổ Gia gật đầu cho vào.
Nhị Bá đầu, Trương Tự Triêm, Hoàng Pháp Dung hớn hở đi vào. Tổ Gia không hiểu ba người này có chuyện gì mà lại vui như vậy.
Sau khi ngồi xuống, Nhị Bá đầu ngẩng đầu lên, cười toe nói: “Thưa Tổ Gia, đã phá được cục rồi!”
Tổ Gia sững người: “Phá được cục nào?”
“Cục đại tiên tụ hội, chén mỳ của Mai Huyền Tử!”
Ánh mắt Tổ Gia chợt sáng lên. Nhị Bá đầu vẫy tay, Hoàng Pháp Dung và Trương Tự Triêm bước tới phía trước, lúc này Tổ Gia mới phát hiện trong tay họ đều đang cầm thứ gì đó, Trương Tự Triêm bưng một bát mỳ, Hoàng Pháp Dung cầm một lọ thủy tinh.
Nhị Bá đầu nhìn Tổ Gia, rồi lại nhìn Hoàng Pháp Dung, Trương Tự Triêm, sau đó nói: “Hãy diễn cho Tổ Gia xem!”
Trương Tự Triêm đặt bát mỳ lên trên bàn uống trà, Hoàng Pháp Dung cầm lọ thủy tinh, đổ vào đó một thứ gì đó vàng quánh dinh dính, Tổ Gia nhìn chằm chằm vào những sợi mỳ. Chuông đồng hồ kêu tích tắc tích tắc, căn phòng im phăng phắc, một lát sau, điều kỳ diệu đã hiện ra, những sợi mỳ trong bát bắt đầu tan ra, chừng thời gian cháy hết một nén nhang thì chỗ mỳ đó tan hết.
Tổ Gia kinh ngạc: “Trong lọ đựng thứ gì vậy?”
Hoàng Pháp Dung mỉm cười, chớp chớp đôi mắt to: “Mật ong!”
“Mật ong ư?”
“Thưa vâng!” Trương Tự Triêm nói rất phấn khích. “Con tra tìm trong sách sinh học của bọn Tây, nói rằng mật ong chứa men phân giải tinh bột, có thể thủy phân tinh bột. Khi làm phép trên phố, Mai Huyền Tử chắc chắn đã cho mật ong vào nồi từ trước. Mới đầu, những sợi mỳ chưa bị biến đổi hình dạng là mấy, nên vẫn có thể gắp được vào bát, thời gian lão ta ăn xong một bát mỳ cũng vừa hay hết một khắc, mỳ trong bát cũng kịp tan hết!”
Tổ Gia gật đầu mỉm cười, mặc dù không biết “men phân giải tinh bột” là thứ gì, nhưng vẫn nói với Trương Tự Triêm: “Ngươi hãy kể tường tận ta nghe.”
Trương Tự Triêm nói: “Từ lúc xem Mai Huyền Tử biểu diễn trở về, con dùng đủ mọi thứ nguyên liệu để thí nghiệm, nước hồ tiêu, canh trần bì, nước biển, giấm… nhưng đều không hiệu quả. Sau đó, con tới thư viện Đại học Saint John thì tìm thấy thông tin này trong một cuốn sách hình ảnh có tên là Sinh hóa yếu lãm. Cuốn sách có ghi, vào năm 1883, một nhà sinh – hóa học người Pháp đã tìm ra loại “men” này, có rất nhiều loại men, nhưng men phân giải tinh bột trong mật ong được đánh giá là ổn định nhất, dưới 40 độ có thể nhanh chóng phân giải tinh bột thành nước mà không làm xảy ra thêm bất kỳ phản ứng phụ nào…”
Tổ Gia chăm chú lắng nghe, không kìm nén nổi luôn miệng khen ngợi sự tiên tiến của khoa học kỹ thuật phương Tây. Phái Giang Tướng đang phải hứng chịu sự khiêu chiến chưa từng có trong thời đại mới, có thể tiếp tục “toả sáng” hay không, chỉ trời mới biết.
Chợt, Tổ Gia hỏi: “Phá được khi nào?”
Trương Tự Triêm nói: “Kỳ thực ngay từ…”
Hoàng Pháp Dung liền chen ngang: “Thực ra, Tự Triêm đã tới thư viện tìm đọc từ lâu, đến sáng nay mới phát hiện ra bí mật trong đó.”
Tổ Gia đưa mắt nhìn Hoàng Pháp Dung, gật đầu nói: “Ừm, tốt!”
Nhị Bá đầu thấy thời cơ đã chín muồi, liền nói: “Tổ Gia, từ lúc Tự Triêm đi theo Tổ Gia tới nay, luôn một lòng trung thành, lập nhiều kỳ công, nay vị trí của Tứ Bá đầu còn khuyết, hay là đề bạt Tự Triêm lên làm Bảng nhãn, đây cũng là ý nguyện của các huynh đệ trong Đường khẩu.”
Nói xong, ba người cùng đưa mắt nhìn Tổ Gia.
Tổ Gia lim dim mắt, gật gật đầu, rồi lại mở mắt nhìn ba người, trong lòng thầm nghĩ, hẳn ba người bọn họ đã bàn bạc xong xuôi rồi mới tới đây. Tổ Gia hiểu rõ, chắc chắn tất cả mọi việc đều là chủ ý của Hoàng Pháp Dung, đầu tiên để chồng mình biểu diễn cách phá giải, rồi để Nhị Bá Đầu nhắc đến chuyện thăng cấp, như vậy vừa tránh bị ngờ là báo cáo vượt cấp, vừa tăng thêm trọng lượng lời nói.
Ngày hôm sau, Tổ Gia triệu tập Đường hội, hết lời biểu dương việc Trương Tự Triêm phá được cục, sau đó đề nghị thăng chức cho anh ta. Các Bá đầu trong Đường khẩu đều biết rõ, từ lâu Tổ Gia đã có ý cất nhắc vị quân sư kỹ thuật này, nên ai nấy thi nhau ca ngợi Tổ Gia sáng suốt.
Tam Bá đầu vừa được thả ra khỏi địa lao cũng to mồm: “Người anh em Tự Triêm được thăng cấp Bảng nhãn, cũng là ý nguyện của tất cả các huynh đệ. Các huynh đệ có thể trổ hết tài năng bởi nhờ có Tổ Gia anh minh rèn giũa. Phái Giang Tướng có Tổ Gia lèo lái, các huynh đệ cùng đồng tâm hiệp lực, tất sẽ đánh bại Mai Hoa Hội!”
Lời nói trơn tru mà không hề tâng bốc thái quá, tán dương mà không khiến người nghe chán ngấy, nghe xong Tổ Gia thấy rất vừa lòng.
Chừng giờ Ngọ, Trương Tự Triêm dập đầu ba cái, vái chín vái, thắp nhang thề nguyện, trở thành Tứ Bá đầu trong tiếng chúc tụng của mọi người. Sau đó, Đường khẩu giết gà mổ lợn mở tiệc, từ Bá đầu đến bọn chân tay ai nấy đều thỏa sức uống, bầu không khí vui vẻ, tưng bừng hiếm thấy.
Tổ Gia một mình bước ra khỏi khung cảnh ồn ã ấy, đi đến sau nhà, đứng trước chậu hoa dành dành, dòng suy nghĩ như đợt thủy triều trào lên. Hoa tàn hoa nở mấy lần, người đến người đi lầu vắng không, ông lại nhớ đến Tề Xuân Phú và Tôn Nghiệp Hưng. Là người đứng đầu của Đường khẩu, nỗi bi ai lớn nhất vẫn chính là sự phản bội của các huynh đệ, giết nội gián, chặt đứt tay chân, lớp người mới thay lớp người cũ, bi ai thay!
Đang trầm ngâm suy nghĩ, Hoàng Pháp Dung cũng đi đến: “Tổ Gia, hôm nay là ngày vui, sao thầy vẫn buồn rầu như vậy?” Giọng nói có vẻ đã ngà ngà say.
Tổ Gia liếc mắt nhìn bà ta, nói: “Giờ khắc này chắc ngươi đã đợi lâu rồi?”
“Chuyện gì cũng không thể qua được mắt Tổ Gia…” Hoàng Pháp Dung liếc mắt nhìn ông, mỉm cười.
Tổ Gia cười lạnh nhạt nói: “Chắc chắn Tự Triêm đã tìm được cách phá giải từ lâu, chỉ có điều giữ kín không chịu nói ra, đợi ta trừ bỏ Tề Xuân Phú, các người mới nói rõ, làm như vậy thì vị trí Tứ Bá đầu nghiễm nhiên thuộc về Tự Triêm.”
Hai tay Hoàng Pháp Dung ấn huyệt thái dương, chệnh choạng mấy bước, miệng lẩm bẩm nói: “Tuỳ cơ ứng biến, trông thời thế mà hành động, đây là nguyên tắc mà Tổ Gia vẫn hằng dạy bảo bọn chúng con, Pháp Dung chẳng qua… chẳng qua là biết vận dụng đến nơi đến chốn mà thôi, huống hồ khi đó còn chưa biết kẻ nào là nội gián, việc phá cục càng không tiện nói ra. Pháp Dung… Pháp Dung từ khi được gả về Mộc Tử Liên tới nay, luôn cẩn trọng tận tụy, mỗi lần gặp cục lớn, sớm lo tối nghĩ, hết lòng hết sức. Tổ Gia cũng biết, Pháp Dung là một A Bảo, nhưng… cũng chỉ là một đứa con gái yếu đuối, phu quân Tự Triêm, tính khí chẳng giống ai, vui giận thất thường, khi Pháp Dung phải chịu ấm ức, Tổ Gia nào có biết đâu? Pháp Dung số khổ, xa quê biệt xứ, nhớ Yến nương ở phương Nam, nhớ mẹ cha nơi phương Bắc, mỏi mắt trông không một bóng người thân, một mình lẻ loi không nơi nương tựa…” Nói xong, nước mắt tuôn rơi lã chã.
KHÁCH KHÔNG MỜI MÀ ĐẾN
(Vừa ám chỉ Giang Phi Yến đột ngột đến thăm, vừa ám chỉ bức thư không hề được mong chờ của Mai Huyền Tử)
Những lời này khiến Tổ Gia chết lặng, chẳng ai sinh ra đã cam tâm tình nguyện làm A Bảo. Con đường này sầu khổ muôn phần, cho dù là nam nhi hay nữ nhi, sau ánh hào quang luôn là cảm giác tổn thương, cõi lòng hoang mang vô tận. Tổ Gia nhớ đến cha mẹ, em trai và em gái mình, mệnh trời tàn khốc, nhà tan cửa nát, còn mình phải gắng sức tự bảo vệ tính mạng giữa chốn giang hồ hiểm ác. Hôm nay còn thỏa sức uống say, ngày mai chưa biết chừng đã mất mạng, chuyện sống chết như ngọn nến chập chờn trước gió, kẻ vô dụng này đến khi nào mới có thể an hưởng quãng đời còn lại!?
Lúc này, một tên tay chân chạy vào, Hoàng Pháp Dung vội vàng quay đầu lau khô nước mắt.
“Tổ Gia, Đại sư bá Nam phái tới thăm!”
Tổ Gia vội quay người lại, Giang Phi Yến đến ư? “Mau mau mời vào!”
Hoàng Pháp Dung vừa nghe thấy Giang Phi Yến đến, mừng rỡ chạy ùa ra.
Lúc này, Giang Phi Yến đã đi vào tới trong sân.
“Mẹ nuôi!” Hoàng Pháp Dung sà vào lòng Giang Phi Yến, nước mắt chan hòa.
Giang Phi Yến không biết đã xảy ra chuyện gì, còn tưởng Hoàng Pháp Dung lâu ngày không được về thăm nhà, mong nhớ người thân, liền ôm con gái nuôi vào lòng, nói: “Con gái nín nào, lần này mẹ nuôi đến không phải là để thăm con…” Tuy ngoài miệng nói vậy, nhưng mắt bà cũng đỏ hoe.
Các Bá đầu trong Đường khẩu thi nhau đến chào hỏi, Trương Tự Triêm bị rượu đánh gục cũng vội vàng đến hành lễ: “Không biết mẹ nuôi tới, con đã không đón tiếp từ xa.”
Tổ Gia cũng không hiểu tại sao Giang Phi Yến lại đường đột đến thăm. Sau khi hàn huyên một hồi, Tổ Gia mời Giang Phi Yến vào phòng khách, cùng uống trà trò chuyện.
Giang Phi Yến nói: “Phi Yến không mời mà đến, mong Tổ Gia không trách.”
Tổ Gia thi lễ cười đáp lại: “Yến tỷ tới thăm, là khách quý đến nhà, thật vinh hạnh.”
Giang Phi Yến nói: “Gần đây, Giang Hoài nổi cơn sóng gió, năm tỉnh phía Nam đều hay tin. Gián điệp mà tôi cài trong Thái Cực Bang ở Phúc Kiến cũng báo tin rằng, Mai Huyền Tử của Mai Hoa Hội gần đây còn xuất hiện ở Phúc Kiến, qua lại thân thiết với sư thái Nhược Lan của Thái Cực Bang, Thái Cực Bang cũng có vẻ muốn xa lánh chúng tôi.”
Thái Cực Bang mà Giang Phi Yến nhắc đến là hội đạo môn lớn nhất ở Phúc Kiến, do một đạo cô có tên Lý Mỹ Hạc – đạo hiệu Nhược Lan – đứng đầu, người ta vẫn thường gọi bà là Nhược Lan sư thái. Nhiều năm nay, vì địa lý gần kề, nên Thái Cực Bang và Việt Hải Đường vẫn qua lại thân thiết với nhau. Năm 1929, Giang Phi Yến đến chúc thọ, đồng thời bàn chuyện với sư thái Nhược Lan, chính khi rời khỏi đây, bà gặp Hoàng Pháp Dung đang nằm thoi thóp bên đường.
Giang Phi Yến nhấp một ngụm trà, nói tiếp: “Bên tổ chức Mật tra của Quốc dân Đảng cũng để mắt tới việc này. Việc Mai Huyền Tử đốt đèn quỷ bên bờ sông làm náo động Giang Hoài, khiến bọn cầm đầu các hội đạo môn ở Thiên Tân, Bắc Bình, Giao Đông nườm nượp tới chúc mừng, ngay cả bọn trùm sò Trung Nguyên Ngũ Hổ và Trịnh Bán Tiên ở Giao Đông, vốn luôn cuộn mình trong chuồng cũng phải hạ mình đến bái kiến Mai Huyền Tử, chuyện hiếm thấy xưa nay.”
Lúc này, Tổ Gia mới nhận thấy rằng, hình như Chưởng môn của Nam phái còn nắm rõ tình hình ở Giang Hoài hơn cả mình. Các nữ A Bảo Nam phái Việt Hải Đường xưa nay thực đáng nể.
Một trong năm vị sư tổ Hồng Môn năm xưa là Phương Chiếu Dư đã sáng lập ra phái Giang Tướng, bên dưới thiết lập bốn môn phái lớn: Càn, Khôn, Khảm, Ly. Ly Môn chính là Việt Hải Đường sau này. Chưởng môn đầu tiên của Ly Môn tên Đường Vịnh Hà – một bậc tài nữ có tiếng vào thời vua Khang Hy. Cha bà Đường Quốc Dung – một ông chủ buôn bán tơ lụa giàu có ở Giang Nam. Một lần, bởi trên tấm tơ lụa tiến cống vào cung đình có thêu câu Hoàng ân hạo đãng tồn thiên cổ. Hoa Hạ di địch tứ hải bình mà bị khép vào án văn tự ngục, Khang Hy cho rằng hai chữ di địch ngầm ám chỉ dân tộc Mãn, liền hạ lệnh xử tội chết Đường Quốc Dung, bắt chu di cửu tộc.
Vào ngày hành hình, trời nổi trận cuồng phong, cát bay đá bay mịt mù, một người trong đám lục lâm năm xưa từng được Đường Quốc Dung ra tay cứu giúp đã dẫn người đi cướp pháp trường, cứu được Đường Vịnh Hà, người này chính là Phương Chiếu Dư. Đường Vịnh Hà sau khi gia nhập Thiên Địa Hội vẫn nung nấu ý định trả thù. Về sau, dưới sự bố trí thống nhất của Thiên Địa Hội, Đường Vịnh Hà đã trợ giúp hiệp nữ Lã Tứ Nương lấy đầu vua Ung Chính – con của Khang Hy bằng loại binh khí có tên là huyết trích tử.
Lã Tứ Nương có thể lẻn vào cung cấm giết chết Ung Chính một phần nhờ công lao của Đường Vịnh Hà, chính bà ta đã bố trí kẻ chỉ điểm trong hoàng cung. Qua việc này, Đường Vịnh Hà hiểu rõ một điều, muốn làm được việc lớn, cần phải có người trong triều đình. Dùng mỹ nhân kế để thâm nhập vào nội bộ tầng lớp quan lại cấp cao trong chính phủ đã trở thành tổ huấn trong Đường khẩu của bà.
Ba trăm năm nay, Việt Hải Đường đời nào cũng có mỹ nhân, thế hệ nào cũng gài tai mắt trong nội bộ chính phủ. Nhờ vậy, Việt Hải Đường trở thành một trong bốn môn phái của Tứ đại Đường khẩu có nền tảng vững chắc nhất trong chính phủ. Đến thời Dân quốc, Tây phái Long Tu Nha lại nhảy ra một tên Lưu Tòng Văn, luôn dốc sức để chui được vào hàng ngũ quân đội chính phủ, mới phá vỡ được tình thế này. Nhưng cảnh tượng tốt đẹp chẳng được bao lâu, Lưu Tòng Văn nhanh chóng bị đồ đệ của ông ta là Tần Bách Xuyên hạ bệ.
Giang Phi Yến sở dĩ nắm rõ tình hình Giang Hoài trong lòng bàn tay, là bởi được kế thừa mối qua lại với những người trong tổ chức Mật tra của Quốc dân Đảng.
Kỳ thực, thời đó, bọn quân phiệt cát cứ, các cường quốc hùng mạnh nhảy vào xâu xé Trung Quốc, chính phủ Quốc dân Đảng về căn bản chẳng rảnh rỗi mà ngó ngàng đến việc của các hội đạo môn. Có điều, các hội đạo môn đi lại rất gần gũi với phường Hắc đạo, những băng đảng Xã hội đen này lại gắn bó mật thiết với mạng lưới gián điệp của Quốc dân Đảng; hơn nữa, các hội đạo môn bắt rễ ở Trung Quốc đã lâu, bọn Quốc dân Đảng, trên từ ông tổng, dưới đến bọn đặc vụ quèn đều cực kỳ mê tín, bởi vậy vào thời này, hội đạo môn ở các ngả mới đều đạt được “thành tựu rực rỡ” như vậy.
Sau khi nghe Giang Phi Yến phân tích tình hình, Tổ Gia nói: “Xem ra Tả Vịnh Thiền nói có lý, lịch sử các hội đạo môn ở Trung Quốc cần phải viết khác rồi!”
Giang Phi Yến sững người: “Viết khác đi?”
Tổ Gia gật đầu: “Mới đây Tả Vịnh Thiền tới thăm, hắn nói một loạt những sự kiện diễn ra gần đây ở Giang Hoài đều có nhân vật lớn đứng sau lưng ủng hộ. Bây giờ xem ra, không chỉ ở Giang Hoài, mà cả nước Trung Quốc sắp có biến lớn rồi.”
Hai người đang nói chuyện thì quản gia đi vào, đưa cho ông một bức thư.
Tổ Gia mở ra đọc, ông giật mình, đó chính là mật thư của Mai Huyền Tử, trong thư đại thể nói: “Oan gia nên giải không nên kết, mong Tổ Gia không để bụng những chuyện hiềm khích trước đây, để xây dựng lại mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nhà. Mai Huyền Tử muốn mở tiệc xin lỗi ở khách sạn Tây Nhã khu Lô Loan, mong Tổ Gia đến dự.”
Mai Huyền Tử dàn cục quan tài tóc đen khiến ông mất ăn mất ngủ, còn cạn tàu ráo máng tiếp tục dàn cục lớn đốt đèn quỷ bên sông hòng diệt trừ Tổ Gia, khiến ông phải nghiến răng nghiến lợi vì căm hận, giờ lại đột nhiên muốn giữ mối giao hảo, Tổ Gia thừa biết lão có ý đồ khác.
Nhiều năm nay, giữa Mộc Tử Liên và Mai Hoa Hội nước giếng không phạm tới nước sông. Mai Hoa Hội lăn bánh khá muộn, phải đến thời kỳ đại chiến Trực Phụng lần thứ hai mới được thành lập, không có nền tảng cả mấy trăm năm như phái Giang Tướng, nên luôn tỏ ra kính cẩn nghiêng mình trước Mộc Tử Liên, vậy mà gần đây lại có động thái khác thường, liên tục phá rối. Trong mắt Tổ Gia, Mai Huyền Tử chỉ là một kẻ sinh sau đẻ muộn, khi nhờ Tổ Gia xem tướng trên Diêm Tích Sơn, lão ta vừa mới xuất gia chưa được mấy năm.
CON BẠC BIẾN CHẤT
Mai Huyền Tử vốn là đạo sĩ của một đạo quán nhỏ dưới chân núi Hoàng Sơn tỉnh An Huy, sư phụ của y là lão tiên sinh am hiểu Đạo giáo Mai Phủ Tổ. Khi còn trẻ, Mai Phủ Tổ dạy học ở Thiên Tân, vì từ lâu đã ngưỡng mộ tài hoa của thầy Lý Thúc Đồng – một bậc thầy quốc học, thường xuyên qua lại thăm hỏi, được Lý Thúc Đồng làm phép cho nhiều lần. Sau khi Lý Thúc Đồng xuất gia, Mai Phủ Tổ cũng xuất gia theo, họ tu hành ở Mai Hoa Quán dưới chân núi Hoàng Sơn.
Mai Huyền Tử vốn không phải họ Mai, tên thật của y là Hứa Lạc Thạch, người Lan Châu. Cha y vốn là thương nhân buôn ngựa bán la, đám lái buôn ở Trung Nguyên làm ăn buôn bán với Tây Vực, Lâu Lan đều phải mua, thuê lừa ngựa của cha y để chở đồ đạc.
Mai Huyền Tử từ nhỏ tính tình ương ngạnh, khó bảo, 15 tuổi đã học được trò đánh bạc của bọn lưu manh trên phố, từng dắt trộm của cha một con la đem đi bán lấy tiền đánh bạc, khiến ông bố tức đến nỗi muốn đập chết y, may có bà mẹ vật nài van xin nên chỉ bị ăn một trận gậy nhừ tử.
Năm 1920, huyện Hải Nguyên ở Ninh Hạ xảy ra một trận động đất lớn rất hiếm gặp trong lịch sử, một phần tư đất nước Trung Quốc rung chuyển. Nhà ở quê của Hứa Lạc Thạch cũng bị đổ sập xuống, cha mẹ anh em chết sạch. Còn hắn, vì cứ tối đến lại đi bài bạc với đám bạn cờ bạc ở một cái lán dựng bằng tre trúc, trên phủ tấm bạt, khi xảy ra động đất, không có vật nặng nào rơi xuống nên hắn mới may mắn thoát nạn.
Sau trận động đất, Hứa Lạc Thạch không những không biết hối cải, ngược lại còn dắt hết lũ ngựa, la trong chuồng đi bán, ngay cả những di vật trong căn nhà bị đổ nát kia cũng bị bán ráo, dốc hết vào bài bạc, càng chơi càng đánh lớn. Về sau hắn bị thua sạch, lại nợ tiền người ta, nên bị dọa chặt mất một cánh tay, lúc này hắn mới hoảng hốt chạy khỏi Lan Châu, làm một gã ăn mày, cuối cùng đến được An Huy.
Nơi đất khách quê người, Hứa Lạc Thạch lê la đói khát mấy ngày trên phố, cuối cùng cũng đến được Mai Hoa Quán của tiên sinh Mai Phủ Tổ trong bộ dạng thất thểu, lử đử vì đói. Vừa vào tới cửa, hắn liền quỳ sụp xin ăn. Mai Phủ Tổ là người có tấm lòng Bồ Tát, liền kêu người mang đến cho hắn một bát mỳ chay.
Đã mấy ngày không có gì vào bụng, nhìn thấy đồ ăn, hắn liền vồ lấy, bưng lên ăn ngấu nghiến.
Mai Phủ Tổ nói: “Không phải vội, không phải vội, ăn hết ta lại lấy cho.”
Nghe thấy Mai Phủ Tổ nói vậy, Hứa Lạc Thạch miệng đang nhét đầy mỳ liền ngưng lại một chút, sống mũi cay cay. Không biết có phải chốn đạo môn thanh tịnh khiến lương tâm hắn “sống dậy”, hay bởi đói khát nhiều ngày, nếm trải mùi vị khốn khổ khiến tinh thần suy sụp mà nước mắt hắn cứ chảy ra không sao ngăn lại được, cuối cùng hắn quỳ sụp xuống cầu xin: “Sư phụ, sư phụ, xin hãy nhận con làm đệ tử! Con mệt mỏi lắm rồi, không muốn bước ra khỏi đây một bước nào nữa!”
Mai Phủ Tổ nghe thấy vậy, chậm rãi nói: “Đã nếm trải khổ ải, chẳng bao lâu sẽ giác ngộ, nếu thí chủ đã thật sự nhìn thấu hồng trần, cha mẹ lại không cản ngăn thì có thể ở lại đạo quán nhỏ này, ngày ngày tụng kinh tham thiền, cầu phúc cho muôn dân cho đến lúc cuối đời.”
Lúc này, Hứa Lạc Thạch mới nghĩ đến việc cha mẹ mình chẳng còn, hai con người thương yêu mình nhất trên cõi đời này đã mãi mãi đi xa. Hắn nhận thấy mấy năm nay, tâm hồn mình như đã bị loài quỷ dữ bắt mất, trong đầu chỉ có cờ bạc, cha mẹ chết mà hắn còn chẳng mảy may đau buồn. Nghĩ đến đây, Hứa Lạc Thạch mới bật khóc.
Mai Phủ Tổ biết người thanh niên này có nỗi khổ không thể nói hết được, nhưng may mà vẫn chưa mất hết tâm lành, ông liền thu nhận làm đệ tử, ban cho đạo hiệu là Huyền Tử, đổi thành họ Mai. Từ đó, Hứa Lạc Thạch trở thành Mai Huyền Tử, mọi chuyện của ngày trước khép lại, nửa đời còn lại làm bạn với ngọn đèn dầu và pháp khí.
Đức Phật đã dạy: “Điều phục cương cường chúng sinh”. Hai chữ “cương cường” chỉ kẻ ngu tối gàn bướng, thói xấu khó cải, đến một lúc nào đó cũng có thể tỉnh ngộ, nhưng cái tâm ngộ tỉnh ấy chỉ chớp mắt lại lụi tắt.
Khi mới bắt đầu tu, quả thực Mai Huyền Tử có cảm giác y đã thực sự giác ngộ, ngày ngày khẩn cầu sám hối, có lúc nước mắt rơi cả xuống hương án. Nhưng chỉ được vài tháng, con quỷ trong hắn lại bắt đầu trỗi dậy. Một hôm, nhân lúc mấy sư huynh không để ý, hắn liền lấy trộm tiền giọt dầu trên hương án đi đánh bạc.
Kết quả thế nào chẳng cần đoán cũng biết, mười lần đánh thì chín lần thua, chưa đầy hai tiếng đồng hồ đã hết sạch tiền.
Sau khi thua bạc, lòng ngổn ngang, hắn dật dờ quay về đạo quán. Về đến cổng, hắn lại lưỡng lự, còn mặt mũi nào mà gặp sư phụ đây? Nghĩ thế, hắn liền quay người định bỏ đi, nhưng lại chẳng có nơi nào để đi, nghĩ tới nghĩ lui, hắn bất chấp mọi chuyện, bước thẳng vào đạo quán.
Mai Phủ Tổ vẫn ngồi thiền ở hậu đường, chẳng hề hay biết chuyện này.
Khi thụ trai, một đệ tử pháp hiệu Huyền Không từ ngoài tiền đường chạy vào báo: “Thưa sư phụ, tiền trên hương án bị thiếu…”
Mai Phủ Tổ sững người, hỏi: “Liệu lúc chiều có người ngoài tới đạo quán?”
Huyền Không đáp: “Chỉ có vài vị khách đến thắp hương cầu khấn. Nhưng… nhưng…”
Mai Phủ Tổ nhướng cặp mắt hiền từ hỏi: “Con nhưng cái gì?”
“Nhưng… nhưng, sư đệ Huyền Tử chiều nay đã đi ra ngoài…”
Mai Phủ Tổ đưa mắt nhìn Mai Huyền Tử, hỏi: “Huyền Tử, con ra ngoài làm gì?”
Mai Huyền Tử lắp bắp: “Con ra ngoài… mua dầu mè, con thấy dầu mè để đốt đã gần hết, mới đi…”
“Đệ nói dối!” Huyền Không nói. “Dầu mè đâu? Chính đệ đã lấy trộm tiền…”
“Hỗn láo!” Mai Phủ Tổ quát. “Mai Huyền Tử là sư đệ con, sao nó có thể lấy trộm tiền chứ!”
Tim Mai Huyền Tử đập cứ thình thịch.
Mai Phủ Tổ lại nói: “Huyền Tử, sau này xuống núi làm gì, trước tiên phải báo cho sư huynh, con nhớ chưa?” Câu cuối cùng, lão tiên sinh lên giọng.
Mồ hôi vã ra đầy mặt, Mai Huyền Tử đáp: “Đệ tử nhớ rồi.”
Đêm đó, Mai Phủ Tổ gọi Mai Huyền Tử đến thiền phòng, chỉ bảo riêng hắn: “Người xuất gia, làm hòa thượng hay đạo sĩ, đã bái lạy Tam Thanh, cung kính trước Tam Bảo, dứt bỏ mọi chuyện chốn bụi trần, là việc đại thiện. Việc trong thế gian có đẹp có hay, cũng chỉ là hoa trong gương, là trăng dưới nước, con có hiểu được đạo lý này không?”
Mai Huyền Tử khe khẽ gật đầu.
Mai Phủ Tổ nhìn hắn ta, nói tiếp: “Ta kể cho con nghe một câu chuyện. Có một người tinh thông âm luật, chính là người soạn lên khúc nhạc đầu tiên ở nước ta, bài thơ Tống biệt do ông viết lời sau khi được phổ nhạc, trở thành bài hát vang ca khắp nơi; ông ta còn rất giỏi thư pháp, đến nỗi người như Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược mà có được một tác phẩm thư pháp của ông ta đã được xem là niềm vinh dự.; ông vẽ tranh rất khéo, các bậc thầy nổi tiếng như Phong Tử Khải đều là học trò của ông; ông ta rất rành về kim thạch, đao pháp tự nhiên, toàn vẹn; ông đã đẩy mạnh loại hình kịch nói, năm Quang Tự 33 lên sân khấu diễn vở kịch Trà Hoa Nữ. Những việc này, người nghèo khổ bình thường cả đời cũng không thể đạt đến cảnh giới, nhưng ông ấy lại đạt được hết, dường như ông là một con người hoàn hảo. Con có biết người này là ai không?”
Mai Huyền Tử khẽ trả lời: “Lý Thúc Đồng.”
Mai Phủ Tổ nói: “Đúng. Người đời biết nhiều đến một Lý Thúc Đồng với ánh hào quang bao quanh, nhưng không hề biết đến pháp sư Hoằng Nhất nơi Phật môn thiền viện, ông đã vứt bỏ mọi thứ ông ham thích và niềm vinh quang, một lòng hướng Phật, tại sao vậy?”
Mai Huyền Tử cúi đầu không nói gì.
Mai Phủ Tổ nói: “Người đời đều nói, những người xuất gia đều vì cùng đường, không thể bon chen được với thế tục nên mới xuất gia; cũng có người nói, người xuất gia ngốc nghếch, không biết đến niềm vui chốn nhân gian. Hành động của Lý Thúc đã giải thích cho đạo lý của người xuất gia. Có phải ông ta cùng đường không? Đâu phải vậy, ông ấy tri thức uyên bác, nội tâm dạt dào. Ông không thể bon chen với đời ư? Càng không phải vậy, ông nổi danh khắp cửu châu, được người ta yêu mến vô cùng. Ông ấy ngốc nghếch ư? Những người có trí tuệ hơn ông trong chốn nhân gian e rằng còn chưa sinh ra đời. Ông không hiểu được niềm vui chốn nhân gian? Càng không phải, rất nhiều phương diện không ai có thể theo kịp trình độ của ông, ông ấy không những hiểu mà còn hiểu sâu sắc niềm lạc thú trong đời. Ông xuất gia bởi ông thấu rõ, tất cả những thứ ấy đều là mộng ảo, là bong bóng. Bỏ – được, bỏ – được, có bỏ mới có được, Hoằng Nhất pháp sư có bao nhiêu điều ham thích như vậy mà đều có thể từ bỏ được, bản thân con hãy ngẫm nghĩ xem.”
Mai Huyền Tử nghe xong, chợt tỉnh ngộ, hắn ta thầm hạ quyết tâm: “Nếu còn đánh bạc, con sẽ đi chết!”
Nhưng, cảnh tượng tốt đẹp lại chẳng được bao lâu. Hai tháng sau, hắn đã không thể nhịn được cơn thèm khát, lại lấy cắp tiền đi đến ổ bạc. Sau khi thua sạch, hắn quay về trước cổng đạo quán, dập đầu mạnh xuống đất lạy ba lạy, sau đó quay người đi về ngọn núi phía sau đạo quán, đâm đầu vào tảng đá lớn, máu chảy ròng ròng rồi ngất lịm.
Khi tỉnh lại, hắn thấy mình đang nằm trong thiền phòng của sư phụ.
Kỳ thực, lúc chiều khi hắn chạy đi, một đạo đồng đứng trông cổng đạo quán đã vào bẩm báo với sư phụ, Mai Phủ Tổ liền bảo Đại đệ tử Huyền Không đi theo trông chừng hắn.
Huyền Không đi theo hắn đến tận sới bạc, trong lòng thầm nghĩ thằng tiểu tử này đúng là tật xấu khó bỏ, nhưng sư phụ đã dặn rồi, cứ trông chừng nó là được, nên tìm một quán trà cách đó không xa ngồi đợi. Chẳng bao lâu đã thấy tên tiểu tử này đi ra, Huyền Không liền đi theo hắn, thấy hắn vái lạy ba vái trước sơn môn, thầm nghĩ thằng đốn mạt này xem như vẫn còn chút ít tâm lành, rồi sau thấy hắn cắm đầu chạy về ngọn núi, Huyền Không không hiểu chuyện gì, nghĩ rằng hắn muốn bỏ đi, kết quả là lại thấy hắn dừng lại trước một tảng đá lớn. Huyền Không cười thầm: Còn phải úp mặt vào tường mà ăn năn à. Thấy trời đã tối, đang định gọi hắn về, nào ngờ hắn lại đâm đầu vào tảng đá lớn!
“Chết còn không sợ, chừa đánh bạc lại khó đến vậy sao?” Mai Phủ Tổ nhìn hắn hỏi.
“Sư phụ…” Mai Huyền Tử cay sống mũi, nước mắt ứa ra.
MAI HOA HỘI ĐẾN THĂM
Chớp mắt đã đến ngày đi dự yến tiệc. Đây chính là bữa tiệc tại khách sạn Tây Nhã mà Mai Huyền Tử khoản đãi Tổ Gia.
Giang Phi Yến lo sợ nói: “Hồng Môn yến, Tổ Gia hãy thận trọng.”
Tổ Gia cũng đang cân nhắc, khách sạn Tây Nhã nằm ở khu Lô Loan, thuộc tô giới Pháp, tại sao Mai Huyền Tử lại chọn nơi này? Gần đây, lão ta năm lần bảy lượt giở trò sau lưng mình, lần này đột nhiên lại bày tiệc xin lỗi, nên đi hay không đây?
Trong thư Mai Huyền Tử cũng đã nói rõ, để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Tổ Gia, hắn sẽ để đứa con trai năm tuổi của mình ở lại trong Đường khẩu của Tổ Gia, bản thân hắn chỉ mang theo hai tên tùy tùng; sau khi tàn tiệc, đợi Tổ Gia về đến Đường khẩu an toàn, lại nhờ Tổ Gia phái người đưa con hắn về.
Mai Huyền Tử có một vợ và hai thiếp, bà vợ năm xưa cùng hắn sáng lập Mai Hoa Hội bây giờ vẫn là phần tử cốt cán, còn hai người thiếp đều là đệ tử đầu tiên của hắn. Đứa con năm tuổi do bà vợ chính thất sinh ra. Hổ dữ còn không ăn thịt con, dùng tính mạng của con mình để làm tin, xem ra lần này Mai Huyền Tử có thành ý thật.
Tổ Gia quyết định đến dự tiệc.
Tổ Gia biết, Mai Huyền Tử đã được lão tiên sinh Mai Phủ Tổ giáo hóa từ lâu, từ một con bạc biến thành một con người phong lưu, nhã nhặn. Hắn đã tỏ ra lịch sự thì mình cũng dùng thái độ như vậy mà đáp lại, cho nên đi dự tiệc lần này, Tổ Gia không mang theo Đại Bá đầu mặt mũi đằng đằng sát khí, càng không mang theo một kẻ ăn nói bỗ bã như Nhị Bá đầu, mà chỉ cho Tam Bá đầu phong thái nho nhã và Ngũ Bá đầu thật thà, ngay thẳng đi cùng.
Giờ Tỵ hôm sau, mũ mão chỉnh tề, Tổ Gia cùng Tiết Gia Nhân và Lương Văn Khâu thẳng tiến về khách sạn Tây Nhã.
Khi Tổ Gia vừa đến nơi, Mai Huyền Tử tỏ ra rất kính cẩn, ông ta ngồi đợi ở phòng trà trên lầu hai từ lâu.
Tổ Gia ngồi xuống, Mai Huyền Tử gọi người mang đồ ăn đến.
Mai Huyền Tử rót cho Tổ Gia một chén đầy, nói: “Tổ Gia đến được, tôi rất mừng lòng.”
Tổ Gia mỉm cười, nói: “Thần tiên đã mời, tiểu quỷ không dám không đến.”
Mai Huyền Tử cười ha hả, nói: “Khung cảnh ở khu tô giới Pháp tao nhã đẹp đẽ, bầu không khí chính trị cũng thư thả nhẹ nhàng, bọn Trung Cộng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất ở đây cũng chính bởi điều đó. Tôi vì vậy mới bày tiệc nơi này.”
Tổ Gia tắt nụ cười, nói luôn: “Phái Giang Tướng xưa nay chưa từng kết oán với người trong giới, từ khi Mai Hoa Hội được thành lập cho tới nay, chúng tôi chưa từng có hành động vượt quá lễ nghĩa, không biết rốt cuộc là có chỗ nào không phải, để Mai sự phụ dàn cục sau lưng, vô cớ gây khó dễ?”
Mai Huyền Tử cười nói: “Tổ Gia việc gì cũng làm đâu ra đấy, chỉ là không có lòng ái quốc.”
Tổ Gia sững người, nói ngay: “Ái quốc? Hai chữ ’ái quốc’ được nói ra từ miệng của hàng chí sĩ yêu nước trong đảng phái cách mạng thể hiện tâm huyết và đại nghĩa dân tộc, còn phát ra từ miệng của Mai sư phụ, lẽ nào không phải chuyện nực cười?”
Mai Huyền Tử lắc lắc đầu: “Từ xưa tới nay, phái Giang Tướng luôn tự xưng là cướp của nhà giàu cứu tế người nghèo, nói đi nói lại, dù thế nào cũng vẫn được tiếng làm khổ người mình. Lừa người tốt hay lừa kẻ xấu thì cũng đều là người Trung Quốc. Tổ tông các ông vào buổi đầu sáng lập phái Giang Tướng với mục đích phản Thanh phục Minh, giang sơn của người Hán bị người Mãn chiếm mất, người Hán không phục, mới đề ra khẩu hiệu ‘phản Thanh phục Minh’. Mấy trăm năm nay, người Mãn người Hán thường xuyên qua lại chung sống hòa thuận với nhau, Trung Hoa được thống nhất, từ lâu đã chẳng còn khoảng cách dân tộc nữa, nếu nói đến dân tộc, cả nước Trung Quốc bây giờ chỉ có một dân tộc Trung Hoa. Nay phái Giang Tướng vẫn khoác lên mình tấm áo thay trời hành đạo mà khoác lác lừa đảo, không biết là đang thay ông trời nào, hành thứ đạo gì? Đại nghĩa nằm ở đâu? Mục đích nhằm chỗ nào?”
Tổ Gia không ngờ Mai Huyền Tử lại có thể nói ra những lời này, nhất thời không biết phải đối đáp thế nào. Một lúc sau, Tổ Gia vặn lại: “Đã biết là lừa người mình, vậy tại sao Mai sư phụ còn lập ra Mai Hoa Hội? Phái Giang Tướng của tôi ít nhất cũng hiểu thấu đạo lý ’cướp của nhà giàu chia cho người nghèo’, còn tiền mà các người lừa được đều đút căng túi làm của riêng đấy thôi!”
Mai Huyền Tử cười lớn: “Sao Tổ Gia biết tôi chỉ biết đút túi làm của riêng? Mai Hoa Hội lập ra từ 12 năm nay, mỗi khoản đều ghi lại rõ ràng, ngoài khoản chi tiêu bình thường dùng để duy trì Đường khẩu ra, mọi nguồn thu đều cho vào sổ sách, đợi thời cơ chín muồi, khoản tiền này sẽ có chỗ dùng đến.”
Tổ Gia cũng cười: “Mai sư phụ nói chơi, tôi đây cũng nghe chơi vậy.”
Mai Huyền Tử nhìn Tổ Gia, nói: ”Tôi hỏi ông, nay như hội đạo môn của tôi và của ông, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là gì?”
Tổ Gia nói: “Tôi xin dỏng tai lắng nghe.”
Mai Huyền Tử vuốt vuốt chòm râu, thở dài, nói một tràng: “Xa chẳng nói làm gì, cứ nói ngay bến Thượng Hải này vậy. Trên khắp phố lớn ngõ nhỏ, đầy rẫy những thứ của bọn Tây. Tổ Gia nhìn thấy không, hai bên đường có bao nhiêu giáo đường của chúng? Thiên Chúa Giáo, Cơ Đốc Giáo đâu đâu cũng có. Quốc giáo của mình ở đâu? Từ cuộc ‘chiến tranh Nha phiến’ tới nay, dưới sự thâm nhập của tôn giáo phương Tây, Quốc giáo tàn lụi dần. Đến nay, tín đồ của chúng đã rải khắp cả nước, con số lên đến mấy chục vạn người. Bọn cha xứ, cha đạo thi nhau mua ruộng mua đất, tệ hơn, chúng còn mê hoặc dân chúng quyên tặng tiền của, tài sản cho chúng. Đã nhiều năm nay, bao nhiêu chùa chiền, đạo quán đều bị đem tặng làm giáo đường của Tây, số lượng bao nhiêu có đếm được không? Ngay cả miếu thờ Quan Đế cũng phải đem biếu cho chúng. Trong ba tôn giáo Nho, Phật, Đạo, chỉ có hai nhà Nho giáo và Đạo giáo là do các bậc thánh nhân Hoa Hạ của ta sáng lập ra, còn đạo Phật được truyền vào nước ta từ thời nhà Hán, trải qua mấy nghìn năm phát triển mạnh mẽ, cũng có thể coi là một tôn giáo của mình. Nay, các tôn giáo của bọn Tây tràn vào, Quốc giáo đang đứng trước nguy cơ bị bóp chết chưa từng có trước đây! Đất bị cắt, còn có thể lấy lại được; người chết rồi, vẫn còn cháu con nối dõi; tín ngưỡng mà bị người ta xúc đổ đi, chúng ta còn là người Trung Quốc không? Quốc nạn sắp ập xuống đầu, hội đạo môn các nơi trên khắp cả nước vẫn còn say sưa với trò vui của riêng mình, ai cũng chỉ biết quét đống tuyết trước cổng nhà mình, hỏi có ngu muội không chứ? Từ đầu năm nay, Mai Hoa Hội của tôi tạo thanh tạo thế lớn như vậy là để lôi kéo nhân dân Giang Hoài tấp nập gia nhập, chúng tôi muốn tuyên truyền, giảng giải để người dân hiểu rõ hiểu sâu về tôn giáo của dân tộc Hoa Hạ chúng ta, đồng thời thấy được giáo lý của ta không thua kém gì bọn Tây. Bọn cha đạo có thể nói chuyện được với thượng đế, tại sao tôi lại không thể chuyện trò được với thần tiên? Nhân dân tin tôi, tâm hồn được giải thoát, họ biết tu thân mà phát thiện căn, kế thừa bậc thánh mở ra tương lai, tôi sai chỗ nào?”
Tổ Gia không nói lại được lời nào. Lão ta nói có lý có lẽ, nhưng Tổ Gia không biết đây là lời gan ruột của lão, hay chỉ khua môi múa mép ra vẻ với mình?
Mãi lâu sau, Tổ Gia nói: “Ông dùng mánh khóe bịp bợm lừa gạt người dân, đây cũng không phải đạo lý mà các bậc thánh nhân truyền dạy.”
“Lừa gạt chỉ là cách thức làm việc, không phải mục đích. Nay quốc nạn đã ập tới đầu, lòng người nông nổi, không đem những chuyện thần tiên hạ phàm ra thì ai tin tôi?” Lão lại ngửa mặt lên trời chắp tay nói. “Tôi biết mình nghiệp chướng nặng, nhưng trời xanh có thể chứng giám cho nỗi khổ trong lòng tôi!”
Tổ Gia nói: “Mai sư phụ muốn phát triển Đạo giáo thì cứ tự mình làm là được, tại sao lại phải dùng dao đâm sau lưng Mộc Tử Liên của ta?”
“Đây chính là lý do hôm nay tôi mời Tổ Gia đến…”
Lời còn chưa dứt, bỗng một tiếng súng ầm ùng vang lên, cánh cửa bật ra, Tổ Gia quay đầu lại nhìn, thấy Tăng Kính Vo dẫn theo bọn Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu xông vào.
“Tổ Gia đi mau!” Tăng Kính Võ hét lớn.
Chưa dứt lời, mấy tên mặc áo đen cầm súng từ phía hành lang lao tới, thoắt một cái đã hiện ngay trước cửa, giơ súng chĩa thẳng Tổ Gia mà bắn.
Lương Văn Khâu ngồi ngay bên cạnh đẩy mạnh Tổ Gia ra, bị viên đạn găm trúng vào vai trái.
Tăng Kính Võ, Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu bắn trả tới tấp, hai bên giao chiến ác liệt, đạn bay loạn xạ, chén bát trên bàn và cửa sổ đều bị bắn tan tành.
Mai Huyền Tử hoảng sợ nằm bò ra phía sau chiếc ghế sô pha, kêu lên: “Xảy ra chuyện gì thế?”
Nhị Bá đầu chạy lên đạp cho hắn ta một phát: “Cho lão chết này!” Sau đó đạp tung cửa sổ ra: “Tổ Gia, đi mau!”
Tổ Gia nhìn Mai Huyền Tử, nói với Nhị Bá đầu: “Đừng làm hại ông ta!”
Ngay sau đó, Tổ Gia kéo Lương Văn Khâu nhảy xuống qua cửa sổ, một chiếc ô tô phóng ngay tới.
“Tổ Gia, mau lên xe!”
Tổ Gia dìu Lương Văn Khâu chui vào xe, chiếc xe lao nhanh như gió, mất hút ở cuối đường.
Lái xe là một thanh niên mà Tổ Gia không quen. Qua gương chiếu hậu, anh ta thấy vẻ mặt Tổ Gia vẫn còn chưa hết bàng hoàng, liền nói: “Tôi là đệ tử của Tăng Giáo đầu, ông ấy đã bảo tôi đợi ở đây.”
“Tăng Giáo đầu…” Tổ Gia quay đầu nhìn về cửa kính phía sau xe.
“Ông yên tâm, sư phụ tôi võ nghệ cao cường, rất thông thạo khu này.”
Tổ Gia hít một hơi thật sâu, cố gắng bình tĩnh, ngẫm lại tất cả mọi việc đang xảy ra trong tâm trạng còn khá căng thẳng.
Chiếc xe phóng một mạch về đến Đường khẩu, Tổ Gia vội vàng gọi thầy thuốc đến xử lý vết đạn cho Lương Văn Khâu.
Tiếng súng ở khách sạn Tây Nhã cũng lắng dần, vài phút sau thì yên ắng hẳn, chỉ còn vài thi thể nằm lại trong phòng. Đến trưa, bọn Tăng Kính Võ cũng rút hết về Đường khẩu.
Thấy tất cả mọi người đều còn sống trở về, Tổ Gia cũng vơi bớt lo lắng, ông liền hỏi Tăng Kính Võ xem đã xảy ra chuyện gì.
Tăng Kính Võ uống vài ngụm trà, kể lại toàn bộ đầu đuôi sự việc.
Thì ra lúc sáng, khi Tổ Gia vừa đi khỏi chưa lâu, Tăng Kính Võ đến phủ tìm thì không thấy ông có nhà.
Giang Phi Yến nói: “Tổ Gia đã nhận lời mời của Mai Huyền Tử, đến khách sạn Tây Nhã.”
Tăng Kính Võ kêu lên: “Hỏng rồi!” Rồi lập tức dẫn bọn Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu tới khách sạn Tây Nhã.
Sở dĩ, Tăng Kính Võ khẩn trương đến vậy bởi người mà ông ta cài ở Ngô Tùng (Giang Tô) vừa cắt được một đoạn điện báo mật của người Nhật, đó là một danh sách những người cần phải ám sát:
Lam Y Đới
Phủ Đầu Vương
Tinh Võ Tăng
Giang Tướng Tổ
…
Lam Y Đới, chỉ Đới Lập của Lam Y Xã; Phủ Đầu Vương, chỉ Vương Á Tiều của bang Búa Rìu; Tinh Võ Tăng, chỉ Tăng Kính Võ của Tinh Võ Môn; Giang Tướng Tổ, chỉ Tổ Gia của phái Giang Tướng.
Tăng Kính Võ đã bí mật thành lập một tổ chức kháng Nhật trong Tinh Võ Môn có tên là Đồng Minh Chính Giáp... Tổ chức này chuyên nghe lén tin tình báo của Nhật, ám sát người Nhật và bọn Hán gian phản quốc. Từ sau khi “Hiệp định đình chiến Tùng Hộ” được ký kết, Nhật Bản đứng vững ở Thượng Hải, biến Thượng Hải thành bàn đạp quan trọng để xâm lược Trung Hoa. Tăng Kính Võ đã cài cắm gián điệp ở Ngô Tùng, Áp Bắc – là những nơi mà người Nhật thường hay lui tới – để tìm mục tiêu và cơ hội hành động.
Sáng hôm đó, khi nhìn thấy bức mật hàm mà gián điệp ở Ngô Tùng lấy được, Tăng Kính Võ đã vô cùng kinh hãi. Điều khiến ông ta sợ không phải vì tên mình có trong danh sách đó, mấy năm nay đi theo Vương Á Tiều chống lại người Nhật, chúng không lùng giết ông mới là chuyện lạ. Nhưng người Nhật muốn giết Tổ Gia lại là điều khó mà tưởng tượng được.
Tăng Kính Võ không biết Tổ Gia đã đắc tội với người Nhật thế nào, vì thế mới vội vàng đến tìm ông để hỏi cho ra chuyện, kết quả lại được biết Tổ Gia đến tô giới Pháp. Với sự nhạy bén của một sát thủ, Tăng Kính Võ liền thấy sự chẳng lành, vội vàng kéo người đến, vì thế mới đến trước đối phương một bước, cứu được Tổ Gia.
Sau khi nghe xong, Tổ Gia trầm ngâm suy nghĩ: “Hai năm trước, ở Nam Việt, tôi có nói chuyện với một người tên là Tây Điền Mỹ Tử, nhưng khi đó không hề biết bà ta là đặc vụ, bà ta nhiều lần dò hỏi tin tức của Cửu gia, đều bị tôi nói chiếu lệ cho qua chuyện.”
Giang Phi Yến nghe thấy vậy, nói: “Lần đó Tổ Gia bất đắc dĩ mới phải đến gặp Tây Điền Mỹ Tử, để cứu nguy cho Việt Hải Đường của tôi.”
Tăng Kính Võ lúc này mới chú ý đến sự có mặt của Giang Phi Yến, lúc sáng khi đến Đường khẩu, tình hình quá gấp gáp, nên không kịp nói chuyện với bà.
“Vị này là?” Tăng Kính Võ nhìn Giang Phi Yến hỏi.
Tổ Gia liền giới thiệu: “Vị này chính là Chưởng môn Nam phái Việt Hải Đường cùng thuộc phái Giang Tướng mà tôi thường nhắc đến, Giang Phi Yến.” Rồi ông lại chỉ về phía Tăng Kính Võ: “Vị này là môn sinh tâm đắc của Cửu gia, Giáo đầu Hội quán Tinh Võ – Tăng Kính Võ.”
Tăng Kính Võ chắp tay: “Thất kính!”
Giang Phi Yến đáp lễ: “Từ lâu đã ngưỡng mộ đại danh Tăng Giáo đầu, nay may mắn được gặp.”
Lúc này, Nhị Bá đầu đang ngồi một bên, đột nhiên lên tiếng: “Tổ Gia, con trai Mai Huyền Tử vẫn còn ở đây, có phải giết chết nó không?”
Tổ Gia ngẫm nghĩ một hồi, nói: “Hình như Mai Huyền Tử không biết gì về việc ám sát lần này…”
Nhị Bá đầu nói: “Không biết ấy à? Hắn ta vừa mới hẹn Tổ Gia tới, bọn sát thủ liền đến ngay, làm gì có chuyện khéo như vậy?”
Tổ Gia nói: “Không thể nào, ai có thể đem con mình ra mà đánh cược được chứ?”
Nhị Bá đầu lắc đầu, nói to tướng: “Con trai hắn thiếu gì đâu, chết một đứa sợ gì chứ, huống hồ Mai Huyền Tử năm thê bảy thiếp, vẫn có thể đẻ được nữa!”
Tổ Gia lườm ông ta một cái, mắng: “Ngươi tìm một người mà lấy làm vợ xem. Đợi khi có con, ngươi sẽ biết thế nào là không thể.” Nói xong, Tổ Gia cho tất cả các Bá đầu lui xuống.
Sau đó, ông kể lại những lời mà Mai Huyền Tử đã nói lúc sáng cho Tăng Kính Võ và Giang Phi Yến nghe.
Sau khi nghe xong, Tăng Kính Võ nói: “Mai Huyền Tử còn có thể nói ra được những lời này hay sao?”
Tổ Gia gật đầu.
Giang Phi Yến nói: “Mấy tháng nay Mai Huyền Tử làm rùm beng như vậy, chẳng lẽ được sự ủng hộ của nhân vật lớn nào trong Quốc dân Đảng? Quốc dân Đảng muốn đánh vào các giáo phái của bọn Tây hay sao?”
Tổ Gia nhìn Giang Phi Yến nói: “Việc này cần phải nhờ Yến tỷ thăm dò thêm.”
Giang Phi Yến nói: “Dễ thôi. Gần đây tôi móc nối được một mối trong tổ chức Mật tra của Quốc dân Đảng, tên Phùng Tư Nguyên đã trở thành quân cờ của chúng tôi.”
Mắt Tăng Kính Võ sáng lên: “Yến tỷ có mối qua lại với tổ chức Mật tra ư?”
Giang Phi Yến cười: “Tất cả đều là nhờ có Kiều Ngũ Muội đã bỏ nhiều công sức kê đệm khi người còn sống.”
Tăng Kính Võ nói: “Gần đây, bọn người Nhật và bọn Quốc dân Đảng đều tìm Cửu gia, Cửu gia đang bị dồn vào tình cảnh khốn cùng, nếu Yến tỷ biết được chút động tĩnh gì bên phía Quốc dân Đảng, mong tỷ cho chúng tôi hay, để dễ bề giúp Cửu gia đề phòng trước.”
Giang Phi Yến nói: “Cửu gia là rường cột của đất nước, người trong giang hồ không ai không kính phục, bảo vệ ông ấy, trong khả năng của mình tôi sẽ không chối từ.”
Đúng lúc đang nói chuyện, quản gia từ bên ngoài hộc tốc chạy vào, vừa chạy vừa hô: “Tổ Gia! Tổ Gia! Không xong rồi! Người của Phòng tuần bổ đến rồi!”
Chưa nói dứt lời, mấy tên tuần bổ xộc vào, nhìn khắp một lượt, một tên trong số chúng hỏi: “Người nào là Tổ Gia?”
TỔ GIA BIẾN MẤT
Tổ Gia đứng lên: “Chính là tại hạ.”
“Giữa ban ngày ban mặt, dám giết người trên phố, giải đi!”
Bọn Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu vừa nghe thấy thế, lập tức từ ngoài cửa xông vào, đứng quanh Tổ Gia, quát: “Kẻ nào dám!”
Mấy tên lính tuần thấy thế, đều rút súng ra, chĩa vào đầu mọi người: “Sao? Muốn làm phản hả?”
Tổ Gia ôn tồn nói: “Chắc các vị quan nha hiểu lầm rồi. Vừa rồi tôi ngồi ăn ở khách sạn Tây Nhã, quả đúng là có đụng phải vụ nổ súng.”
“Đừng phí lời! Giải đi!”
Nhị Bá đầu bước lên trước một bước, chửi lớn: “Mẹ mày…”
Hơn mười tên lính tuần ở ngoài sân xông vào, tên nào cũng cầm súng, thoắt một cái đã bao vây tất cả mọi người.
Tổ Gia quát: “Nhị Bá đầu, lui xuống!” Rồi quay đầu nhìn Tăng Kính Võ và Giang Phi Yến, sau đó nói với tên tuần bổ cầm đầu: “Tôi đi theo các ông.”
Mãi tận đêm khuya, Mộc Tử Liên vẫn thắp đèn sáng trưng. Gió thu xào xạc, từng cơn, từng cơn lạnh giá ùa vào phòng.
Mọi người lo lắng ngồi bàn cách đối phó, đã quá giờ cơm tối, không một ai nghĩ đến chuyện ăn uống. Tăng Kính Võ đã liên lạc với tai mắt ở tô giới Pháp, nhưng vẫn chưa thấy tin tức gì.
Giang Phi Yến nói: “Tăng Giáo đầu nên lánh mặt đi, người Nhật ra tay với Tổ Gia, chẳng mấy chốc sẽ đến tìm ông.”
Tăng Kính Võ nói: “Còn chưa biết Tổ Gia sống chết thế nào, làm sao tôi có thể đi được. Mấy năm nay, tôi quần với bọn người Nhật quen rồi, ở Nam Than Khẩu tôi vẫn còn mấy chỗ ẩn náu, người Nhật nhất thời không thể tìm ra tôi được. Chỉ có điều… chỉ có điều tôi quả thực không thể cứ ngồi ở Mộc Tử Liên đợi được, một khi bị người Nhật thấy, chắc chắn sẽ liên lụy đến mọi người.”
Giang Phi Yến liền nói: “Tăng Giáo đầu đã nghĩ xa xôi rồi, tôi không có ý ấy.”
Lúc canh ba, mật thám của Tăng Kính Võ đến báo: “Tổ Gia không có Phòng tuần bổ tô giới Pháp, người này cũng hỏi thăm khắp nơi, chiều nay không có ai bị nhốt vào nhà lao.”
Tăng Kính Võ vừa nghe, thấy ngay sự việc không hay: “Sao thế được? Xảy ra án mạng trong tô giới Pháp, chắc chắn phải là người Pháp điều tra. Bọn tuần bổ hôm nay tới bắt Tổ Gia đều đeo phù hiệu của Pháp trên tay áo, sao lại không có ở Phòng tuần bổ chứ?”
Giang Phi Yến nói: “Liệu người Pháp có giao Tổ Gia cho người Nhật không?”
Tăng Kính Võ nói: “Không thể nào! Tô giới của một cường quốc đều có quyền phán quyết của một lãnh sự quán độc lập. Hai năm nay, mối quan hệ giữa Nhật – Pháp trở nên căng thẳng vì những tranh chấp ở biển Đông. Lần này người Nhật hành thích Tổ Gia ở tô giới Pháp chính là đánh lén sau lưng người Pháp, hòng quẳng cái đống đổ nát ấy cho nước Pháp.”
Mọi người đang bàn chuyện thì quản gia đi vào, nói: “Mai Huyền Tử đến.”
Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu nghe thấy thế, cơn giận bốc lên, liền chửi: “Mẹ kiếp, chúng ta đang định tìm hắn, thế mà hắn lại tự mò đến cửa!”
Giang Phi Yến nói: “Đừng nóng, xem thế nào đã rồi tính tiếp.”
Mai Huyền Tử dẫn theo hai tên đồ đệ đi vào, vừa vào đến cửa, không thấy Tổ Gia liền hỏi: “Tổ Gia đâu rồi?”
Nhị Bá Đầu đứng phắt dậy: “Tôi định hỏi ông đây!”
Giang Phi Yến nói: “Chiều nay, Tổ Gia bị người của Phòng tuần bổ dẫn đi rồi.”
“Hả?!” Mai Huyền Tử cũng giật mình.
Nhị Bá đầu nói: “Khốn kiếp, ông còn giả bộ nữa? Chính ông đã thông đồng với người Nhật ám hại Tổ Gia! Tổ Gia mà gặp phải chuyện bất trắc, bọn tôi giết thằng con ông trước!”
Mai Huyền Tử sợ vã mồ hôi, nói: “Nhị gia bớt giận, việc này tôi không hề biết gì, lúc đó tôi đang nói chuyện với Tổ Gia, tôi cũng không biết đám người xông đến kia là ai. Nếu có âm mưu, tôi sao có thể để thằng con trai tôi ở phủ Tổ Gia chứ?”
Giang Phi Yến nói: “Vậy tại sao người của sở cảnh sát không bắt Mai sư phụ? Ông cũng có mặt ở hiện trường cơ mà.”
Mai Huyền Tử nói: “Khi bắn nhau, tôi và đệ tử vội vàng trốn, sau khi chạy về đến Đường khẩu cũng rất sợ, mới tìm chỗ ẩn nấp trước, về sau không thấy động tĩnh gì, mới nghĩ lại, ở bến Thượng Hải này, chết một người cũng rất bình thường, huống hồ bọn người bị bắn chết đều không phải người Pháp… Cho nên mới đến đây tìm Tổ Gia… Đúng rồi, sao các người biết mấy sát thủ đó là người Nhật, chắc chắn chứ?”
Tăng Kính Võ nhìn Giang Phi Yến, nói: “Làm sao bọn tôi biết được ông thực sự không hay biết chuyện này, nếu ông dính dáng đến thì chết chắc đấy!”
Mai Huyền Tử thở dài: “Tôi thật sự không biết chuyện này mà!”
Nhị Bá đầu nói: “Trước khi Tổ Gia quay về, con ông cứ ở lại đây đã!”
Mai Huyền Tử sững người: “Việc này…”
Giang Phi Yến nói: “Trước khi sự việc chưa được làm rõ, chúng tôi cũng đành phải làm vậy. Nếu Mai sư phụ không còn việc gì khác, xin hãy về cho.”
Mai Huyền Tử vẫn muốn nói thêm gì đó, nhưng bị Nhị Bá đầu chặn lại, mở cửa, nói: “Mai sư phụ, xin mời!”
Mai Huyền Tử chỉ biết lắc đầu, dẫn theo thủ hạ đi.
Quá nửa đêm, Tăng Kính Võ quay về trước, Giang Phi Yến cũng bảo các Bá đầu về nghỉ ngơi.
Đêm hôm đó, Hoàng Pháp Dung ở lại bên Giang Phi Yến, hai người ngồi tựa lưng đầu giường cùng nghĩ về sự việc vừa rồi.
Hoàng Pháp Dung nói: “Mẹ nuôi, chắc không xảy ra chuyện gì với Tổ Gia chứ?”
Giang Phi Yến thở dài, nói: “Mong là không. Làm cái nghề như chúng ta là như vậy, chẳng biết ngày nào sẽ bị lật thuyền.”
Hoàng Pháp Dung nói: “Chắc không có chuyện gì đâu, con từng xem tướng mặt Tổ Gia, sơn căn thẳng tắp đến chuẩn đầu, vận ở tuổi trung niên rất khá, ít nhất cũng phải thọ ngoài ngũ tuần…”
Giang Phi Yến uể oải mỉm cười: “Con nhóc này, giờ là lúc nào rồi, còn nghĩ đến mấy thứ này.”
Hoàng Pháp Dung chớp chớp mắt nói: “Mẹ nuôi, nếu lần này Tổ Gia còn sống trở về, con sẽ…”
Giang Phi Yến nhìn con gái nuôi hỏi: “Sẽ sao nào?”
Hoàng Pháp Dung nhoẻn miệng cười: “Con sẽ tâm sự hết mọi chuyện với ông ấy.”
“Tâm sự?”
Hoàng Pháp Dung không cười nữa, vẻ mặt ưu sầu nói: “Mẹ nuôi, có vài chuyện, con không biết có nên nói ra hay không, cũng không biết có nên nói với người không.”
Giang Phi Yến nhìn đứa con gái nuôi của mình, ôm vào lòng: “Con nhóc này, có chuyện gì mà không thể nói với mẹ nuôi?”
Hoàng Pháp Dung liền ngả vào lòng mẹ, nước mắt rơi cả xuống chăn: “Mẹ nuôi, con biết mẹ và Tổ Gia đều muốn tốt cho con, gả con cho Trương Tự Triêm, nhưng… nhưng…”
“Nhưng gì nào?” Giang Phi Yến nhận thấy dường như Hoàng Pháp Dung đã phải chịu nhiều ấm ức trong lòng.
“Nhưng… Con cảm thấy chúng con không hợp nhau…”
“Hừm?” Giang Phi Yến ngẩn người ra: “Xảy ra chuyện gì rồi?”
“Tính khí anh ta rất khó chịu, việc gì cũng nghĩ bế tắc tiêu cực, không còn cái bộ dạng cởi mở như lúc đầu mới gặp con nữa, con cảm thấy chúng con lấy nhau quá vội vàng. Hơn một năm nay, những trận cãi vã lớn nhỏ giữa chúng con đến mười mấy lần rồi, dường như anh ta không biết thương yêu vợ mình thế nào cả… Con lớn hơn anh ta một tuổi, việc gì cũng phải nhường nhịn, hơn nữa… hơn nữa con cảm thấy anh ta việc gì cũng rất cứng nhắc, không quyết đoán, không có dã tâm, vậy còn nói chuyện gì nữa?”
“Ừm…” Giang Phi Yến không biết phải nói gì “Hôn sự này… Hôn sự này do ta và Tổ Gia làm chủ… Như thế này vậy, mai ta sẽ nói chuyện với Tự Triêm.”
“Chẳng ích gì đâu. Anh ta vẫn là anh ta thôi.”
Giang Phi Yến ôm Hoàng Pháp Dung chặt hơn.
Một lúc lâu sau, Hoàng Pháp Dung thì thầm: “Nếu lúc đầu con được gả cho Tổ Gia thì hay biết mấy.”
Giang Phi Yến rùng mình: “Con nói cái gì?!”
Hoàng Pháp Dung bị hành động của Giang Phi Yến làm cho giật mình, ngơ ngác: “Mẹ nuôi, mẹ sao vậy? Con chỉ nói với một mình mẹ thôi, không hé răng với bất kỳ một ai khác… Tổ Gia mới là người đàn ông mà con mong đợi trong lòng, ông ấy quyết đoán, trí tuệ, có thể nhìn thấu tâm tư phụ nữ…”
“Đừng nói nữa!” Giang Phi Yến nổi giận.
“Mẹ sao thế, mẹ nuôi?” Hoàng Pháp Dung sợ hãi hỏi.
Giang Phi Yến bình tĩnh lại một chút: “Con nhóc này, chuyện tình cảm không phải chuyện nhỏ đâu, quốc có quốc pháp, gia có gia quy. Quy định của phái Giang Tướng chúng ta, huynh đệ tư thông với vợ người khác, giết không tha. Con không thể làm hại mình như vậy được, càng không thể làm hại Tổ Gia mang tiếng bất nghĩa.”
Hoàng Pháp Dung nói nhỏ: “Con chỉ nghĩ trong lòng vậy thôi, cũng biết là không thể.”
Giang Phi Yến do dự một lúc, hỏi: “Tổ Gia có biết chuyện này không? Phản ứng của ông ấy thế nào?”
Hoàng Pháp Dung nói: “Tổ Gia tâm tư kín đáo, vui giận không biểu hiện ra mặt. Ông ấy luôn khuyên con và Tự Triêm sống tốt, không biết ông ấy không biết thật, hay là giả vờ.”
Giang Phi Yến gật đầu, nói: “Nhóc con, mẹ nuôi mong con luôn được hạnh phúc, bình an, con không được làm việc gì sai trái, nếu không đến lúc đấy mẹ nuôi cũng không cứu được con đâu.”
Hoàng Pháp Dung buồn bã nói: “Con biết rồi.”
Hai mẹ con họ ôm lấy nhau, không ai nói gì, chỉ yên lặng ngồi ngắm ánh trăng ngoài song cửa.
Mãi lâu sau, Hoàng Pháp Dung nói: “Mẹ nuôi, nếu lần này… Con nói là ngộ nhỡ Tổ Gia ông ấy…”
Giang Phi Yến nói: “Con định nói, ngộ nhỡ Tổ Gia bị hại thì phải làm thế nào chứ gì?“
Hoàng Pháp Dung gật gật đầu.
Giang Phi Yến không trả lời thẳng, chỉ hỏi ngược lại Pháp Dung: “Theo con, nên làm thế nào?”
Hoàng Pháp Dung nói: “Thường ngày, Tổ Gia không hề nhắc đến chuyện người kế nhiệm thầy. Nếu thầy không còn, trong số các Bá đầu, có Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu đi theo ông ấy được lâu nhất, nhưng Đại Bá đầu hữu dũng vô mưu, Nhị Bá đầu tính tình hấp tấp, nóng nảy, Tự Triêm vừa được lên làm Tứ Bá đầu, chưa có chỗ đứng chắc chân, Ngũ Bá đầu tuổi già sức yếu, chỉ có Tam Bá đầu phong độ ngời ngời, có tri thức lại hiểu lễ nghĩa, không biết các bá đầu khác có phục không… Nhưng vẫn còn một cách làm khác hay hơn…”
Giang Phi Yến hỏi: “Cách gì?”
Hoàng Pháp Dung cười ranh mãnh, nói: “Thế lực của Mộc Tử Liên lớn vậy, lại vẫn thuộc phái Giang Tướng, nếu Tổ Gia mất, mẹ nuôi là bậc trưởng bối, thường ngày các huynh đệ của Mộc Tử Liên đều có ấn tượng rất tốt với mẹ nuôi, ngay cả Tổ Gia cũng tôn trọng gọi là Yến tỷ, mẹ nuôi có thể…”
Giang Phi Yến trừng mắt nhìn Hoàng Pháp Dung hỏi: “Có thể sao?”
“Mẹ nuôi có thể dùng cách lôi kéo, đánh gục từng Bá đầu một. Đại Bá đầu ham mê rượu chè cờ bạc, mẹ nuôi chỉ cần cho ông ta tiền để đánh bạc, uống rượu là được; Nhị Bá đầu háo sắc, mẹ nuôi chỉ cần chấm cho mấy cô nương trong kỹ viện, cho ông ta vui vẻ là đủ; chỗ Tự Triêm để con lo, huống chi người còn là nhạc mẫu của anh ta, anh ta không thể nào lại tỏ thái độ phản đối; Ngũ Bá đầu già yếu lại bị thương, phải tự lo cho mình nên không có thời gian rảnh rỗi, càng không phải người có thể làm mưa làm gió; chỉ còn Tam Bá đầu, người này có lẽ sẽ bật lại, nhưng nếu các vị Bá đầu khác đều theo mẹ nuôi, mẹ nuôi lại cho anh ta nhiều lợi ích hơn, anh ta thông minh, cũng sẽ biết giới hạn… Sau khi việc thành rồi, Mộc Tử Liên và Việt Hải Đường sẽ hợp lại thành một, mẹ nuôi có thể đặt một phân đà ở đây, con gái có thể lo liệu giúp người. Như vậy, không những có thể giữ gìn hương hỏa cho Mộc Tử Liên của phái Giang Tướng, mà còn có thể làm cho thế thế lực Việt Hải Đường hùng mạnh, về sau Tứ đại Đường khẩu họp đại đường hội, tiếng nói của mẹ nuôi càng có trọng lượng hơn.”
Giang Phi Yến nhìn chằm chằm vào đứa con gái nuôi của mình, thấy nó quá đỗi khôn ranh, đến nỗi khiến người ta phát sợ. Mãi lâu sau, bà mới nói: “Nhất phái cái gì, chỉ ăn nói bậy bạ?”
Hoàng Pháp Dung ngẩn người: “Sao vậy, mẹ nuôi, con gái đâu có nói gì sai?”
Giang Phi Yến nói: “Giờ Tổ Gia còn chưa biết sống chết thế nào, con lại dám nói bậy nói bạ, gia pháp chờ sẵn con rồi đấy!”
Nhưng từng ngày từng ngày trôi đi, các mối quan hệ có thể tìm đều đã sử dụng, Tăng Kính Võ và Giang Phi Yến huy động tất cả mọi mối quen biết phía quan lại, đặc vụ, xã hội đen, vẫn không tìm ra được chút tin gì của Tổ Gia.